Những bài cùng tác giả
Bài 1 :
Nước và sắc đẹp
Bài 2 :
Nước trong cơ thể sống
Bài 3 :
Những phương pháp lọc nước phổ
biến
Bài 4 :
Vai trò của nước trong mỹ phẩm
Bài 5 :
Nước và cơ thể - Một mối quan hệ
kỳ diệu
Bài 6 :
Nước và huớng phát
triển của kỹ thuật xử lý -Từ cách nhìn của một nhà sản xuất Nhật Bản
Từ năm 1980, vấn đề nước uống bỗng trở thành đề tài về sức khỏe
được quan tâm đặc biệt. Thứ nhất là do Chlor
(hóa
chất dùng để tiệt trùng)
được chứng minh là chất dẫn xuất gây một số chứng bệnh ung thư như
Chloroform (một loại Trihalomethane). Mùi hôi của Chlor trong nước không
những khó uống mà còn làm da bị khô, gây ngứa ngáy... thứ hai là các hóa
chất từ các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ, phân bón không tan trong nước, dần
dần trở thành nguồn ô nhiễm môi sinh gây nguy hiểm cho tính mạng con người.
Đó là cơ hội cho các nhà nghiên cứu về kỹ thuật lọc nước trở thành những ông
chủ giàu có với hàng nghìn sản phẩm được tung ra thị trường.
Ở Châu Âu và Mỹ, người ta không còn uống các loại nước cung cấp qua
các đường ống đến vòi nước trong nhà, bắt đầu tìm mua các loại nước trong
chai, đã qua xử lý về kỹ thuật theo tiêu chuẩn qui định về tính hóa lý và vi
sinh, hay gắn các bộ phận lọc nhỏ ở gia đình nhằm mục đích ngăn chặn
Trihalomethane (THM), và khử mùi Chlorine còn lại trong nước bằng than hoạt
tính.
Hiện nay, nhiều kỹ thuật lọc nước từ cổ điển đến hiện đại đã được
hình thành, tuy nhiên trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không đề cập kỹ
đến những kỹ thuật lọc nước qui mô, công nghệ tổng hợp mà chỉ gói gọn trong
những kỹ thuật đang được phổ cập trong “cuộc sống công nghiệp” của từng gia
đình.
1- PHƯƠNG PHÁP LỌC BẰNG VẬT LÝ HAY CƠ HỌC
(PHYSICAL
FILTRATION)

Nhằm mục đích loại trừ các tạp chất hữu cơ, chất bẩn và vi sinh
trong nước, một trong những phương pháp đã có từ xưa là dùng than, cát và
sỏi trong một bể lắng hay nhiều bể lắng lọc liên hoàn. Phương pháp này còn
được gọi là phương pháp tạo lắng thật chậm, có khi còn dùng quạt thổi gió
hay màn mưa nhân tạo đưa O2 vào để lắng phèn, khử mùi và dần dần
loại trừ các tạp chất lơ lửng trong nước. Thiết bị này thường được dùng ở
các nhà máy cần lượng nước lớn hay các trạm xử lý trung tâm, nhưng khá cồng
kềnh và tạo dòng chảy chậm từ bể lắng sang bể sạch có khi kéo dài hàng trăm
mét. Đây là phương pháp xử lý nước rất cơ bản và có giá thành thấp nhât.
Người ta đã đúc kết rằng, nếu làm đúng kỹ thuật bằng phương pháp lọc chậm
này thì hàm lượng TOD
(*)
giảm trên 90% và lượng vi khuẩn cũng có thể được tiệt trừ nhờ màng sinh học
tự nhiên đạt đến mức 95 - 98%. Chính vì thế mà nhiều trung tâm xử lý nước
lớn trên thế giới vẫn còn áp dụng phương pháp này kết hợp với xử lý bằng
Chlor và than hoạt tính trong công đoạn sau
(xem
tài liệu phụ lục).
Trên thực tế, chúng tôi cũng đã áp dụng mô hình kết hợp này cho những khu
vực có hàm lượng phèn, tạp chất hữu cơ trong nước cao như Gò Vấp, Thủ Đức và
một số điểm khác tại Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian từ 21 ~ 45 ngày
(hiện
nay kỹ thuật đã được cải tiến để thời gian tạo màng sinh học tự nhiên còn 5
- 7 ngày).
Khi màng sinh học tự nhiên hình thành thì khả năng ngăn chặn vi khuẩn, vi
sinh đạt mức khá lý tưởng
(giảm
đến 92%)
và hàm lượng phèn giảm được trên 75%. Điều đó làm tăng độ bền cho các công
đoạn xử lý kế tiếp và tạo được một công suất lọc khá ổn định.
Ở vùng quê ngày trước, người ta còn dùng cói, rơm rạ hay đay làm
vật liệu lọc có tác dụng lọc các chất lơ lửng, phù sa khá hiệu quả. Phụ vào
các công đoạn này, người ta còn sử dụng vôi để tiệt trùng, cân đối lại độ pH
cho nước ở vùng chua và cả những hóa chất tạo lắng bằng keo tụ nhằm làm sạch
nước nhanh hơn so với phương pháp lắng chậm.
