Thế giới của Năm Nhiều

Vietsciences- Võ Hồng     20/01/2006       Vết hằn năm tháng

 
Phần   1   2   3    4    5     
 

Những bữa có giỗ thì nhà Năm Nhiều tấp nập khỏi phải nói. Anh lục đục nấu nướng đầu tắt mặt tối cho dù nhà anh có dư đàn bà để lo việc ấy. Một người chị lấy chồng ở mãi Thái Long dẫn về ba đứa con. Một người em lấy chồng ở xóm Đường dẫn về bốn đứa. Một đứa cháu gái rọi bằng cậu lấy chồng ở Xuân Đài cũng cố nách hai đứa con về. Cộng với mẹ anh và nhà chị Của thì quả nhà này dư đàn bà để làm một bữa cỗ linh đình. Nhưng họ chỉ được sai bảo vặt. Việc nấu nước, xắt thịt, đơm dĩa, anh đều tự đảm nhiệm hết. Xong, lại cũng chính anh lo sắp dọn bàn. Rồi rửa mặt thay áo dài, đội khăn, anh châm hương, châm đèn đứng lầm thầm khấn vái. Về điểm này, anh có khác mẹ anh. Bà cụ thì khấn to như đang nói chuyện với khách. Mà bà cụ nói chuyện thật. Lúc giỗ chồng thì bà kể lể những hồi ông ra đi binh cách “Anh ra đi, thong thả hơn tui ở nhà. Một mình nuôi bốn đứa con nhỏ. Thằng Nhiều thì ghẻ chốc. Dán hết mụn này trổ sang mụn khác. Con Của thì đái dầm. Hết đứa này ấm đầu tới đứa khác ỉa chảy… Cửa nhà đơn chiếc, mời hương hồn anh về uống chén rượu, ăn miếng chả….”

Năm Nhiều nghe đến đoạn mình bị ghẻ chốc mà cảm thấy thương mẹ. Mấy đứa con chị Của nghe hồi nhỏ mẹ chúng đái dầm thì cười rộ lên. Bà cụ đang khấn cũng cười theo rồi xì mũi và lau nước mắt. Năm nào đến ngày giỗ là cụ cũng kể lể thuộc lòng từng đoạn như vậy khiến Năm Nhiều thấy mình như nhỏ lại. Tuy khấn khứa lẩm cẩm vậy nhưng cũng phải công nhận giữa bà và người chết có sự cảm thông mật thiết…

Đến bữa cúng “các đẳng” thì bà cụ quả có nhiều trí tưởng tượng. Bà mời “…những vị chết sông chết suối, chết lửa chết củi, chết chém, chết đâm, chết đường, chết sá, chết gió, chết máy, quá giang chìm đò, đẻ rơi bóp mũi, ăn mày xó chợ…” Những năm sau này khi đường ô tô chạy qua đầu xóm và con đường xe lửa băng qua cánh đồng Chí Đức thì bà thêm một số nạn nhân nữa: “… những người xe cán dẹp mình, tàu nghiến đứt ruột, những người sẩy chân lọt xuống đường rầy, những người...”. Số người thụ hưởng thật quá nhiều đối với một mâm cháo, con gà bằng bắp tay và một nải chuối còn xanh.

Năm Nhiều khấn nhỏ hơn với một vẻ mặt nghiêm trang hơn. Thật đúng là cái dáng dấp khả kính của một ông thầy tế tự biết tự trọng. Anh lim di đôi mắt và hai bàn tay kẹp một nắm hương lớn để ngang trán rất lâu. Lũ cháu tỏ dáng sợ hãi len lén nhìn cái tư thế trầm mặc ấy của cậu chúng rồi lảng bỏ xuống bếp. Ừ mà thật vậy, vẻ mặt của Năm Nhiều chỉ có giá trị khi Năm Nhiều nghiêm trang trong ánh nến và khói hương. Bình thường, đó chỉ là một cái mặt bèn bẹt với đôi mắt nhỏ và cái mũi hếch. Nước da mái mái, da nơi hai gò má bóng lên một cách vô duyên. Răng lại mọc khập khễnh, mọc thành đôi ba hàng lộn xộn. Cái khuôn mặt ấy nói cười đều không gây niềm kính nể.

Tại sao Năm Nhiều lại có duyên với sự cúng bái làm vậy, đó là câu hỏi tôi đã đặt ra từ lâu. Lúc tôi còn nhỏ, anh được mẹ tôi cậy đến ở nhà bế tôi. Khi tôi biết chạy chơi thì anh chuyên lấy đất sét nắn hình long đình, bộ lư, đỉnh, cây đèn. Anh hái những trái mảnh bát già, cắm bốn cọng nhang ngắn vào giả làm con heo. Anh cắt ngang cổ trái mảnh bát rồi bày riêng ra làm đầu heo (ruộng mảnh bát già màu đỏ như máu). Anh lấy những lon, những khay bày một hàng trước bàn thờ giả rồi gõ nhịp lên rồi tụng niệm ê a. Anh bắt tôi chắp tay vái lạy. Thế là tôi học tiếp xúc với thần linh do sự môi giới của anh Năm Nhiều vậy.

