Thế giới của Năm Nhiều

Vietsciences- Võ Hồng     20/01/2006       Vết hằn năm tháng

 
Phần   1   2   3    4    5      
 

Không biết trong bảng tử vi của anh Năm Nhiều có phải “Mệnh thân có tử vị cư Mão Dậu gặp Kiếp Không” hay sao mà đời anh lại gắn liền quá mật thiết với sự cung kính dường đó. Phải chứng kiến sự sắp đặt quy mô của bàn thờ nhà anh mới thông cảm được phần nào sự an bài bất khả kháng của Hóa công. Nhà nhỏ lợp tranh đã cũ mèm, gần nát vụn ra và vách đất. Nền nện đất, nứt thủng ở nhiều chỗ. Hai cái cửa sổ lùa và một cửa ra vào bị mái che thấp xuống nên ánh sáng vào quá ít. Nhà thành ra tối hùm hụp suốt ngày. Tôi chưa hề nghe một ngọn gió nào thổi ngang qua đây nên ngồi trong nhà thì phải ngửi mùi hôi thối cố hữu của ngôi nhà, mùi hôi lưu lại từ ngày mẹ anh còn bán nước mắm, dầu lửa, dầu phộng, cốm kẹo, thuốc hút… Mùi hôi ấy như phát xuất từ nền nhà, từ xó kẹt ghế bàn, từ vách đất. Những bàn tay dính nước mắm, dính mồ hôi đã bôi quẹt qua lại lên vách nhiều lần trong nhiều năm, nên vách cứ láng bóng lên nhất là ở những chỗ thường qua lại. Cả gian nhà chính chỉ kê một bộ ván, còn bao nhiêu chỗ dành cho ghế thờ. Ghế lớn đặt ở dòng giữa. Một bộ lư đèn ngự ở đây, toàn bằng gỗ trắc đánh bóng lên nước. Trước ghế kê cái bàn. Ngày thường, đó là nơi đặt kỷ trà để tiếp khách. Đến ngày giỗ chạ thì trên sắp bày những xôi chè, canh thịt… Một cái ghế tương đối nhỏ hơn kê ở bên tay phải, sau bộ ván. Cũng lại một bộ lư đèn bằng gỗ. Trên đầu thêm một cái khám thờ ông táo. Hai mẹ con dường như chưa đồng ý về điểm này. Tính Năm Nhiều ít nói và hay nhường nhịn. Vả lại, ông Táo thì cũng đáng sợ như ông Địa nên anh chưa dám cả tiếng truất phế.

Thôi thì thờ ai cũng được. Hơn nữa, nhà có lắm trẻ nhỏ mà theo lời truyền thì ông Táo lại thích quở trẻ con, hay bắt chúng nóng vặt. Thấy mẹ và anh nhân nhượng nhau, chị Của em út của anh Năm Nhiều mượn ngay nơi đó để thờ “các đẳng”. Chị buôn bán dang, mây, hom nứa từ chợ Lùng chở về nên phải luôn luôn vái các đẳng phù hộ. Không có chỗ nào dành cho chị hết nên chị phải mượn tạm cái khám. Vả lại đặt vẻn vẹn một nải chuối và cắm một cây hương thì chỉ có chỗ ấy là tiện lợi hơn hết. Đã tránh được sự chỏn vẻn, trơ trọi mà được nơi kín đáo cần thiết cho nải chuối kịp chín. Đặt ở ghế dưới thì không yên được với lũ trẻ nhỏ. Chúng nó đòi ăn và có gan dám bẻ trộm lắm.

Khi đã đặt vấn đề chiếm hữu nơi cái khám thì lẽ tất nhiên là hai dòng bàn thờ cũng phải quy định thuộc phần ai. Mẹ anh phụ trách việc cúng kính từ hồi cha anh mất. Lúc bấy giờ anh mới lên năm. Tính bà xuề xòa nên bà nghĩ rằng ai cũng xuề xòa như bà, kể cả các vị tổ tiên khuất mặt cũng vậy. Thành ra dù giỗ ông nội, bà nội, ông cố, bà cố hay cha Năm Nhiều, bà cũng chỉ sắp đồ cúng ở bàn thờ lớn. Vừa rộng rãi, vừa dễ đi lại. Bàn thờ nhỏ do đó mà chịu ế sốt cả thời kỳ bà cầm quyền. Kịp đến khi Năm Nhiều thay bà giữ quyền tế tục thì Năm Nhiều tổ chức có lề lối hơn. Bàn thờ nhỏ dành riêng cho cha anh. Bàn thờ lớn dành cho tất cả các vị tổ tiên khác. Để phòng ngừa mẹ lộn xộn, anh lấy khuôn hình của cha anh vốn treo trên vách đem dựng vĩnh viễn trên ghế nhỏ. Hình chụp cha anh đội mũ chào mào, áo quần lính tập thắt nịt da to và bắp chân quấn xà cạp. Để tỏ sự tột độ nghiêm trang, ông cụ giơ tay mặt lên ngang trán chào theo kiểu nhà binh.