Nhiều dụng cụ xử lý nước ngày nay được thu nhỏ lại để người tiêu
dùng có thể gắn vào nguồn nước máy ngay tại bếp bằng các loại ống lọc màng
bằng sợi chỉ nhựa
(PP
cartridge)
có độ lớn của lỗ lọc từ 1
mm
(1/10.000
milimét)
đến 10 - 50
mm.
Các loại màng
(ống
lọc)
này còn được chia làm nhiều lớp hay nhiều tầng, trong đó có cả lớp
(hay
tầng)
than hoạt tính để khử mùi hay thêm một lớp diệt khuẩn. Loại cartridge này
rất thuận tiện trong sử dụng và thay thế, gọn nhẹ và không chiếm chỗ so với
những phương pháp cổ điển, tuy nhiên vấn đề còn lại là giá cả của ống lọc và
giá mua bộ lọc ban đầu khá đắt, đặc biệt tuổi thọ của ống lọc tùy thuộc vào
chất lượng của nước
(độ
bẩn, tạp chất)
và không xử lý triệt để được các hóa chất độc hại phát sinh từ nguồn nước
hay các loại vi khuẩn gây bệnh
(Faecal
Bacteria),
trừ những sản phẩm có pha các hoạt chất sát trùng đặc biệt. Điều đáng lưu ý
là có nhà sản xuất máy lọc nước giới thiệu sản phẩm của họ có thể xử lý
7.000 - 18.000 lít /ống nhưng không hề nói rõ nước sử dụng là nước loại gì,
độ bẩn, tạp chất và phèn bao nhiêu vì thế có nơi chỉ dùng được vài tuần
là phải thay thế ống lọc khác. Giá một ống lọc có khi lên đến 180.000đ -
500.000đ, trong khi giá máy mua ban đầu là 1,2 đến 2 triệu đồng, người mua
hoàn toàn lệ thuộc vào người cung cấp, nếu muốn tiếp tục sử dụng.
Hầu hết những sản phẩm này được sản xuất tại các nước tiên tiến như
Mỹ
(hay
gần đây còn có sản phẩm của Đài Loan, Malaysia)
và nguồn nước đưa vào máy là nước đã được xử lý tại các trạm cung cấp nước
(đạt
tiêu chuẩn về nước uống),
hiệu quả cuối cùng khi qua các ống lọc gia đình chủ yếu là để khử mùi hôi
của Chlore hay ngăn chặn các tạp chất còn sót lại như THM mà thôi. So
với thu nhập bình quân của người ở Mỹ thì giá một ống lọc như vậy là không
cao và họ có thể sử dụng lâu ngày hơn so với điều kiện sử dụng ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy đã có nhiều khách hàng vì không phân biệt được sự
khác biệt này, nên sử dụng máy lọc được một thời gian ngắn lại phải trở về
với phương pháp cổ truyền “đun sôi để nguội” !
Hiện nay ở Mỹ còn có những ống siêu lọc
(micro
filter)
bằng sợi theo cấu tạo ma trận với lỗ lọc 0,2 ~ 0,4
mm
có khả năng ngăn chặn vi trùng, vi khuẩn khá tốt và ứng dụng nguyên lý thẩm
thấu ngược
(reverse
osmosis).
Tuy nhiên cũng không chịu đựng nổi trước chất lượng nguồn nước tại Tp. Hồ
Chí Minh, rất dễ bị tắt nghẽn và phải thay thế sau thời gian sử dụng 2 - 3
tháng
(với
lưu lượng 3.000 lít theo lý thuyết nhưng chúng tôi thử dùng thì thấy “tuổi
thọ” không đến 1.000 lít, tức chỉ tương đương 1/3).
Khác với loại ống lọc Cartridge kiểu Mỹ, Thụy Sĩ và Nhật Bản đã
tung ra thị trường một loại ống lọc bằng sứ có pha Nitrate bạc để tiệt
trùng. Kỹ thuật này được phát minh vào năm 1947 khi kỹ thuật tạo hình ống
lọc sứ có lỗ thoát với độ lớn 0,2 - 0,4 micron được xác lập. Như chúng ta
đều biết, vi trùng hay vi khuẩn có độ lớn bình quân từ 0,5 - 0,6 micron, vì
vậy ống lọc này có thể ngăn chặn được chúng và để bảo đảm hơn, nhằm ngăn
ngừa vi khuẩn phát triển len lõi vào bên trong ống lọc, họ đã trộn Nitrate
bạc vào dung dịch sứ
(trước
khi nung)
không để cho bạc có thể rơi rụng khi nước đi qua đồng thời phát huy hiệu quả
sát trùng trực tiếp trong nước thay vì sử dụng các loại hóa chất Fluor, Iode
hay Chlor có thể gây tác hại lâu dài khi không quản lý được nồng độ chặt
chẽ. Thêm vào đó, phần ruột của ống là một lớp thạch anh tẩm Nitrate bạc
nhằm tránh hiện tượng vi trùng chen lẫn từ vòi uống
(đầu
ra)
trở lại ống lọc
(tái
nhiễm khuẩn),
bảo đảm nguồn nước đã xử lý không bị nhiễm khuẩn trở lại.