Ngày nào anh cũng bày cỗ cúng một vài lần. Khi có đông lũ trẻ nhỏ đến chơi thì anh tổ chức thành đám rước. Đứa thì thổi kèn, những cái kèn cuộn bằng lá chuối, đứa thì đánh trống đánh chiêng bằng miệng, nhưng tuy bằng miệng mà vẫn có trật tự, tiếng bầm, tiếng beng xeng nhau. Anh Năm Nhiều làm tổng chỉ huy. Mẹ anh mỗi lần gặp thấy anh cao lêu nghêu đi “rước sắc” giữa bầy trẻ con còn ở truồng như vậy là bà chửi liền:

- Mồ tổ mày, to đầu mà còn chơi chuyện con nít. Mày coi, mày đã cao bằng cây cau kia rồi.

Và thế là đám rước rối loạn hàng ngũ, trống chiêng bỏ chạy hết.

Sau đó, anh thôi không cúng giả nữa mà anh vái ông Táo, ông Địa thật, với đồ cúng thật. Mỗi khi quên đóng chuồng gà để gà đi lạc, sợ cha tôi rầy, mỗi khi đánh mẹ, đánh lú bị thua liểng xiểng là anh mua một cái bánh nướng và một miếng đường để vái ông Địa. Không dám đốt đèn sáp sợ tỏ ra quá lễ mễ, anh chỉ đốt một cây đèn hột vịt nhỏ. Cũng không dám đốt hương nữa vì sợ mẹ anh bắt hơi mùi hương mà lên hỏi lôi thôi. Sự cúng vái do đó mang tính chất du kích, nghĩa là nếu nghe tiếng guốc của mẹ anh lẹt xẹt đi lên thì anh thổi phụt ngay ngọn đèn, thế là xong. Cái bánh tráng và miếng đường trở lại vị trí cũ là món ăn xoàng xĩnh ngang tầm của anh, mẹ anh không có cớ gì để nghi ngờ nữa. Nhưng phải đợi đến năm anh chấp chưởng quyền gia trưởng thay mẹ thì năng khiếu cúng bái của anh mới phát triển toàn vẹn. Thôi thì nhà anh cứ phảng phất mùi khói hương quanh năm. Anh giỗ cha, ông nội, bà nội, ông cố, bà cố. Anh giỗ ông chú bà thím, cô Hai, cô Ba là những người tuyệt tự. Anh giỗ ông ngoại, bà ngoại, vì lòng hiếu với mẹ. Ngày rằm, mùng một, ngày vía Phật, ngày vía Quan Thánh.. anh nhớ không sót. Nếu không vì nghèo thì tôi chắc cái gian giữa nhà anh phải là nơi gặp gỡ của còn nhiều các vị thần linh nữa. Gặp trường hợp nào anh cũng kêu cầu sự phù hộ

Nhưng bảo rằng sự cung kính thái quá của anh là một lối hối lộ thần linh thì sợ có oan cho anh không? Chớ riêng tôi thấy thì hình như sự nghiêm trang xuýt xoa của anh là một thái độ hạ mình để kêu gọi lòng trắc ẩn. Trong khi cúng vái, tôi thấy anh hay hít mũi mà không hề nghe có tiếng nước mũi chạy lên. Như vậy, thì sự hít mũi đúng là một lối trang bị hơn là một sự cần thiết sinh lý. Anh muốn nhún mình, hạ mình, muốn tỏ rằng mình khổ, mình cần sự giúp đỡ che chở. Những người khổ, những người muốn chứng tỏ rằng mình khổ đều có những phép trang bị tương tự. Chẳng hạn họ cố ý đi khòm lưng xuống. Chẳng hạn họ hay thở dài. Chẳng hạn họ hay thốt ra những thán từ tỏ sự ngạc nhiên, sự sợ hãi: “Trời ơi! Trời ơi! Mô Phật! Chúa ơi!”

