Thế giới của Năm Nhiều

Vietsciences- Võ Hồng     20/01/2006       Vết hằn năm tháng

 
Phần   1   2   3    4    5     
 

Ngày tôi lên bảy tuổi, mẹ tôi sắp đặt cho tôi đi học A.B.C. Anh Năm Nhiều tỏ ra xao xuyến hết sức đối với cái giây phút long trọng mà tâm hồn tôi sắp giã từ những vật tầm thường xung quanh mình để tiếp xúc với cái cao siêu của chữ nghĩa. Anh trầm ngâm hỏi mẹ tôi:

- Cô định bữa nào cúng khai tâm cho thằng Thiết?

Mẹ tôi ngạc nhiên quay lại hỏi:

- Cũng phải cúng khai tâm nữa sao?

- Có chớ. Nó bắt đầu đi học thì phải cúng khai tâm cho nó.

- Cô tưởng ngày xưa đi học chữ Nho thì mới cúng khai tâm, chớ thời bây giờ học chữ quốc ngữ thì có thần thánh đâu mà phải cúng?

- Xưa nay gì cũng vậy. Phàm đã có chữ nghĩa thì có thánh, không có thánh thì lấy ai bày ra chữ nghĩa. Phải cúng khai tâm thì mới sáng dạ, học mau thuộc. Mẹ tôi lưỡng lự một lát rồi nói:

- Ừ thôi thì cúng cũng được. Mà cúng món gì bây giờ?

- Cô đưa tiền con đi kiếm mua một con gà cồ trắng, thứ gà non chưa hề đạp mái. Phải đi chợ Đèo mới có nhiều gà mà lựa. Rồi cô nấu một nồi xôi.

Mẹ tôi y theo lời anh và anh bươn bả đi tìm mua về được một con gà cồ trắng thiệt. Quả là một thành tích hy hữu đáng phục, vì gà cồ trắng không phải là một vật dễ tìm. Anh sung sướng ra mặt khi về khoe với mẹ tôi:

- Con đi rảo suốt cả chợ mà không tìm ra gà trắng. Chỉ có gà cồ chuối thôi. Con định mua đỡ một con gà cồ chuối thì may thay có bà đem tới con gà này.

Vừa nói anh vừa vuốt ve cái mào mới nhú đỏ chóe của con gà và con gà ngây thơ nhắm con mắt lại, sung sướng và tin cậy nơi anh.

Tối hôm trước ngày ra trường là buổi cúng khai tâm. Con gà luộc nằm trong cái dĩa lớn ngửng mặt nhìn trời. Mình nó vàng bóng loáng những mỡ. Hai bên là hai dĩa xôi trắng. Anh Năm tắm cho tôi, rồi bắt mặc quần áo mới. Anh đẩy tôi lại gần con gà, nơi cha tôi đang đứng lầm rầm khấn. Cha tôi vốn không nhiệt thành mấy về điểm cúng bái, nhất là đối với môn cúng khai tâm này, nên ông để yên cho Năm Nhiều ra lệnh bắt tôi lạy ba lạy. Tôi hồi hộp làm đầy đủ nghi thức, nhưng mỗi khi quỳ xuống đứng lên, mắt đăm đăm nhìn vào con gà là lòng thắc mắc tự hỏi không biết con gà kia có quan hệ gì đến chữ quốc ngữ mà mình sắp đi học. Khi con gà được dọn xuống thì cũng chính Năm Nhiều ra lệnh cho tôi phải ăn cái đầu gà. Anh ngồi nhìn tôi ăn với một vẻ vừa sung sướng vừa cung kính, khiến tôi áy náy mà quên mất rằng mình đang ăn thịt gà. Có lẽ lúc ấy tôi tưởng rằng tôi đang làm một nghi lễ gì nghiêm trang, hệ trọng lắm, còn anh thì chắc anh đang hài lòng vì nghĩ đến một ngày kia tôi sẽ học hành thông minh, kết quả của bao công phu của anh: tìm gà cồ trắng, bắt lạy, bắt ăn đầu gà.