Ông cụ đi lính mộ và hình như chết ở Mac xây, bên Pháp (chi tiết này tôi nghe cha tôi kể lại). Mẹ Năm Nhiều thì chỉ nhớ chắc chắn là ông cụ chết ở bên Tây, còn địa danh đích xác thì cứ vài năm bà lại đổi một lần. Trí nhớ của bà không được mẫn nhuệ. Ngay cái tên làng Định Trung, ấp Phong Nhiêu là nơi bà sống trên năm mươi năm rồi mà đố bà có nhớ nỗi. Ai hỏi bà ở đâu thì chắc chắn là bà chỉ trả lời được rằng “Ở Soi giữa”. Vậy thì cứ chừng vài năm ông cụ Năm Nhiều lại phải vì bà mà thay đổi chỗ chết một lần. Ban đầu thì đúng là Mac xây rồi, rồi Mặt xây, rồi Xây mặt… cho đến một hồi nào đó sáng kiến của người chinh phụ này cùn đi, năng lực biến chế của bà cạn đi và bà nói liều: “Chẳng biết chết ở cái xứ Xây xây gì đó. Có cái hình của ổng kia kìa”. Cái hình ấy nay đã vàng và bong đi mất nhiều mảng ở quanh rìa. Và theo sự phối trí mới của Năm Nhiều thì bây giờ nó được ngự trị trên bàn nhỏ. Quả tình Năm Nhiều có năng lực tổ chức thật. Mọi sự cúng kính được điều hành có trật tự, ngoại trừ cái khám còn đang ở dưới chế độ cộng đồng tương đối bất ổn.

Vừa hoàn thành tổ chức quản trị mới thì Tết đến . Đây là dịp thử thách tài của Năm Nhiều. Ngày 24 tháng chạp sau khi sang dẫy mả giùm cho nhà tôi xong, anh vay mẹ tôi hai giạ nếp và năm mươi đồng. Hẹn sang mùa tháng ba trả. Hăm chín tháng chạp nhằm chợ Phiên Thành, anh mua vác về một tấm bức thờ bằng giấy trên viết một chữ thọ thật to ở giữa và hai bên viết hai câu đối. Bức đó để treo trên vách nơi bàn thờ tổ tiên. Bốn bức khác nhỏ hơn vẽ hình chim hạc, chim phượng, hoa sen, hoa mẫu đơn.. treo ở bàn thờ cha anh. Với mấy bức vẽ màu chói chang lòe loẹt, ngôi nhà anh sáng hẳn ra tươi vui như có hội. Mấy đứa cháu, con chị Của cứ thập thò đứng nhìn làm quẩn cả chân anh.

Khi cắm những cành bông điệp vào lọ độc bình, bông điệp hai màu vàng và đỏ, anh xin ở nhà Trùm Diếc, thì anh vừa lẩm bẩm trong miệng “Đông hoa, Tây quả…”. Đông hoa, Tây quả thì tôi hiểu rồi. Đã có lần anh giảng cho tôi nghe rằng cái lọ cắm hoa và cái cỗ bồng sắp chuối không phải muốn đặt ở chỗ nào trên bàn thờ cũng được, mà đã có kinh điển quy định rồi. Lọ hoa thì phải đặt ở hướng Đông và cỗ bồng chuối thì ở hướng Tây. Hỏi: còn “Đông bình Tây hộp hương” nghĩa là sao thì anh đánh trống lãng không trả lời. Tôi thật không ngờ việc xếp mấy món đồ thờ nói chi đến việc tế tự to lớn mà cũng khó khăn bí hiểm đến có thể làm cho Năm Nhiều lúng túng. Đã vậy mà lại không có một quyển tự điển nào về nghi lễ để tra cứu, nên trên bàn thờ của Năm Nhiều đành thiếu một bình và một hộp hương. Tuy vậy, tôi cho rằng anh đã cố ý đền bù chỗ thiếu sót này bằng một cỗ bồng rất đỗi phong phú, xếp đến bốn, năm tầng nải chuối, hai tầng trái quýt, một trái bưởi to và mấy chùm mận, thế mà vẫn giữ được thăng bằng, kể cũng đã khéo tay.