Với ống lọc sứ pha Nitrate bạc, người ta có thể an tâm hơn và khá
tiện dụng vì có thể vệ sinh ống lọc mỗi khi bị tắc nghẽn
(do
vi khuẩn hay chất bẩn bám đầy)
thay vì phải bỏ đi hay thay thế ống lọc mới như loại Cartridge bằng sợi nhân
tạo. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà sản xuất
(Katadyn
Thụy sĩ và Roki Nhật bản)
thì ống lọc sứ sẽ mất tác dụng khi phần sứ bọc bên ngoài bị mòn sau 3 - 5
năm sử dụng.
Về mặt thực tiển, khó có thể ứng dụng ống lọc này cho các hệ thống
xử lý nước có qui mô lớn vì việc vệ sinh ống không thể thực hiện dễ dàng, và
giá thành khá đắt so với các giải pháp khác nhưng với loại gia đình thì loại
ống lọc này khá lý tưởng và đã được Tổ chức sức khỏe Thế giới
(WHO)
cung cấp cho các bệnh viện, trạm xá ở một số nước trong chương trình y tế
cộng đồng.
2- PHƯƠNG PHÁP LỌC VÀ TIÊT TRÙNG BẰNG QUANG HỌC

Một trong những phương pháp tiệt trùng bằng quang học là sử dụng
đèn cực tím
(UV)
trong xử lý nước. Người ta xác nhận được rằng, tia UVc
(có
độ dài sóng 254 nano-mét)
có khả năng diệt khuẩn rất tốt và giá khá rẻ, tuy nhiên dùng đèn cực tím có
những khó khăn nhất định:
- Độ ổn định của dòng điện sử dụng (không dao động
±
5%)
- Hệ thống kiểm tra chặt chẽ để theo dõi đèn có hoạt động hay không
(không
được kiểm tra bằng mắt thường, có thể bị lòa, mù)
- Tuyệt đối không được ngắt điện trong khi sử dụng, nếu không sẽ
bị nhiễm khuẩn trở lại
(vì
nước vẫn tiếp tục chảy)
- Nước qua ánh đèn phải được xử lý thật sạch, tránh hiện tượng bụi,
cặn bám vào ống thủy tinh
(quartz)
bảo vệ đèn và việc kiểm tra độ dài sóng tỏa khắp dòng nước rất khó, phải lọc
ở tốc độ thật chậm.
Tia cực tím UVc chỉ có tác dụng tiệt trùng, không có chức năng lọc
nước
(hoá
lý),
vì vậy thường được sử dụng trong phòng thí nghiệm với lưu lượng bé hay trong
những hệ thống lớn có đủ khả năng kiểm tra, theo dõi và độ ổn định về nguồn
điện tuyệt đối. Hệ thống xử lý nước bằng tia UV thường được kết hợp với các
bộ phận khác
(sơ
lọc và tinh lọc)
mới phát huy được hiệu quả. Tuy nhiên như đã nói ở trên , sự dao động điện
sẽ làm giảm tuổi thọ bóng đèn rất nhanh và không có gì đảm bảo nếu nước chảy
bởi lưu lượng lớn không được kiểm soát. Tiệt trùng bằng tia UV trong những
điều kiện đầy đủ là một phương pháp lý tưởng và không gây hại như trường hợp
hóa chất, thường được ứng dụng ở các nước có nền công nghiệp tiên tiến. Tuy
nhiên trong điều kiện về điện và nước của chúng ta hiện nay chưa ổn định thì
hiệu quả sử dụng đèn cực tím không phát huy được và có khi gây hại.
3- PHƯƠNG PHÁP LỌC VÀ TIÊT TRÙNG BẰNG HÓA CHẤT
Một trong những hóa chất phổ biến được dùng trong công nghệ xử lý
nước từ đầu thế kỷ này là Chlorine vì hóa chất này có khả năng diệt tất cả
vi khuẩn trong nước, mặc dù những hóa chất khác tồn tại trong nước như
Phénol phản ứng với Chlor có thể tạo ra mùi và vị nước khó uống. Chỉ với một
lượng Chlorine 0,16 mg /l
(ở
độ pH 7)
hay 0,45 mg /l
(pH=9)
là người ta cảm thấy nước có mùi khó chịu. Ngoài ra, các chất Ammoniac trong
nước sẽ phản ứng với Chlorine tạo ra các loại Chloramine
(Mono,
Di và Trichlororamine)
hay Phénol cũng làm cho nước bị nhiễm mùi. Tuy thế, ở các trạm xử lý nước
công nghiệp, người ta vẫn sử dụng Chlorine và điều chỉnh nồng độ của nó theo
hàm lượng vi khuẩn và các tạp chất
(hóa
học)
khác có trong nước vì xử lý nước theo phương pháp này giá thành nước máy vẫn
rẻ nhất.