Một người sống quá khăng khít với những linh hồn của tổ tiên, của thánh thần, của đủ loại ma quỷ như vậy, chắc chắn là rất kém trong việc làm ăn thực tế. Anh nghèo luôn luôn và mắc nợ mẹ tôi không biết mấy lớp. Đối với đàn bà con gái, anh cũng không thành công gì hơn. Dù là con gái nhà quê, người ta cũng muốn có một ông chồng lanh lẹ thực tế. Chớ ngồi nói chuyện tâm tình với một người quá lễ mễ mà đôi tay lúc nào cũng nhu chuẩn bị kẹp bó nhang hay vừa giữ vạ áo vừa rót rượu thì chán chết. Cũng như đôi mắt, bàn tay là tiếng nói của ái tình. Thế mà bàn tay của Năm Nhiều thì đúng là bàn tay câm. Thành ra cho đến bốn mươi tuổi vẫn chưa có một người đàn bà nào. Thật ra thì nói như vậy cũng chưa thật hoàn toàn đúng. Hình như anh đã có yêu một người: đó là chị Gần. Chị Gần không đẹp, nhưng mặt mày cũng dễ coi. Có điều cặp môi hơi dày. Cái kho ca dao tục ngữ là mẹ anh đã vô tình sớt cho anh một mớ kinh nghiệm về tướng người, than ôi, lại nhằm điểm bất lợi của chị Gần.

Mỏng môi nói láo đã xong.
Dày môi ăn vụng, môi cong ăn hàng.

Nhưng nghèo như anh mà lại không đẹp trai thì anh không mong gặp một cô hằng nga. Vậy chắc là anh đã chọn chị Gần. Chị là bạn thân của chị Của, cùng đi về một chợ, cùng ngồi một chỗ nhỏ to bàn tính tiền công, giá cả, hàng giờ ở ngạch cửa nhà anh. Cứ cách một ngày là có chị bên cạnh chị Của. Mỗi lần đứng gần chị, anh hay đưa tay vuốt tóc, những sợi tóc cứng đứng sừng sững bướng bỉnh. Đó là lối làm dáng độc nhất của anh, biểu lộ một sự bối rối mực thước. Thỉnh thoảng anh cũng có đưa đẩy vài câu chuyện nhưng mà khó nhọc biết bao! Anh phải đằng hắng nhiều lần để nuốt một miếng đờm tưởng tượng nào đó rồi mới nói được những câu rất đỗi vô duyên.

- Chị Gần… à… à.. cúng mồng năm có lớn không?

Chị Gần cũng không hoạt bát gì hơn. Đôi môi dày chuyển động một cách chậm chạp. Thành ra hai người sắp sửa thành tình nhân ấy chỉ còn biết chăm chăm nhìn xuống hai bàn chân của mình như chưa bao giờ thấy chúng. Sự tỏ tình mặc dầu đạm bạc, gần như tiêu cực đó, cũng không lọt khỏi mắt người anh rể của chị Gần. Người anh rể này bấy lâu đã ngầm coi chị như người vợ dự khuyết của anh ta. Vợ anh đau ốm hom hem, nên anh phải lo xa một cách phũ phàng như vậy. Nhưng từ ngày chị Gần tới nhà Năm Nhiều hơi nhiều, thường xuyên và với những lý do không chính đáng lắm thì anh khởi sự lo. Anh thấy phải vội vàng thực hiện cái ý định của anh. Anh bắt đầu chửi vợ. Để sự chửi bới không trở thành trắng trợn, để đỡ ngượng với hàng xóm, anh uống rượu trước khi chửi. Chửi vợ chán, anh chửi luôn em vợ và mẹ vợ. Cuối cùng, không biết bằng cách dàn xếp nào mà chị đã trở thành vợ anh ta. Thế là chai rượu và cái ly không còn cần thiết nữa. Chỉ có tiếng chửi là vẫn còn, nhưng lần này lại là tiếng chửi the thé, nhọc mệt, tiếng rủa kèm theo tiếng khóc của vợ anh. Chị chửi chồng, chửi em gái mình. Chị chửi trời, chửi đất. Cho đến một buổi tối kia, chị Gần cuốn áo quần đi mất biệt. Ở lại cái xóm nghèo nàn này có hai người đàn ông đau khổ vì chị: người anh rể và Năm Nhiều.

