Những bài cùng tác giả
Bài 1 :
Nước và sắc đẹp
Bài 2 :
Nước trong cơ thể sống
Bài 3 :
Những phương pháp lọc nước phổ
biến
Bài 4 :
Vai trò của nước trong mỹ phẩm
Bài 5 :
Nước và cơ thể - Một mối quan hệ
kỳ diệu
Bài 6 :
Nước và huớng phát
triển của kỹ thuật xử lý -Từ cách nhìn của một nhà sản xuất Nhật Bản
NƯỚC (H2O) LÀ GÌ ?
Khoa học đã chứng minh sự sống phát sinh từ nước. Các nhà khoa học đã tính
được tuổi của trái đất khoảng 4,6 tỷ năm và sinh vật nguyên sơ là đơn bào đã
xuất hiện khoảng 3,6 tỷ năm trước. Bầu khí quyển bao bọc địa cầu lúc bấy giờ
so với ngày nay rất loãng nên tia tử ngoại trong ánh sáng mặt trời đã chiếu
rọi liên tục, rất mạnh vào trái đất. Chính vì thế mà từ rất xa xưa, có nhà
khoa học đã cho rằng sự sống chỉ có thể phát sinh và tồn tại trong nước mà
thôi. Con người đã hình thành từ qui luật vận động và phát triển không ngừng
của thế giới tự nhiên trong suốt thời gian kể từ lúc có đơn bào đến ngày
nay. Cơ thể con người, phần nước chiếm khoảng 60% trọng lượng riêng và trẻ
sơ sinh có hàm lượng nước đến gần 80%. Cuộc sống, sinh hoạt thường ngày của
con người rất gần gủi với nước cho nên ai cũng cảm thấy đã hiểu được nó,
không có gì để thắc mắc, nhưng khi đặt câu hỏi “nước là gì ?" thì hình như
chưa có một câu trả lời trọn vẹn.
Cách đây vào khoảng 2.500 năm, Thalès (625 - 547 BC), nhà hiền triết Hy Lạp
đã phát biểu: “ Vạn vật đều là nước” vì ông cho rằng hình dạng của mọi vật
chất đều khác nhau do hình thù của nước thay đổi. Khoảng 100 năm sau Thalès,
một triết gia Hy Lạp khác là Empédocle (480 - 420 BC) lại cho rằng vạn vật
gồm những nguyên tố cơ bản tạo ra đất, không khí, lửa và nước, chủ trương
tất cả vật chất trên trái đất là do sự tổng hợp hay phân ly của 4 nguyên tố
cơ bản ấy, rằng “Vật nóng ẩm sẽ kết dính với vật nóng ẩm”. Các triết gia Hy
Lạp thời đó đã tìm cách giải thích các hiện tượng tự nhiên khi thấy ở đâu
cũng có nước. Họ cho rằng nước là hơi thở của sự sống khi thấy hạt gieo vào
đất và tưới nước thì nẩy mầm và sinh trưởng dần dà thành cây cỏ. Trong suốt
1.000 năm sau thời cổ đại Hy Lạp, người ta cho nước là nguyên tố và sự lý
giải đó kéo dài đến thế kỷ thứ 17 khi nhà hóa học người Bỉ là bác sĩ
Jean-Baptiste Van
Helmont (1577 - 1644) thực hiện một cuộc thử nghiệm trồng cây liễu để chứng
minh luận thuyết của thời Hy Lạp, vì ông đinh ninh rằng nước đã biến thành
cây, nhưng cuối cùng điều bất ngờ là chính ông lại tìm thấy có carbonic (CO2)
trong không khí mặc dù vào thời bấy giờ, các nhà khoa học chưa biết đến phản
ứng quang hợp mà lá cây thực hiện bằng ánh sáng mặt trời như thế nào. Lý
luận về 4 nguyên tố cấu thành vật chất được tin tưởng cho đến hậu bán thế kỷ
thứ 18 và khi người ta đem nước chưng cất, hơi nước bốc hết thì phát hiện có
cặn (chất không bốc hơi) còn lại dưới đáy bình, đưa ra thuyết “Đất do nước
chuyển hóa nên”. Nhà bác học người Pháp
Lavoisier (1743 - 1794) lần đầu tiên
phủ định học thuyết này bằng “thử nghiệm Pélican”. Ông dùng loại bình mà
những thợ rèn dùng luyện kim, bịt kín, đun đi đun lại trong 101 ngày một
lượng nước và thấy rằng trọng lượng nước không thay đổi, còn lượng cặn đóng
trong đáy bình lại là phần cặn bị cháy đen trong thời gian đun, từ đó kết