Phản ứng của Chlorine + Ammonia trong nước:
NaCl + H2O
® NaOCl + H2
Cl2 + H2O
®
HCl + HOCl
NH4+ + HOCl
® NH2Cl
+ H2O + H+
Monochloroamine
NH2Cl + HOCl
® NHCl2
+ H2O
Dichloroamine
NHCl2 + HOCl
® NCl3 +
H2O
Trichloroamine
Vào những năm đầu thập niên 70, người ta phát hiện được nhiều chất
dẫn xuất trong nước từ Chlorine và hàng loạt độc tố dẫn xuất từ Chlorine như
Trihalomethane
(THM).
Trihalomethane là một hợp chất Carbon hữu cơ có công thức CHX3 mà X là một
phân tử halogene
(như
Brom, Fluor hay Iod).
R-CO-CH3 + 3 OX-
® R-COO-
+ CHX3 + 2 OH-
TRIHALOMETHANE (THM)
Có 4 loại THM chính trong nước uống, Chloroform
(CHCl3),
Bromo dichloromethane
(CHBrCl2),
Dibromochloro methane
(CHBr2Cl)
và Bromoform
(CHBr3).
Những hợp chất THM hay chất dẫn xuất từ Chlorine chỉ có thể tìm thấy trong
nước uống khi nước ấy được diệt trùng bằng Chlorine mà thôi. Tùy theo nồng
độ Chlorine, nhiệt độ của nước và pH mà THM sẽ phát sinh nhiều hay ít do các
tạp chất hữu cơ phản ứng với Chlorine khi hàm lượng Chlorine quá liều.
(Xem
thêm bảng phụ lục về các chất dẫn xuất từ Chlor trong nước uống).
Ngoài yếu tố nồng độ Chlorine, THM lại tăng theo nhiệt độ và độ pH
của nước, phát sinh ra nhiều độc tố khác
(nếu
nguồn nước đã bị nhiễm bẩn hóa chất hay thuốc trừ sâu...).
Đáng lo ngại nhất là Chloroform vi chỉ với 44gr Chloroform có thể
giết chết được một người nặng 70 kg và vi lượng Chloroform trong nước sẽ gây
ra bệnh ung thư nếu nước uống này được sử dụng trong thời gian dài. WHO cho
biết, nếu nước có phát sinh Chloroform thì những biến chứng về ung thư
(bladder,
intestinal và rectal)
sẽ xảy ra.
Ngoài Chlorine, người ta còn sử dụng một số hóa chất tiệt trùng
khác như Fluorine, Iodine nhưng đều phải có những biện pháp ngăn ngừa và
kiểm tra nồng độ chặt chẻ hầu tránh những tác hại. Theo tiêu chuẩn phổ biến
hàm lượng Fluoride chỉ được cho phép 0,6mg/l - 1mg/l, nhưng nếu dùng lâu
ngày sẽ bị hư lớp men
(enamel)
trên răng. Hiện nay vẫn có những ý kiến phản đối việc sử dụng Fluor cho trẻ
em vì các lý do:
1- Fluor là một hóa chất vô cơ cực độc
2- Phải được quản lý khi sử dụng như một loại thuốc độc bảng B hoặc
như một chất tẩy rửa công nghiệp
3- Khó có thể kiểm tra được hàm lượng Fluor trong nước nếu sử dụng
một cách thường xuyên, khó theo dõi và kiểm tra cơ thể đã hấp thụ bao nhiêu
Fluor. Khó có thể nói nước dùng Fluor đã tiệt trùng là an toàn. Fluor còn có
khả năng tiêu diệt cả những vi khuẩn cần thiết cho bộ máy tiêu hóa.
Thiết bị để thẩm định liều lượng Fluor hay Iod sử dụng
theo thay đổi của độ nhiễm khuẩn, độ bẩn trong nước rất đắt tiền, lại lệ
thuộc vào nhiều yếu tố bất xác định
(uncertain
factors)
như nhiệt độ, độ bền, độ pH của nước trong từng lúc cho nên tránh dùng vẫn
là biện pháp tốt hơn cả. Về mặt lý thuyết, Fluor, Iodine, Chlorine là những
chất sát trùng rất hiệu quả nhưng trên thực tế, rất hiếm thấy những máy lọc
nước sử dụng Iodine cho gia đình tại nhiều nước trên thế giới
(Pháp,
Mỹ, Nhật, Thụy Sĩ).
Cobalt60, Iodine131 là những chất bức xạ
b
tai hại đến sức khỏe
(a
significant health risk)
WHO định mức nồng độ
b
chỉ được 1,0 Bq/lít
(1
ci tương đương với 3,7 x 1010 Bq)
và việc theo dõi này vô cùng phức tạp, phải có trang thiết bị chuyên dùng đo
nồng độ bức xạ do cơ quan nguyên tử lực quản lý. Tiêu chuẩn về độ phóng xạ
a,
b
của Bộ Y tế Việt Nam đều giống với tiêu chuẩn nêu trên của WHO, trong khi đó
Tiêu chuẩn Việt Nam của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng là 3
pci/lít. WHO cho biết sử dụng Iodine là một biện pháp tiệt trùng tạm thời
trong một thời gian rất ngắn, không nên dùng vào việc xử lý nước uống thường
xuyên.