Năm Nhiều có buồn không, buồn bao nhiêu lâu thì không ai biết. Vì có bao giờ anh vui vẻ đâu? Anh lúc nào cũng mơ mơ màng màng, đi dưới đất mà tưởng chừng như đang bay theo các “bà” ở giữa không trung. Chỉ biết là từ ngày đó anh hay ngồi tẩn mẩn hàng giờ trước chiếc gương soi, có lẽ để tìm xem vì những khuyết điểm nào ở trên mặt mình mà mình phải chịu một sự thất bại lớn về tình ái dường ấy.

Thói thường thì khi nhìn vào gương người nào cũng thấy mình không đến nỗi xấu. Chỉ có khuôn mặt phản chiếu ra thấy hơi là lạ, ngường ngượng là vì trên thực tế mình chưa hề gặp một con người như vậy lần nào. Đôi mắt anh quả có nhỏ thật đó nhưng nhìn vào gương thì tự nhiên anh phải mở to mắt rồi. Đôi hàm răng có vụng về đó, nhưng có bao giờ người ta há miệng để soi gương đâu mà biết? cái mũi, đôi mày gò má đều được anh soát xét cẩn thận nhưng vì ranh giới mơ hồ nên anh rất yên tâm mà thấy mình cũng “ngó được”

Qua những lần thám hiểm như vậy, anh mới có dịp để ý đến những mụn tàn nhang có rất nhiều trên mặt mình. Anh dùng hai ngón tay cái để nặn và cái mụn trồi ra chầm chậm, dễ dàng, đúng lúc, như chính nó cũng cùng chia sự thích thú với anh. Đầu mụn mang một vết thâm đen. Chính những vết thâm này làm từng chấm trên khuôn mặt. Khi nặn xong một mụn thì chỗ cái mụn vừa ly khai có một lỗ chân kim nhỏ màu hồng, trông đẹp hơn cái chấm đen trước nhiều. Đến đây, một sự hối tiếc lặng lẽ gặm nhấm tâm hồn anh. Anh tự trách mình đã bỏ qua bao nhiêu năm mà không hề để ý đến những vết mụn thù nghịch kia. Bây giờ đã có quá nhiều mụn đã già rồi, vết đầu đen đã nhẵn sát xuống da mặt, khiến trên khuôn mặt rải rác như có rắc những hột mè đen hay những hột hoa mồng gà. Ái tình đến quá chậm nên mới có những sự bất lợi như vậy. Khi yêu người ta mới hay làm dáng. Năm Nhiều thì vừa chậm yêu vừa ý thức sự làm dáng quá chậm chạp. Ít ai như anh, thất bại trong tình trường rồi mới chợt để ý đến những mụn tàn nhang.

Từ lúc phát kiến ra cái lối làm đẹp không tốn kém mà khéo gây thích thú này, Năm Nhiều có khi ngồi suốt giờ cạnh chiếc gương soi, chơi một mình với những mụn tàn nhang. Những khi bạn đến chơi nhà, anh không ham nói chuyện như trước mà chỉ thích tìm những mụn tàn nhang nơi mặt bạn. Có khi anh bắt người bạn xoay mặt đủ chiều để anh tìm vết mụn. Vì trong nhà tối nên anh kéo bạn ra ngồi ở cạnh cửa, nơi đó dưới ánh sáng của mặt trời, những cái mụn sẽ không lẩn trốn đi đâu được. Rồi với đôi ngón tay thành thạo, anh đã nặn vết mụn ra, sau khi tám ngón tay còn lại kẹp cứng khuôn mặt của người bạn để không cựa quậy được. Sự say mê ma quái này làm khổ những người bạn của anh không ít. Đôi khi những người bạn này la “ái” lên, nước mắt ràn rụa, nhưng anh cũng không tha. Anh phải suỵt suỵt nho nhỏ: “Im, im sắp ra rồi”, làm như nếu nói to thì cái mụn sẽ nghe được và nó sẽ chạy trốn mất.