luận “nước không thành đất” được. Thí nghiệm Lavoisier đã chứng minh được
nước không phải là một nguyên tố và chính ông đã đưa ra bảng phân loại
nguyên tố đầu tiên vào năm 1789 vào lúc Cách mạng Pháp bùng nổ và là người
đặt tên cho hydrogen, oxygen, các chất mà các nhà khoa học tiền bối còn lúng
túng. Vậy nước là do cái gì tạo ra ? Ngày nay ai cũng biết nước là H2O,
gồm có 2 phân tử hydrogen và 1 phân tử oxygen kết lại, nhưng để đến được kết
luận này, các nhà bác học đã phải trải qua một quá trình thử nghiệm và tranh
cãi để tìm ra sự tồn tại của oxygen, hydrogen, sự kết hợp và phân giải của
nước : Robert Boyle (1627 - 1691) người Anh tìm ra hydrogen qua thí nghiệm
đổ acid vô cơ vào kim loại thép, Henry Cavendish (1731 - 1810) cũng xác nhận
ra hydrogen là một loại khí dễ bốc cháy trong thí nghệm khi đổ acid nitric
lên kẽm vào năm 1766, sau đó là đến Carl Wilhelm Scheele
(1742-1786) người Thụy Điển, tìm ra “không
khí trong lửa” (oxygen) vào năm 1771 - 1772.
Năm 1783, H. Cavendish làm nhiều thí nghiệm hỗn hợp (synthèse) để tìm ra cấu
tạo của nước và Lavoisier cũng thực hiện thí nghiệm tương tự bằng cách cho
vào một bồn bịt kín một hỗn hợp oxygen và hydrogen và đốt lên bằng điện để
thu được một lượng nước tương ứng. Từ đó người ta đã xác định được rằng nước
không phải là một nguyên tố mà là một hợp chất gồm hydrogen và oxygen. Sau
đó, vào năm 1785, Lavoisier lại phân giải nước bằng cách đổ nước lạnh vào
một ống thép trui cháy đỏ, thì nước bị phân hủy, khí H2 bốc ra và phần
oxygen còn lại phản ứng với thép để tạo thành oxyd sắt. Nhưng tại sao nước
lại có cấu tạo được ghi là H2O thì đây lại là một vấn đề khác,
thuộc lý luận về nguyên tử của nguyên tố. Démocrite (460 - 370
BC) cho rằng tất cả vật chất là do những nguyên tử (atom)
tạo ra, đồng thời là phần bé nhất, không thể chia cắt được, hoàn toàn không
có một lỗ hổng nào và cũng không thể ép nhỏ lại được. Ông còn cho rằng, về
chất thì nguyên tử của nước hay của thép đều giống nhau, sở dĩ hình thù khác
nhau là vì nguyên tử của nước có hình tròn, có thể bám và xoay quanh nhau
được, còn nguyên tử của thép lại xù xì nên bám rất chặt, điều đó làm cho
thép cứng hơn. Ông tổ của lý luận về nguyên tử hiện đại là John Dalton (1766
- 1844), là một nhà bác học người Anh đã dùng những thí nghiệm hóa học để
lập luận về nguyên tử, xác nhận trọng lượng của hydrogen / oxygen trong nước
là 141/3 / 851/3 , tức theo tỷ lệ “1 hydrogen đối 6 oxygen” để từ đó kết
luận rằng, trọng lượng của một nguyên tử oxygen nặng gấp 6 lần hydrogen (tất
nhiên với trình độ nhận thức hiện nay thì đây là một sự nhầm lẫn). Khác với
Dalton, nhà bác học người Pháp, Gay Lussac đã tìm cấu tạo của nước theo “tỷ
lệ về thể tích” chứ không phải theo “tỷ lệ về trọng lượng”. Ông cho rằng, tỷ
lệ thể tích giữa H và O là 1,998, hay 1 đối với 2 : 1, tức là hydrogen có 2
và oxygen có 1 thể tích. Kết luận này đã đưa đến một sự tranh cãi liên tục
về học thuật giữa các phái người Anh và người Pháp, mãi cho đến khi Avogadro
(1776 - 1856), một bác học người Ý đưa ra lý luận thành phần đơn vị của
nguyên tố dạng khí như H và O là “nguyên tử không thể chia cắt”, tức kết hợp
nhiều nguyên tử lại với nhau. Avogadro giải thích nước bao gồm 2 thể tích H
và 1 thể tích O gộp lại.