Ngoài các phương pháp sử dụng hóa chất để tiệt trùng nêu trên,
Ozone
(O3)
cũng là một loại khí có khả năng diệt trùng hiệu quả nhờ tính oxyd hóa mạnh
mẽ của nó. Ozone hủy diệt tất cả các loại vi khuẩn trong nước
(chỉ
cần 1ppm
(1
phần triệu)
trong 10 phút là có thể sát khuẩn),
nhưng Ozone lại gây ra mùi rất hăng, khó uống cho nên thường được dùng kèm
theo bộ lọc than hoạt tính để khử bớt mùi này trong những trang thiết bị lọc
nước hiện đại, nhưng việc kiểm soát nồng độ tương đối phức tạp và khá đắt
tiền.
Hiện nay, phương pháp tiệt trùng bằng Ozone được áp dụng tại những
trạm xử lý nước trung tâm ở những nước giàu có, nơi đó có điều kiện điều
chỉnh và kiểm tra tự động như Nhật Bản và Thụy Sĩ chẳng hạn.
4- PHƯƠNG PHÁP TRAO ĐỔI ION
Ngày trước, một trong những phương cách để làm mềm nước là bỏ vôi
hay xút vào bồn xử lý nước thô nhưng bất tiện là nhiều cặn bã lắng đọng,
phải thường xuyên theo dõi để rút bớt đi.
Những phương pháp xử lý nước bằng cơ học hay hoá chất không xử lý
được những ion vô cơ hay những chất hữu cơ không bị phân hủy bởi tác động
của vi sinh. Để trừ khử những ion vô cơ này thông thường người ta dùng những
hạt nhựa trao đổi ion để hấp thụ và hoán chuyển. Phương pháp này thường được
áp dụng để làm mềm nước, tức gạt bớt hàm lượng Calcium, Magnesium hoặc
Nitrate trong nước.
Những ion Natrium trong hạt nhựa sẽ thay thế Calcium và Magnesium
tạo ra một loại nước mềm theo phản ứng như sau:Ca ++
/ Mg ++
+ Na2-
Zeolite
®
Ca / Mg
(Zeolite)
+ 2Na+
Để loại trừ Calcium, Magnesium người ta dùng một loại muối
Aluminium
(Sodium
Aluminosilicates)
có trong thiên nhiên gọi là Zéolite hay hạt nhựa nhân tạo
(Cation
exchange resin).
Sau khi hạt nhựa đã hút được Calcium và Magnesium, trở nên bảo hòa, mất tác
dụng, thì dùng nước muối để tái sinh nhựa trở lại để sử dụng theo phản ứng:
Ca / Mg
(Zeolite)
+
2NaCl ®
Na2- Zeolite
+ CaCl2 / MgCl2
(Nhựa
thải ra)
®
(Nhựa
trao đổi Ion tái sinh)
+
(Thải
ra ngoài)
Ngày nay các nhà sản xuất hạt nhựa trao đổi Ion nhân tạo từ nguyên lý nói
trên đã trừ khử được cả những Anion vô cơ trong nước như Nitrates, Sulphate,
Chlorides, Silicates và Carbonates bằng những hạt nhựa Anion mạnh theo phản
ứng sau:
CaNO3
+ R-Cl
®
RNO3
+ CaCl
MgNO3 +
R-Cl
®
RNO3
+ MgCl
(Anion
exchange resin)
Đây là một phương pháp khá kinh tế và thuận lợi trong công nghệ xử
lý nước công nghiệp, đặc biệt có hiệu quả đối với các nhà máy dùng nước làm
nguyên liệu như trong linh vực y dược, nước uống có pha các loại Vitamin và
mỹ phẩm. Cần lưu ý thêm là các hạt nhựa trao đổi Ion không có khả năng diệt
khuẩn nhưng lại có tác dụng tích cực loại trừ các chất phèn, muối khoáng dư
thừa trong nước, đặc biệt là các loại nước giếng có hàm lượng muối khoáng
quá mức cho phép. Cho nên hệ lọc sử dụng phương pháp này thường được gọi là
máy làm mềm nước (Water Softener) hay khử Ion (Deionizer). Hiện nay các nhà
sản xuất đã cho ra đời các loại máy khử Ion kèm theo hệ rửa ngược tự động để
tái sinh hạt nhựa bị bảo hòa trong ống lọc.
4- PHƯƠNG PHÁP TINH LỌC THẨM THẤU NGƯỢC
(REVERSE
OSMOSIS - RO)

Các phương pháp lọc và tiệt trùng nước đơn lẻ nêu trên đều có những
phần không hoàn thiện, đặc biệt là độ an toàn của nước về mặt hóa lý, vi
sinh không cao, nhất là việc quản lý nồng độ hóa chất tương đối phức tạp,
khó có thể áp dụng được trong qui mô nhỏ
(trừ
trường hợp dùng lõi lọc bằng sợi hay sứ pha nitrate bạc),
hoặc giá thành quá cao.