Tối 30 và ngày mùng một, mùng hai, bàn thờ đầy ắp những lễ vật, đèn nến sáng choang. Cái khoảng trống còn lại trước dãy ghế, đầy những người: bà mẹ Năm Nhiều, Năm Nhiều, chị Của và bốn đứa con chị Của. May mà Năm Nhiều chưa lấy vợ nên trong cái khoảng hẹp ấy còn có chỗ để tránh nhau. Tôi thấy không khí nơi đây quả thật là ấm cúng đặc biệt. Mà nào có cần phải đẹp đẽ sang trọng? Mẹ anh thì già lẩm cẩm, gầy mỏng như cái lá sả và đôi mắt lèm nhèm. Một cái miệng quá rộng trên khuôn mặt quá dài. Miệng đó không phải là dấu hiệu của sự hòa mục. Chị Của thì lùn và đen. Đôi con mắt nhỏ, loại tinh ranh vặt. Mấy đứa con của chị thì mặt mũi chẳng mấy khi sạch sẽ. Ngoại trừ con Lượm tám tuổi có đủ áo quần, còn thì thằng Khá sáu tuổi, con Khen năm tuổi, con Mùi hai tuổi đều chỉ mặc một cái áo còn quần thì mẹ chúng hẹn để sang năm. Đó là vào những ngày tự ngày Tết, những ngày lạnh mùa đông. Còn thì quanh năm, ba đứa ở trần như ba con heo nhỏ.

Sự lẩn quẩn của từng ấy người trong khoảng quá hẹp, dù vậy, vẫn không bực mình ông thầy tế tự là Năm Nhiều. Một người cậu nào khác sẽ ghét hết sức bốn đứa nhỏ đang lườm lườm hoặc lén lút nhìn mấy dĩa thức ăn bày trên bàn. Chúng không có kỹ thuật ngụy trang nên sự thèm ăn được biểu hiện một cách lộ liễu, có thể gọi là trắng trợn nữa. Năm Nhiều làm như không để ý đến sự biểu diễn khiếm nhã đó. Anh xoa đầu một đứa và cất giọng ôn tồn nói:

- Đi xuống dưới chơi. Đừng có hỗn. Để lát nữa dọn xuống đã.

Đứa bé được xoa đầu lặp lại lời anh, rủ ba đứa kia cùng đi xuống, nhưng rốt cục chẳng đứa nào đi xuống hết. Và thế là cả bảy người lại lộn vào trong cái khoảng hẹp.

Đã nhiều lần tôi đứng ở cửa sổ nhìn vào cái khung cảnh ấm áp bề bộn đó và tôi so sánh với nhà tôi. Nhà tôi quá rộng có từng ngăn từng phòng thành ra dù trên bàn thờ có chưng bộ tam sơn ngũ sự đồ sộ, đèn nến sáng choang, hương trầm nghi ngút mà tôi vẫn cảm thấy lạnh lẽo trang nghiêm làm sao. Ngày Tết, mẹ tôi mua sắm bận rộn đủ thứ nhưng vì thứ nào cũng có chỗ cất dọn ngăn nắp thành ra tôi vẫn không thấy vui mắt bằng căn nhà của Năm Nhiều. Ơû nhà anh thấy thứ gì cũng bày trong một khoảng hẹp. Có bao nhiêu mứt, bao nhiêu cốm, bánh in, mấy thẩu dưa món, mấy đòn bánh tét là biết hết. Ngồi đánh tam cúc chơi mà mắt vẫn có thể lượn trên những miếng mứt bí dày cộm đường, trên những miếng nhân thịt của đòn bánh tét đang cắt dở. Mắt no những màu sắc, tai no những âm thanh, mũi no những hương vị, quả cái tiểu thế giới của anh có nhiều sức hấp dẫn thiệt. Mà không chỉ ngày Tết mới vậy. Quanh năm, hình như không lúc nào là nhà không có khách. Khách tầm thường thôi và là những người ở quanh quẩn gần nhà anh. Chẳng là bình trà nhà anh luôn có bỏ trà ngon và những người khách kia chiếu cố đến bình trà nhiều hơn đến anh. Ngoài những chén trà đầu do anh mời còn thì những chén trà sau đều do khách tự tay rót lấy. Họ chọn những lúc nào anh nói chuyện hăng hái nhất và họ đã tán thành một cách nồng nhiệt nhất. Lúc bấy giờ chủ khách đều hỉ hả thông cảm với nhau, và làm như vô tình, tay họ nghiêng cái bình cho người trà lặng lẽ chảy vào tách. Thật tội nghiệp, những người bạn nghèo của Năm Nhiều! anh không giàu gì hơn họ, nhưng được cái anh không so đo. Có đường, có kẹo, có chuối anh mời mọc thiệt tình. Riêng phần anh, anh luôn luôn nhịn miệng đãi khách. Chỉ khổ cho bà mẹ anh khát nước, lại cầm bình lên thấy nhẹ bỗng. Thế là bà nổi tam bành.

- Đồ quỷ ! Uống cái gì mà cạn ráo không còn để phần cho ai một giọt. Uống gì mà như rồng hút nước. Cũng phải biết…

Câu chửi, dù nhẹ nhàng cũng bị Năm Nhiều cắt ngang. Anh chỉ xịu mặt bung ra năm tiếng “Bà này thiệt… sao mà..” thế là bà cụ im. La lắm chỉ tổ khát mà bà thì có tật không uống được nước lạnh.

Phần   1   2   3    4    5    6 

Trích từ trang   http://vohong.de

           © http://vietsciences.free.fr  http://vietsciences.net  Võ Hồng