   
Lavoisier
Avogadro
Dalton
Thalès
Và từ đó, nhờ Avogadro mà nước được biểu hiện bằng ký hiệu H2O
cho đến ngày nay. Nhưng dù được biểu hiện bằng phân tử H2O nhưng
một dung dịch nước có cấu tạo vô cùng phức tạp, không phải chỉ là một chuỗi
H2O. Lý do là một phân tử nước bao gồm 2 nguyên tử oxygen và 1
nguyên tử hydrogen.

|
|
|
Phân tử nước
|
Các
phân tử nước nối với |
nhau bằng nối hydrogen |
Nguyên tử oxygen có bán kính 0.1 nanometre (1 nanometre = 1/ tỷ metre) và
hydrogen là 0.12nm. Nếu 2 nguyên tử hydrogen và oxygen đứng sát nhau thì
khoảng cách giữa 2 phần là 0.26nm (2 bán kính cộng lại) nhưng thực tế chỉ có
0,096nm, tức 2 nguyên tử bám sâu vào nhau, nhờ vậy phân tử H2O có
dạng gần như hình cầu với đường kính vào khoảng 0,28nm. Oxygen mang điện
tích âm thu hút điện dương của nguyên tử hydrogen, vì vậy trong một phân tử
H2O luôn có 2 loại điện tích tác động lẫn nhau (lưỡng cực), nhờ
vậy các phân tử luôn nhờ khớp nối hydrogen tạo thành một quần thể gồm nhiều
phân tử H2O kết hợp điện tích âm - dương ổn định. Độ sôi (điểm
sôi) và điểm đông đặc của H2O cao hay nhiệt lượng bốc hơi của H2O
lớn chính là đặc điểm của khớp nối hydrogen. Điều này cũng có thể thấy ở
đường khi hòa tan trong nước thì phân tử H2O kết hợp với gốc -OH
(hydroxyl) có nhiều trong đường một cách dễ dàng. Các loại DNA di truyền
trong cơ thể con người sẽ chỉ tự tái tạo một cách dễ dàng được chính cũng
nhờ sức hút H2O, kéo về phía mình để kết hợp nhiều khớp nối hydro
tạo ra sự sống cho tế bào.
H216O |
99.76 |
H218O |
0.17 |
H217O |
0.037 |
HD16O |
0.032 |
HD18O |
0.00006 |
HD17O |
0.00001 |
D216O |
0.000003 |
D218O |
0.00001 |
D217O |
0.00001 |
Nước thiên nhiên, như bảng ghi bên cạnh, là một hỗn hợp gồm có 9 loại trong
đó H2 16O là chủ yếu. Nếu nhiệt độ của nước bị giảm thì mật độ của H2O
càng tăng, đến 4°C là mật độ cao nhất, nhưng khi nhiệt độ giảm qua mức này
thì mật độ của H2O lại giãn ra. Vì thế ở 0°C, nước sẽ đông đặc và
tỷ trọng nhẹ hẳn, hoàn toàn ngược lại với các loại dung dịch khác (khi nhiệt
độ giảm thì mật độ tăng, khi chuyển từ thể lỏng sang thể rắn thì mật độ càng
lên cao hơn). Chính vì thế, nước bề mặt trong ao hồ vào mùa đông có mật độ
cao do thời tiết lạnh tác động; chìm dần xuống đáy ao hồ và nước dưới đáy hồ
không lạnh bằng sẽ trồi lên, tạo ra một nhiệt độ ổn định khoảng 4°C vì vậy
cho dù bề mặt nước ao hồ có bị đóng băng đi nữa, cá và các sinh vật vẫn có
thể sống và phát triển bình thường.
Trong phân tử nước, điện ở cực âm của nguyên tử oxygen mạnh hơn điện ở cực
dương của hydrogen cho nên cặp điện tử kết hợp tạo nối giữa nguyên tử oxygen
và nguyên tử hydrogen nghiêng về phía nguyên tử oxygen hơn, chính vì vậy mà
nguyên tử oxygen mang điện tích âm (-) trong khi nguyên tử hydrogen mang
điện tích dương (+). Góc nối giữa
nguyên tử oxygen và nguyên tử hydrogen là 104°50 , vì vậy trọng tâm của
phần điện dương không đồng tâm với phần điện âm do đó phân tử nước là một
phân tử phân cực và vận động theo một moment quán tính song cực. Bởi lý do
đó nước là một dung dịch tập hợp nhiều phân tử nước nhưng không phải rời rạc
mà được nối liền bởi nhiều khớp nối hydrogen tạo thành (H2O)n ,
trong đó con số n thay đổi rất dễ dàng bởi nhiệt độ hay một điều kiện khách
quan từ bên ngoài tác động, vì vậy cấu tạo của nước không ổn định như thể
rắn.