Đúng là Năm Nhiều đang đi trên con đường xây dựng mặc cảm đó. Tôi có thể chứng minh điều này bằng lối bẻ bánh tráng của anh. Số là mỗi lần có cúng giỗ thì cỗ đầu tiên, cỗ ngon nhất anh dùng để mời khách. Khách đó trước tiên là cha tôi mà anh nài nỉ hết sức để mời đến cho được. Thứ đến là ông xã Tám, một người hào phú đương kim lý trưởng. Rồi đến hương kiểm Bán và câu Hai Dần. Tôi cũng được anh và mẹ anh trì kéo cho vào ngồi chung bàn “vì cảm tình riêng”, anh nói. Ngồi ăn như vậy, tôi đóng vai trẻ con hay nhìn người lớn khề khà uống rượu. Tôi mới để ý đến tia mắt khinh bỉ mà ông xã Tám dành cho câu Dần. Nhiều câu nói của câu Dần, ông xã làm như lảng tai không nghe, để không trả lời. Yù ông xã chê câu Dần chức vị quá nhỏ không xứng được chung bàn với ông. Thực tế thì quả có như vậy. Ơû trong thôn xóm, trừ những người u mê thậm tệ, còn thì ai cũng được nhận một chức vị nhỏ. Chẳng lẽ trong suốt một đời người mà không có dịp nào sao. Những chức câu, trùm, kim tri.. đâu phải món hàng có nhiều người đầu cơ mà trái lại, thừa thãi ra đó, ai muốn xin lãnh cũng được. Vậy mỗi người sẽ đến lượt mình. Câu Dần, trùm Sáu, kim Hai đã thay hẳn những cái tên riêng. Nhưng mặc dù vậy, cho đến ba mươi mấy tuổi, anh Năm Nhiều vẫn chỉ là Năm Nhiều chớ không hề được gọi là trùm Năm, câu Năm.. và do đó mới xảy ra việc nể nang một ông câu thư như câu Dần mà ông xã Tám, xem là thái quá.

Khi bữa ăn giỗ bắt đầu, anh Năm cầm những cái bánh tráng nướng để bẻ. Nhưng thay vì bẻ trên tay, anh lại để bánh tráng trên đầu. Hai tay anh kéo hai bờ vành bánh xuống cho bánh bể một tiếng gọn trong khi cổ anh rụt xuống. Thái độ khúm núm này chắc là làm vui lòng cha tôi và ông xã Tám lắm. Nhưng giá anh Năm đừng lặp lại cử chỉ ấy với cái bánh tráng đặt trước mặt câu Dần. Khi rót rượu, anh cũng lễ độ đúng mực. Tay mặt cầm bình rượu chúc xuống, còn tay trái vòng ngang để giữ vạt áo dài.

Những năm chiến tranh, Năm Nhiều làm không đủ ăn, nhưng trong cảnh nghèo, anh vẫn không bớt mẫn cán trong việc tế tự. Tội thân anh, đã phải chạy đồ cúng một cách chật vật mà nhiều khi còn phải che giấu bớt sự cúng kính quá thường xuyên của mình. Trong khi xung quanh ai nấy phải khó khăn lắm trong sự sinh sống mà mình cứ thắp hương một cách thừa thãi thì quả là vô ý thức. Vả lại lúc bấy giờ còn có phong trào bài trừ mê tín, nên anh cần phải thận trọng nhiều lắm. Nhớ có lần toàn huyện thi đua bắt chuột, bảo vệ mùa màng, ai nấy mang cuốc xẻng ra đồng đào hang chuột, mang rơm un khói chuột, mang chó theo săn chuột, mang lưới căng bẫy chuột, thế mà riêng Năm Nhiều thì biện một mâm cỗ lén mang ra miếng ruộng nhà để cúng vái ông Tý. Thì ra anh Năm quan niệm rằng mọi sự vật trên đời này đều có một sự cảm thông huyền bí với nhau, kể cả những việc nhỏ nhất. Mỗi gốc cây, mỗi phiến đá cũng có thần linh trong đó. Chớ sao? Trong khắp xóm chỗ này chỗ kia người ta vẽ những hình tượng và bùa chú lên mặt những viên đá để trấn áp những góc rào. Những thanh tre cũng được bôi vôi trắng và vẽ bùa chú lên để đặt trên sườn nhà. Hèn chi anh chẳng lúc nào chẳng trầm tư. Dễ thường anh đang lắng nghe tiếng nói thần linh của mọi vật xung quanh anh. Những đêm tối trời, anh ngồi chơi với tôi mà thấy một vì sao đổi ngôi là anh im lặng cắt đứt câu chuyện. Sau đó anh thì thầm nói:

- “Bà” mới bay. Chắc “bà” bay về miếu.

Bà nào, tên gì, anh không trả lời được, nhưng nhất định là “bà” vừa bay. Bình vôi cũ, ông táo bể, anh xếp cẩn thận ở gốc mít và cấm ngặt lũ cháu không cho đến gần. Rồi hễ đứa nào ấm đầu, đi tướt là anh đổ riệt rằng nó đã quấy phá ông táo và ông bình vôi. Đứa cháu có cam đoan mười mươi là không bao giờ bước đến đó cũng không tin. Lập tức một lễ nhỏ được bày biện ra và anh xuýt xoa tạ lỗi.

Trích từ trang    http://vohong.de

Phần   1   2   3    4    5    6

           © http://vietsciences.free.fr  http://vietsciences.net  Võ Hồng