Nhưng số lượng những cái mụn có thể nặn được thì có hạn mà sự say mê của anh thì khôn cùng, nên khi những cái mụn đã hết rồi thì anh lại rơi vào sự im lặng cô đơn. Anh đành phải rời bỏ khuôn mặt mình mà đưa mắt chậm chạp, uể oải nhìn xung quanh. Đúng vào lúc ấy, anh thấy chị Ba Răng Vàng. Chị này ở Tuy Hòa tản cư ra. Ngoài ba cái răng cửa bọc vàng tây, chị có hai con mắt sắc hay liếc và một cái miệng hay nói hay cười. Đôi hàng lông mày in rành rành vết dao cạo xén và môi có bôi một lớp son đỏ lợt. Tóc bới vồng lên, ở trước như hai cái sừng mới nhú và trên mái tóc mang rất nhiều kẹp. Lọn tóc bới lỏng bỏ rơi xuống dưới ót trông tựa cái bụng của một con tò vò. Vóc người chị thon nên khi đi, đôi tay đưa đẩy dịu dàng, một sự dịu dàng dường như cố ý, có sắp đặt trước. Tất cả đều trái hẳn với chị Gần chậm chạp nặng nề. Chị Ba Răng Vàng ở trọ nhà ông Cống, cách nhà Năm Nhiều chừng vài trăm thước. Chị bán xôi chè và cơm rượu. Miệng con nhà buôn gặp ai cũng mời cười, nhưng Năm Nhiều ngây thơ cứ tưởng nụ cười đó, nhất là con mắt liếc chỉ dành cho anh. Thành ra anh hăng hái tuyên bố rằng anh đã ghiền món chè “bột lọc bọc đậu phộng” của chị. Những bữa ế hàng, nồi chè còn đầy thì chị Ba càng phung phí mắt liếc và nụ cười với anh. Chị dám nắm tay anh mà kéo - bàn tay tinh khiết chỉ quen cầm nắm nhang - bắt lại ngồi ăn giùm cho chị một chén chè. Anh đau khổ từ chối, bảo rằng không có tiền thì chị cuời:

- Ăn đi rồi bữa nào có trả cho em.

Tiếng “em” ngọt ngào làm nhột sau ót anh. Từ xưa đến giờ chưa ai xưng hô với anh như vậy, kể cả lũ em gái. Đứa nào cũng xưng “tui” một cách lạt lẽo cộc lốc. Anh lợi dụng tình thế liếc trả lại chị một cái rồi uể oải lại ngồi húp chén chè. Uể oải, vì nghĩ đến đồng bạc lát nữa không biết phải mượn của ai để trả.

Có lần chị Ba Răng Vàng hỏi:

- Sao anh Năm không lấy vợ?

Năm Nhiều thầm nghĩ: “Đàn bà con gái ở thành phố bạo dạn quá trời. Dám hỏi đàn ông điều đó”. Anh mỉm cười lấy giọng nửa đùa nửa thiệt.

- Tôi nghèo mà ai thèm lấy.

- Xì! Có anh hà tiện thì có. Cưới vợ về sợ nó ăn hết gạo chớ gì!

Đó không phải là sự thật, vừa không phải là câu nói mà anh mong đợi. Anh muốn chị Ba nói rằng “Tôi thương anh lắm. Tôi muốn lấy anh”. Nhưng chị Ba chỉ mê mải ngồi rửa cái chén và sau cùng cầm lấy đồng bạc anh đưa bỏ kỹ vào túi, cài kim băng cẩn thận.

 

Trích từ trang    http://vohong.de

Phần   1   2   3    4    5   

           © http://vietsciences.free.fr  http://vietsciences.net  Võ Hồng