Độ sôi của nước là 100°C và độ nóng chảy là 0°C trong khi những chất có phân
tử lượng bằng nước lại có độ sôi là -80°C và nóng chảy là -100°C, điều này
cho thấy độ bền của những khớp nối của những phân tử hydrogen trong dung
dịch nước. Từ kết quả phân tích bằng X-quang dung dịch nước, người ta khảo
sát thấy có 4.4 phân tử nước bao quanh 1 phân tử nước khác, cao hơn 10% cấu
tạo của nước đá (cứ 1 phân tử nước có 4 phân tử khác bao quanh). Nếu tính
thể tích của những phân tử H2O trong một dung dịch nước thì cao
nhất chỉ chiếm đến 38%, 62% còn lại là những khoảng trống chính vì thế mà
dung dịch nước là một thể lỏng có cấu tạo với nhiều lỗ hổng. Khi thí nghiệm
để xác định điều đó, người ta lấy 10 ml nước pha với 5 ml nước khác thì tổng
cộng là 15 ml, nhưng nếu cho 5 ml ethanol vào 10 ml nước thì thể tích tổng
cộng chỉ còn 14,6 ml, có nghĩa là ethanol đã chui lọt vào những khoảng trống
của cấu tạo phân tử H2O hay nói khác đi là cấu tạo của nước đã
thay đổi khi ethanol được thêm vào.

Rượu trộn với nước làm giảm thể tích
Nhiệt độ là một yếu tố vô cùng quan trọng tác động vào hoạt động của nước.
Thí dụ một trong những điều kiện làm cho nước uống trở nên ngon hẳn là nhờ
vào độ lạnh, nhất là uống nó vào mùa hè. Nước ngon khi có nhiệt độ dưới
20°C, nhất là vào khoảng 10 - 15°C. Nước ngon là do vẻ "lạnh" hay là khi
nhiệt độ nước hạ thì cấu tạo của nước thay đổi, “biến chất” làm cho người ta
cảm thấy ngon hơn bình thường thì chưa ai giải đáp được. Đấy cũng là sự
huyền bí của nước vậy.
Thông thường thì bất cứ một thể rắn nào cũng có cấu tạo rõ ràng, trong khi
một dung dịch (thể lỏng) thì lại không có cấu tạo rõ rệt như thể rắn, cho
nên nói chung là rất khó xác định được cấu tạo của nước ở thể lỏng. Trên
thực tế có nhiều vật thể ở dạng dung dịch nhưnng có loại dung dịch ở mức
không thể xem xét cấu tạo; nước lại là một dung dịch có thể xác định được ở
một mức độ nhất định. Cho đến nay, nhiều nhà khoa học nghiên cứu về lĩnh vực
này đã biết khá rõ nhiều loại cấu tạo của nước tồn tại dưới dạng lỏng nhưng
nhận thức về sự khác nhau về cấu tạo của nước chưa được chú ý lắm, mặc dù
nhờ sự khác nhau này mà tốc độ của những phản ứng hóa học cũng sẽ nhanh chậm
khác nhau khi dùng nước làm chất xúc tác (dung môi). Rõ ràng thực tế đã cho
thấy nếu sử dụng nước đã được xử lý bằng từ tính cho thực vật (cây cỏ) thì
mức sinh trưởng của cây cỏ sẽ nhanh hơn, mầm sẽ nẩy nở khoẻ hơn và loại nước
này cũng ngăn chặn rất có hiệu quả sự đóng cặn làm hoen rỉ đường ống. Tác
dụng này tương tự như việc chúng ta cho một dòng điện cực tiểu vào nước. Để
giải thích lý do tại sao như vậy thì phải xem xét khả năng thay đổi nào đó
về chất của nước, hay nói một cách dễ hiểu và thuyết phục nhất là sự thay
đổi về cấu tạo của nước trong quá trình tác động vào vật thể.
SỰ VẬN ĐỘNG VÀ NHỮNG ĐIỀU KỲ DIÊU CỦA NƯỚC
Trong cơ thể con người, nước đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong những
phản ứng sinh học, xảy ra chuyển hóa từ thấp đến cao do phân giải và tổng
hợp liên tục tạo ra sự sống.