Nhằm khắc phục những nhược điểm ấy, phương pháp thẩm thấu ngược
(reverse
osmosis)
được sáng chế từ khi sợi thủy tinh nhân tạo
(fiber)
ra đời, ứng dụng nguyên lý vận động của nước, thẩm thấu từ vùng nước loãng
(hay
dung dịch loãng)
sang vùng nước đậm đặc qua một màng thẩm thấu dưới một áp lực khá cao. Màng
thẩm thấu này được đặt ở giữa vùng nước sạch
(trong)
và vùng nước nhiễm bẩn hay nước mặn; nước trong sẽ di chuyển sang vùng nước
mặn
(đậm
đặc)
cho đến khi cả hai bên cân bằng và chỉ có nước đi qua màng thẩm thấu; hóa
chất, vi sinh trong nước được giữ lại từ 85-100%. Vận động qua lại của nước
từ bẩn sang sạch bằng áp lực máy bơm được lặp đi lặp lại nhờ chênh lệch áp
suất, tạo ra nguồn chảy ngược, vì nước sạch
(pure
water)
di chuyển từ vùng đậm đặc
(muối
hay nhiễm bẩn)
sang vùng nước loãng và sạch dần
(tinh
khiết dần dần)
theo chu kỳ qua lại của thẩm thấu
(xuôi
và ngược).
Nên lưu ý phương pháp thẩm thấu ngược không phải là phương pháp lọc bằng
màng, tức không phải qua những khoảng hở giữa các phân tử của chất liệu làm
màng như các loại sợi Cellulose Acetate, Triacetate hay Polyamide
polymers.Với nguyên lý này, nước lọc từ hệ thống R O được xem là nước siêu
lọc vì tất cả hóa chất, vi sinh đều bị ngăn chặn. Phương pháp này được áp
dụng trong công nghệ sản xuất y dược phẩm, hay lọc thận nhân tạo. Ở một số
nước giàu có, người ta áp dụng nguyên lý này để lọc nước biển sang nước
ngọt, đặc biệt cho những tàu thuyền đánh cá xa bờ hay căn cứ ở hải đảo.
*
*
*
Chúng ta vừa khảo sát qua những phương pháp lọc và tiệt trùng nước,
rõ ràng là mỗi hệ thống hay trang thiết bị xử lý nước này không có loại nào
hoàn hảo có thể giải quyết tất cả cùng một lúc để tạo ra một nguồn nước an
toàn mà thông thường là một sự kết hợp nhiều kỹ thuật khác nhau, theo từng
công đoạn riêng biệt, để thiết kế thành một hệ thống hoàn chỉnh.
Những vấn đề cần lưu ý:
1-
Phương pháp lọc nước R O là một phương pháp hiện đại nhất nhưng giá thành
một lít nước xử lý bằng R O gấp 5 - 10 lần các phương pháp khác, đồng thời
lượng nước xử lý rất thấp, không có hiệu quả kinh tế.
2-
Nếu nguồn nước xử lý đã “ổn định” về hoá lý và vi sinh
(tức
là nước đầu vào lúc nào cũng giống nhau)
thì chỉ cần một chủng loại máy lọc nước nào đó, thí dụ nếu nước đô thị ở Mỹ
đạt tiêu chuẩn về nước uống do USEPA qui định thì vấn đề xử lý nước ở gia
đình không có gì phức tạp, chỉ cần có bộ phận xử lý mùi Chlorine bằng than
hoạt tính, nếu cẩn thận thì thêm bộ tiệt trùng bằng tia cực tím
(UV)
vì nguồn điện không bao giờ bị ngắt quảng và độ dao động điện hầu như không
đáng kể. Sản xuất đại trà một sản phẩm trên một thị trường có cùng qui cách
sẽ tạo ra một giá thành hạ và việc quản lý chất lượng hầu như không thành
vấn đề.
3-
Phải dựa vào chất lượng nước để có thiết kế hay kết hợp các công đoạn lọc
nước đạt tối ưu về kỹ thuật cũng như giá cả. Nếu nguồn nước
(đầu
vào)
lại tùy thuộc vào nhiều yếu tố bất xác định, thay đổi liên tục về độ phèn,
độ pH, độ nhiễm bẩn và nhiễm khuẩn và điện bị dao động thường xuyên thì
không thể đem “nguyên si” một hệ thống xử lý nước tại Mỹ hay tại bất cứ nơi
nào khác đặt vào là có thể sử dụng được. Điều đó đã giải thích tại sao một
vài ống lọc của nước ngoài khi đưa vào Hà Nội hay Tp. Hồ Chí Minh lại bị tắc
nghẽn trong một vài tuần
(là
phải bỏ),
thậm chí có khi lượng E. Coli đầu vào lại ít hơn đầu ra của máy vì chính các
ống lọc này là cái “ổ” giúp vi khuẩn sinh sôi nảy nở, nhất là vào mùa hè.
4- Ống
lọc sẽ được gọi là hỏng, phải bỏ đi khi nước ở đầu ra không sạch và nhiễm
bẩn như nước ở đầu vào, hoặc tệ hơn là không thoát nước đồng thời lại không
thể vệ sinh để sử dụng trở lại !
5- Tính
năng kỹ thuật của hệ thống có phù hợp với yêu cầu và trình độ quản lý của
người sử dụng hay không. Nếu một hệ thống xử lý bằng hóa chất để tiệt trùng
mà không có bộ phận theo dõi để điều chỉnh nồng độ thích hợp sẽ gây hại cho
sức khỏe, hay hệ thống sử dụng tia UV mà dòng điện luôn dao động, bị ngắt
quảng sẽ mất tác dụng tiệt trùng. Cho nên ngoài yếu tố giá thành của máy,
phải chọn loại nào dễ quản lý, không bị ràng buộc về trình độ chuyên môn
đồng thời yếu tố an toàn của hệ thống cao nhất.
Tóm lại, những yếu tố cấu thành một hệ thống xử lý nước cho một nơi
nào đó đòi hỏi phải được khảo sát kỹ chất lượng nước ngay từ đầu vào để ứng
dụng kỹ thuật thích hợp, tối ưu nhất. Không thể có “một loại máy cho muôn
nơi” mặc dù những nhà sản xuất bao giờ cũng tự nhận sản phẩm của mình là
“tốt nhất” hay “hiện đại nhất”, trong khi nguồn nước hoàn toàn khác nhau !
Phụ Lục
PHÂN LOẠI CÁC LOẠI NƯỚC KHOÁNG
1- Nước khoáng là loại nước uống lấy nước từ lòng đât làm nguyên liệu, trong
đó có hàm lượng khoáng chất thiên nhiên, có loại được pha thêm Calcium hay
CO2 và hội đủ các điều kiện sau:
- Mùi vị: Không khác thường
- Màu: dưới 5
- Bẩn: dưới 2
2- Đối với nước khoáng có gaz (CO2) là loại phải có áp lực CO2
trung bình chứa dưới 1 kgf/cm2 (20°C)
không thanh trùng hay sát trùng, nguồn nước phải là nước khoáng từ lòng đất
(mỏ), không được lấy nước sông ngòi hay ao hồ để xử lý; không được có xử lý
nào khác ngoài những công đoạn trầm lắng (tụ), lọc, cho gaz CO2
hay thoát khí
3- Nước thiên nhiên (Natural water) là loại nước
ngầm lấy từ một nguồn nào đó, không áp dụng bất cứ một cách xử lý hóa lý nào
khác ngoài phương pháp xử lý như trầm lắng, lọc, gia nhiệt để thanh trùng
4- Nước khoáng thiên nhiên (Natural mineral water) là loại nước thiên
nhiên lấy từ khoáng (mỏ) hay được “khoáng hóa” (có các hàm lượng khoáng
thiên nhiên, khí CO2) tự nhiên
5- Nước khoáng (Mineral water) là loại nước lấy nước khoáng thiên nhiên
làm nguyên liệu có điều chỉnh độ khoáng để ổn định chất lượng hay là một hỗn
hợp (pha chế) nhiều loại nước khoáng thiên nhiên lại với nhau
6- Nước uống trong chai (Bottled water) là loại nước không thuộc phạm trù
(3) , (4), (5) nêu trên
Theo tiêu chuẩn của USEPA
CÁC LOẠI NƯỚC KHOÁNG |
NƯỚC NGUỒN |
XỬ LÝ |
1- Natural water
(Nước thiên nhiên)
L’ eau de source |
Nước ngầm ở một nguồn nước riêng biệt |
Trầm, lắng, lọc, thanh trùng bằng nhiệt |
2- Natural mineral water
(Nước khoáng thiên nhiên)
L’ eau minérale naturelle
|
Nước từ mỏ ngầm có khoáng
|
|
3- Mineral water
(Nước khoáng)
L’eau minérale |
Nước từ khoáng |
Trầm, lắng, lọc, gia nhiệt, hỗn
hợp nhiều nguồn nước khoáng, điều chỉnh hàm lượng khoáng |
TÓM TẮT CÔNG NGHÊ XỬ LÝ NƯỚC
YẾU TỐ GÂY ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI CHẤT
LƯỢNG NƯỚC |
ẢNH HƯỞNG CHUNG |
CÔNG NGHÊ XỬ LÝ HIÊU QUẢ |
Độ cứng (do Calcium và Magnesium) - (Carbonate hay
Bicarbonate) |
Chất cặn trong ống dẫn, ống dẫn có gia nhiệt, gây ra
chất nhờn, rỉ bám ở đầu vòi, làm mục, vàng áo quần (khi dùng nước để
giặt) |
Trao đổi Ion (hạt nhựa)
|
Sắt, Mangan |
Đóng váng, thay đổi màu của nước, tạo rỉ cặn đỏ vàng,
cam hay bùn đen ở trong vòi, đường ống |
Nếu nồng độ dưới 2 ppm thì có thể xử lý bằng hạt nhựa trao đổi Ion.