Mỗi ngày cơ thể chúng ta cần khoảng 2,5 lít nước và bài tiết qua nước tiểu,
mồ hôi hay phân một lượng tương ứng nhưng số lượng nước được lọc qua thận
mỗi ngày là 180 lít và thận lọc liên tục 6 lần /ngày, điều này cho thấy cơ
thể con người là một nhà máy lọc nước hoạt động không ngừng trong đó nước
luân chuyển và kiểm tra hoạt động của các tế bào, chất protein, enzyme và
nucleic acid, qua đó điều chỉnh chức phận của các cơ năng. Nước trong cơ thể
được chia làm 2 loại chủ yếu, phần dịch ngoài tế bào và phần dịch trong tế
bào. Phần dịch nằm ngoài tế bào luôn luôn được bao bọc và kết dính với da
hay các tổ chức khác trong cơ thể bằng những cấu tạo lập thể, còn phần dịch
trong tế bào để tạo nên sự sống. Phần ngoại dịch giảm dần cho đến 30 tuổi
thì ổn định nhưng phần nội dịch luôn giảm rất nhanh và ngày càng ít theo tốc
độ lão hóa của cơ thể.
Những ion chủ yếu trong nội dịch tế bào là Na+, Mg+, K+, Ca++, Cl
-,
HCO3-... có cấu tạo giống như hình vẽ dưới đây và được bao bọc bởi một màng
tế bào (màng sinh chất) nhưng lượng nước trong tế bào chiếm vào khoàng 70%,
ngoài ra là các chất protein, nucléic acid, các chất đường phức hợp và chất
điện giải luôn tác động qua lại với nước để duy trì hoạt động. Phân tử nước
bao quanh các protein và quay với tốc độ cực nhanh, từ 10-6 - 10-12 giây ,
hay nói khác đi, chất protein hòa tan trong nước và giữ được trạng thái ổn
định trong tế bào.
Như mọi người đều biết, sự sống tồn tại dựa vào hoạt động liên tục của
nguyên sinh chất và cơ sở tạo ra nguyên sinh chất là protein. Những protein
kết hợp với nhau thành những chuỗi trong một hệ thống tổ chức chặt chẽ để
tác động với những chất khác trong nguyên sinh chất tạo ra sự sống, liên tục
hoạt động, liên tục đào thải và sản sinh trong quá trình tiến hóa nhờ DNA và
RNA, hay nói khác đi, protein được tổng hợp lại thành những chuỗi Protein có
khả năng tạo ra sự sống, trong đó nước đóng một vai trò rất quan trọng trong
quá trình chuyển hóa và trao đổi chất trong tế bào cũng như giữa tế bào và
vật thể trong cơ thể.

Nhờ H có dương tính
và O có âm tính nên nước liên tục phản ứng với các chất vô cơ hay protéin
trong tế bào để tạo ra các loại muối và các hợp chất hữu cơ, đồng thời nhờ
sức căng của nước vốn có tính lưỡng cực mà máu trong cơ thể vận chuyển một
cách điều hòa ngoài sự co bóp của tim. Khi chúng ta thở tức
là thải CO2
(khí
Carbonic)
ra ngoài và điều này được giải thích bằng công thức hóa học như sau:
CO2
+ H2O
Þ
H2CO3
Þ
H+ + HCO3 -

Phản ứng oxyd hóa qua lại càng mạnh khi chúng ta vận động, tức khí CO2
sẽ
được thải ra nhằm điều hòa độ pH trong cơ thể, vì khi hoạt động mạnh thì cơ
thể trở nên acid. Ngược lại, khi cơ thể mang tính kiềm (tức độ pH dưới 7)
thì nhịp thở sẽ chậm lại để giữ lại CO2
cần thiết để hạ độ pH.
Trong các polymer sinh học, có cấu tạo cơ bản với R là gốc của nhiều loại
acid amin trong đó cấu tạo acid amin, đơn giản nhất R = CH3
.
R = H => Glycine
R = CH3
=> Alanine
R = CH2 - COO => Asparagine
Acid amin có cấu tạo phức hợp thành những chuỗi ngoằn ngoèo như hình vẽ, có
khi bị biến thể nhưng lúc nào cũng tập trung lại thành một tổ hợp protein
bằng những khớp nối lỏng lẻo dễ bị phân hủy, hay điện giải. Cấu tạo phức hợp
của protein được ổn định trong môi trường của cơ thể (tế bào) nhờ bản chất
“ái thủy” vì trong cấu tạo của acid amin có sẵn một gốc sẵn sàng kết hợp một
cách dễ dàng với các acid amin khác nhờ sức kéo của H+. Khi khảo
sát tác động qua lại (thẩm thấu) giữa protein và nước thì người ta thấy các
phân tử nước bọc quanh protein, vì vậy khi nhiều acid amin kết hợp thì giữa
chúng là những phân tử nước với gốc - OH của acid amin luôn ở ngoài và dễ
kết hợp với H+ như gốc - OH của các loại alcohol. Những phân tử H2O
này chạy chung quanh protein với một tốc độ 10-6 giây (1/1.000.000 giây) ở
lớp thứ 1 và lớp thứ 2 lên đến 10-9 giây và lớp sau lại càng nhanh hơn, đến
10-12 giây.
Ở cấu tạo cấp 1 của protein trong cơ thể, các ribosome sẽ kết với các m -
RNA (di truyền thông tin) để thu nhận các nguồn thông tin di truyền để tạo
thành một chuỗi protein và khi thu nhận đủ (m) sẽ tạo ra một protein mới
tách ra theo tốc độ khác nhau tùy theo từng loại chất acid amin có khi vài
giây và có loại phải mất đến 2 - 3 phút, ở protein có cấu tạo cấp 1 thì cứ
một acid amin sẽ kết hợp với một phân tử H2O nhưng phân tử H2O
này lại hoạt động nhiệt tích cực để hòa tan với những phân tử nước khác bên
cạnh. Khi hai acid amin kết hợp với nhau sẽ sinh ra một gốc kết hợp peptide
[ - CONH - ]. Khi protein rời khỏi ribosome từ protein cấp 2 sẽ chuyển sang
cấp 3 tạo thành một tổ hợp mới hình tròn, những phân tử H2O bọc
quanh protein sẽ bị đẩy ra ngoài và H2O lại bọc quanh lại lớp bên
ngoài của protein nhờ tác dụng bảo vệ của nước mà protein luôn được ổn định.

Phản ứng
giữa Glycine và Alanine cho thấy một phân tử H2O bị đẩy lùi
ra ngoài nhường chỗ cho một khớp nối peptide hình thàn, vì vậy sự ra đời
của H2O luôn là nguồn thúc đẩy các phản ứng kết hợp acid
amin.
Các acid amin có thể kết hợp với nhau bởi khớp nối peptide mang tính ái thủy
rất mạnh như các gốc -NH2, -COOH. Nhiều acid amin được kết hợp chồng chéo
tạo ra lipid là một chất béo cung cấp năng lượng cho tế bào. Nước nằm giữa
những protein hay chất cao phân tử phức hợp mang tính ái thủy mạnh cho nên
bản thân nước tự do (trong tế bào). Tốc độ tịnh tiến và quay của H2O
nhanh dần khi càng xa các protein (xem hình vẽ). Ở lớp ái thủy A, tốc độ là
10-5 giây thì ở lớp B là 10-9 giây và ở lớp C 10-12 giây (14.2 p 274). Hơn
thế nữa, phân tử nước còn mang tính lưỡng cực (về điện tích), vì vậy rất dễ
hòa tan các chất mang điện (ion) nhưng lại không hòa tan với các chất carbon
hữu cơ no không có điện. Nhờ vào tính cách này mà nước có thể tồn tại cùng
với các protein để duy trì hoạt động của sự sống.. Nếu như nước cũng có thể
hòa tan với các chất không có ion (tĩnh điện) thì các chất đạm (protein)
không thể giữ được những cấu tạo ổn định (tròn xoắn) để phát huy chức năng
chuyển hóa của nó trong cơ thể sống. Hay nói khác đi là sự sống sẽ không tồn
tại ngay từ đầu nếu nước có thể hòa tan với bất cứ một acid amin hay protein
nào trong tế bào. Nước là nguồn cung cấp năng lượng để các acid amin có thể
chuyển hóa từ thấp đến cao. Chính vì thế mà cũng có người cho rằng nước là
“cái nôi” của sự sống. Nước chiếm hơn 60% trong thể trọng của con người,
không những tác động để cơ thể tiếp thu dưỡng chất, thúc đẩy tiêu hóa,
chuyển dịch bài tiết mà còn là chất trung gian để các tế bào, hormone, acid
amin, muối luôn được cân bằng, điều tiết áp suất thẩm thấu và nhiệt độ...
tức những hoạt động chuyển hóa trong quá trình trao đổi chất và tuần hoàn
của các cơ quan chức phận trong cơ thể, đồng thời còn giúp cho cơ thể điều
hòa và ổn định đối với môi trường bên ngoài khi chịu tác động về thời tiết,
ô nhiễm, môi trường.