Tốt nhất là áp dụng phương pháp thông gió (aeration) bằng cách thổi
không khí vào nước hay dùng ống lọc oxyd sắt bằng hạt nhựa hay bằng cát |
Vi khuẩn sắt, Mangan và lưu huỳnh |
Tạo lớp bùn nhớt bám trong ống, máy hay cặn trong bồn
chứa |
Nếu mức độ thấp có thể sử dụng phương pháp lọc oxyd hóa sắt. Tốt
nhất là dùng Chlor sau đó lọc lại |
Khí Hydrogen Sulfide (H2S) |
Mùi tanh như trứng gà bị ung, gây
ăn mòn ống dẫn, tạo ra mùi tanh khó chịu trong thức ăn, nước uống |
Tốt nhất là phương pháp thông gió (O2) hay dùng Chlor |
Độ bẩn |
Những chất lơ lửng trong nước có
thể là bùn, cát, đất sét, hợp chất hữu cơ |
Phương pháp lọc tạp chất và rữa ngược, nếu lưu lượng ít thì dùng ống
lọc sợi hay lọc bằng cát |
Nước có tính Acid (pH thấp) |
Sẽ tấn công vào hệ ống dẫn, kim loại, tạo ra cặn đỏ,
xanh. Làm mục áo quần trong khi giặt |
Tốt nhất là trung hòa bằng vôi |
Mùi, vị và màu (do tạp chất hữu cơ) |
Làm nước uống có mùi khó chịu, tạo ra lớp cặn trong nước |
Tùy vào đặc tính của chất lơ lửng. Có thể dùng phương pháp thông gió
(O2) , than hoạt tính hay Chlorine để xử lý |
Tannin, Acid Humic |
Biến đổi nước sang màu vàng nhạt, tạo cặn và giảm độ
ngon của thức ăn hay nước uống |
Nhựa trao đổi Ion hay chất oxyd hóa, sau đó lọc lại
|
Vi khuẩn gây bệnh |
Có thể mang theo các chứng bệnh về đường ruột hay truyền
nhiễm, rối loạn tiêu hóa |
Dùng Chlor hay các ống vi lọc. Phương pháp dùng Nitrate bạc, Iodine,
O3 hay tia tử ngoại có thể ngăn chặn hay tiệt trùng |
Hoạt chất hữu cơ trong thuốc trừ sâu hay phân bón |
Có thể bị nhiễm độc hay gây các chứng bệnh hiểm
nghèo |
Thông thường dùng than hoạt tính để hấp thụ, có thể áp dụng phương
pháp oxyd hóa hay điện giải |
Nitrate, Chloride và Sulfate |
Khả năng gây bệnh và có hại đến sức khỏe |
Dùng Ion đặc biệt để khử, hay phương pháp thẩm thấu ngược |
Muối Natrium |
Gây ra mùi, Xút hay Alkali, rất khó chịu |
Phương pháp khử Ion, thẩm thấu ngược hay chưng cất |
HIÊU QUẢ CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP LỌC NƯỚC BẰNG CÁT
PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ |
XỬ LÝ |
HIÊU QUẢ |
Lọc cát chậm theo tỷ trọng
|
Chảy thật chậm qua 3 ngăn |
Không hạn định độ bẩn tối đa, số Coliform Max. MPN 5.000 -
20.000/100ml
BOD giảm 90-95%
Chất cặn được giữ lại 85-95%
Giảm vi khuẩn 95-98%
Ngăn chặn chất bề mặt 90-99%
Giảm vi khuẩn 99%
Giảm cặn 95-100%
Giảm màu 30%
Mùi và vị được tốt
Giảm sắt, phèn 60% |
Lọc cát nhanh (theo tỷ trọng) |
Độ bẩn 40 mg/lít |
Giảm vi khuẩn 95%
Giảm độ bẩn 90% |
Lọc cát (nhanh) và hóa chất làm lắng |
Độ bẩn 50mg/lít, Coli form có hàm lượng MPN 5.000/100ml
|
Giảm vi khuẩn 90-99%
Giảm cặn 100%
Màu giảm ít hơn 5mg/lít
Alkali tăng 7,7mg /lít /gr.Alum
CO2 tăng 6,8mg /lít/gr. Alum
Giảm được phèn sắt
Mùi vị tốt hơn |
Lọc cát và hóa chất làm lắng, thêm Chlorine và than hoạt
tính |
Không hạn định độ bẩn, số Coliform MPN 5.000 -
20.000/100ml
|
Gần như diệt khuẩn 100%, giảm 100% độ bẩn Màu sắt gần bằng 0. Phèn
giảm nhiều và bớt mùi, vị của hóa chất |
*Phương pháp lọc nước bằng công nghệ NANO sẽ có bài viết riêng
(1*)-
Total Oxygen Demand : Yêu cầu tổng hợp của Oxygen (dưỡng khí) trong nước.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Hồng Lê Thọ
| |