Prion, một
protein
Ở Bài 1 “Nước và Sắc đẹp”, chúng ta đã xem xét qua vai trò của nước ở các
lớp tế bào da, trong đó điều được nhấn mạnh là “độ ẩm của da” hay các nhân
tố tạo nên độ tươi mát (ẩm) của da (NMF) chính là nhờ nước. Chúng ta thấy có
sự hiện diện của Lipid (chất dầu) trở thành một màng mỏng bao bọc bảo vệ
hoạt động của các tế bào bên trong biểu bì, trong đó vai trò của các acid
amin liên tục chuyển hóa và phát triển, cuối cùng được đào thải ra ngoài khi
hết tác dụng (sừng hóa). Vai trò của nước tự do bên ngoài tế bào hay ở sinh
chất trong tế bào đều giữ đúng chức năng lưỡng cực của nó, vừa là chất thúc
đẩy các phản ứng sinh học phát sinh - đào thải vừa là chất cân đối cho quan
hệ chuyển hóa giữa các protein. Hoạt động diệu kỳ đó của nước ở các tầng tế
bào da (trên da mặt) thể hiện rất cụ thể mà chúng ta có thể thấy được, nếu
thiếu nó thì da bị khô, nhờn, nhăn nám hay nổi mụn. Mặt khác, trong phần
trao đổi với Tiến sĩ Yui Takeo dưới đây, chúng ta càng ngạc nhiên hơn khi
hiểu được vai trò của thận trong việc lọc các độc chất từ bên ngoài vào cơ
thể, quan hệ giữa muối và nước trong khi hấp thụ để cân đối huyết mạch và
bài tiết.
Thiếu nước, cơ thể sẽ ngừng hoạt động là điều ai cũng biết, chỉ cần cơ thể
thiếu 12% nước thì “sự chết” sẽ đến gần vì các H2O cơ phận trong
con người không còn năng lượng để vận động nhưng điều này chỉ có thể cảm
nhận khi chúng ta khát nước hay có dấu hiệu “khô héo” (trên da mặt, trong
bài tiết...). Đối với những người bị suy thận (hay hỏng thận) thì việc lọc
và bài tiết chất độc lại càng cấp thiết, cần đến những thiết bị lọc thận
nhân tạo, trong đó nguồn nước được đưa vào máu để lọc lại là một kỹ thuật xử
lý tinh vi và lúc ấy tuổi thọ của bệnh nhân hầu như lệ thuộc hoàn toàn vào
chất lượng nước. Một vài trường hợp cho thấy ở các nước phát triển, người bị
hỏng thận có thể kéo dài cuộc sống đến 15 - 20 năm với kỹ thuật cao cấp,
nhưng cũng chỉ sống được 1 - 2 năm khi việc xử lý nước trong lọc thận nhân
tạo không hoàn chỉnh (không kể các chứng bệnh khác phát sinh do nước gây ra
trong khi lọc). Nước là một tài sản có khi bị xem thường nhưng có khi lại là
một chất hồi sinh vô giá. Nhiều người du hành trên sa mạc chết vì thiếu
nước, có khi thiếu nước mà rơi vào tình trạng ảo ảnh dẫn đến việc đi lạc. Vì
vậy, đã có rất nhiều nhà khoa học lo ngại đến hiện tượng sa mạc hóa do con
người tạo ra, và lúc ấy liệu còn đủ nước để duy trì sự sống ?
VAI TRÒ CỦA NƯỚC TRONG CƠ THỂ SỐNG
Trong cơ thể của sinh vật, những phản ứng hóa học xảy ra liên tục và phức
tạp ngay trong mỗi tế bào chỉ lớn độ vài micro-mét. Những diễn biến sinh hóa
ấy cùng một lúc với nhiều “công đoạn” khác nhau nhưng không hề sai lệch và
tất cả đều nằm trong một môi trường có sự tồn tại của nước và thường "thích
nghi" với tác động của bên ngoài. Thí dụ nhiệt độ là một tác nhân làm thay
đổi chu trình của các phản ứng sinh hóa như đã nói ở trên hay khi một chất
khó hòa tan trong H2O thì entrophy của độ hòa tan sẽ giảm khi
được bỏ vào trong nước, thời gian tương hợp của những vận động tiệm tiến,
quay vòng của phân tử nước sẽ lâu hơn khi nước tiếp xúc với chất (vật thể)
đấy nếu so với thời gian phản ứng giữa H2O và một dung dịch nước
tinh khiết. Hay nói khác đi là những phân tử H2O bám chung quanh
chất, khối-hòa-tan sẽ vận động khó khăn hơn, bản thân H2O phải tự
thay đổi cấu tạo của mình để có sức tiến công vào chất đó. Nước trong tế bào
càng thay đổi cấu tạo bao nhiêu thì các phản ứng sinh học càng phức tạp và
tinh vi bấy nhiêu.
Tiến sĩ V.W. Burns (Mỹ) đã cho vi khuẩn phản ứng với
phenethyl alcohol (PEA),
phát hiện rằng các RNA và DNA, protein hay amino, imidazole ribotide bị hạn
chế, không tổng hợp (synthetize) một cách bình thường. Tỷ lệ tổng hợp RNA
giảm theo nồng độ của PEA một cách tương ứng theo tỷ lệ nghịch, tức độ kết
dính của tế bào sẽ tăng lên khi cho PEA thẩm thấu. Điều này được giải thích
như trên, tức là trình độ của việc chuyển hóa của nước trong tế bào nguyên
sinh ngày càng cao để đối phó. Trong PEA có gốc -OH bám vào nguyên tử
hydrogen khác của polymer sinh học trên màng của tế bào nguyên sinh tạo thành
một lớp phân tử H2O bao quanh, ngăn chặn các phản ứng sinh hóa
khác, đồng thời ngăn cản chất đường (glucose) thẩm thấu vào tế bào. Nhờ tính
năng này, PEA được sử dụng như một chất gây mê (từng phần) trong y tế.
Khaloimov và Sidrova (Nga) cũng đã nghiên cứu sự thay đổi của H2O
khi cho nước tác dụng với ma túy (héroin). Các nhà nghiên cứu này đã cho con
nhái hít diethyl ether và ma túy, xác nhận được rằng nhịp não và tim lên đến
5180 cái bằng máy đo quang phổ hồng ngoại trong khi ở trạng thái bình thường
(không hít các chất này) thấp hơn. Điều này được giải thích rằng vận động
nhiệt (thermal movement) của phân tử H2O bị chất ma túy làm tê
liệt, tuổi thọ của khớp nối hydrogen được kéo dài hơn bình thường, làm ngừng
hẳn hay chậm đi phản ứng sinh hóa do cấu tạo của H2O trong tế bào
bị chuyển hóa. Thí nghiệm của Khaloimov và Sidrova chứng minh được rằng khi
H2O trong tế bào bị thay đổi về cấu tạo thì các ion dương (Na+)
-là ion ái dương- khó có thể len lõi vào trong tế bào, gây chứng mê ngủ cho
cơ thể. Những nghiên cứu về H2O trong tế bào còn được rất nhiều
nhà khoa học tìm hiểu để phát minh ra thuốc chống kiết lỵ bằng cách ngăn
chặn chuyển hóa cấu tạo của H2O trong tế bào đường ruột là nguyên
nhân của chứng bệnh này.
Các phản ứng sinh hóa để duy trì cơ thể và sự sống đều dựa vào H2O
như một dung môi để tổng hợp và là một tác nhân thúc đẩy. Chúng ta xem thành
phần của phân tử E.Coli và lượng nước kết hợp với từng thành phần đó qua
bảng dưới đây:
THÀNH PHẦN CỦA PHÂN TỬ E. COLI
VÀ LƯỢNG H2O KẾT HỢP
Thành phần |
Trọng lượng
(wt%) |
Số lượng của từng thành phần |
Lượng H2O kết hợp (H2O g-1) |
Nước |
70 |
|
|
Protein |
15 |
~ 3000 |
4,5 |
DNA |
1 |
1 |
0,6 |
RNA |
6 |
~ 1000 |
4 |
Chất đường |
3 |
~ 50 |
0,9 |
Chất béo |
2 |
~ 40 |
0,4 |
Chất trung gian
của các đơn vị
phạm vi cấu
thành |
2 |
~ 500 |
|
Ion vô cơ |
1 |
12 |
|
|
|
|
|
Trọng lượng nước kết hợp |
|
|
10,4 |
Như vậy, 10% của nước trong tế bào E.Coli là nước kết hợp và 60% H2O
còn lại là phần không tác dụng đến các phân tử sinh học một cách trực tiếp,
và cấu tạo vật lý của H2O trong dung dịch đậm đặc và dung dịch
loãng khác nhau, tức có ít nhất hai loại H2O, loại tồn tại khá ổn
định và loại H2O luân chuyển tự do.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Hồng Lê Thọ
|