Những bài cùng tác giả
Chương 5
Sơn trung Lão nhân
Khi Hasan -i Sabbah còn đang cầm quyền tại lâu đài Alamut, và thông điệp
của ông ta, bằng lời nói và bằng lưỡi gươm, được các sứ giả đem tới cho
dân chúng và các vương hầu tại Iran, thì một nhóm thuộc hạ của ông ta
lại cất bước băng qua vùng đất thù nghịch, để đến phía Tây. Đích đến là
Syria ; mục đích là mang Lời giảng mới cho nhóm Ismaili cố cựu
sống ở xứ này, và để mở rộng chiến tranh chống lại thế lực của dòng
Seljuq, trải dài từ Tiểu Á cho đến biên giới Ai cập.
Lời giảng mới xuất phát từ Iran, và các tín đồ nhiệt thành đã đạt thành
công lớn đầu tiên tại những vùng mang nền văn hóa và nói tiếng Ba- tư -
miền tây và miền đông Ba-tư, và tại Trung Á. Đối với âm mưu thứ nhất
muốn bành trướng về phía tây, Syria là lựa chọn đương nhiên của họ, còn
Iraq, lại không có nhiều cơ hội tuy nằm sát phía Tây Ba-tư. Chắc chắn
tại các thành phố ở Iraq đều có người cảm tình với nhóm Ismaili,
nhưng các vùng thung lũng bằng phẳng có sông chảy qua vốn không thuận
lợi mấy cho chiến thuật xâm nhập, cố thủ và tấn công của nhóm này. Còn
đối với Syria, là 1 vấn đề khác. Nằm giữa vùng núi Taurus và Sinai,
Syria 1 vùng gồm nhiều núi và thung lũng, sa mạc xen nhau, là nơi sinh
sống của nhiều sắc dân khác nhau, có truyền thống địa phương độc lập
mạnh mẽ. Không giống như các xã hội có lối sống dựa trên sông ngòi-thung
lũng tại Iraq và Ai-cập, Syria hầu như không có sự thống nhất chính trị.
Tại đây lúc nào cũng có tình trạng phân rã - giữa các đặc trưng phe phái
tôn giáo và địa phương, luôn trong tình trạng tái diễn xung đột và đổi
thay. Mặc dù cùng nói tiếng Ả-rập, người Syria lại theo nhiều giáo phái
và tín ngưỡng khác nhau, với nhiều nhóm theo đức tin của nhóm Shi’ite
cực đoan. Nhóm Shi’ite tiên khởi xuất hiện tại Syria vào thế kỷ thứ 8
;vào khỏang cuối thế kỷ thứ 9 và đầu thế kỷ thứ 10, các Imam ẩn
thân của nhóm Ismaili có thể an tâm dựa vào sự ủng hộ của dân đại
phương để biến Syria thành cứ địa để đặt tổng hành dinh bí mật và trở
thành nơi đầu tiên để dành thế lực. Việc hình thành chế độ Caliph
dòng Fatimid tại Ai cập, rồi bành trướng sang châu Á, đã đưa Syria vào
vùng ảnh hưởng của nhóm Ismaili vào cuối thế kỷ thứ 10 và thế kỷ
11, và mở cửa cho những tuyên truyền và giáo lý cuả nhóm Ismaili
xâm nhập vào nước này.
Ngoài nhóm Ismaili công khai, còn có những giáo phái khác cũng có
giáo thuyết gần giống như cuả nhóm Ismaili về mặt giáo lý và tầm
nhìn (outlook), đã tạo nơi này thành một mảnh đất đầy hứa hẹn cho các sứ
đồ từ lâu đài Alamut tới để tuyển người. Lấy một ví dụ như người Druze
sống ở vùng núi Liban và các vùng phụ cận, họ vốn thuộc 1 chi phái
Ismaili chống đối, mới vừa tách ra khỏi dòng chính, và cũng chưa lâm
vào tình trạng cô lập ôm lấy những tập tục cũ như về sau này. Một nhóm
khác cũng hứa hẹn cung cấp nhiều hỗ trợ đó là nhóm Nusayris, cũng còn
gọi là nhóm Alawis, vốn là phái Shi’ite theo 12 Imam, nhưng lại
nhiễm nhiều tư tưởng cực đoan. Tất cả đều lập cư tại vùng núi phía đông
và đông-bắc Lattakia, và vào thời đó, họ cũng có mặt tại vùng hồ
Tiberias và thung lũng sông Jordan.
Có thiên thời và có lẽ thêm địa lợi. Các nhóm người Thổ đầu tiên được
biết đã nhập vào Syria vào năm 1064. Trong suốt những năm 70 thuộc thế
kỷ 11, những nhóm người Thổ di dân tự do, và sau đó là quân đội chính
qui người Seljuq đã tấn công nước này, và tiếp đến chiếm tòan bộ Syria,
chỉ trừ dãi đất ven biển vẫn do dòng Fatimid giữ, chịu sự kiểm sóat của
dòng Seljuq. Thủ lãnh của vùng này là Tutush, em của Đại Sultan
Malikshah.
Vào năm 1095, Tutush bị giết tại Ba-tư khi ra trận tranh giành chức vụ
Sultan đầy quyền lực. Cái kiểu thức địa phương chủ nghĩa cọng với cái
truyền thống tranh dành ngôi vị của người Seljuq đã làm cho lãnh địa của
ông này nát bấy. Syria lại bị chia thành những tiểu quốc nhỏ, do các
vương hầu và lãnh chúa người Seljuq cai trị ; quan trọng nhất trong số
đó là mấy người con của Tutush, Ridwan và Duqaq, nắm giữ 2 thành phố
Aleppo và Damascus đối nghịch nhau.
Chính vào thời điểm lọan lạc và đầy rẫy xung đột này, một lực lượng mới
toanh xuất hiện – đó là quân Thập tự. Từ thành phố Antioch ở phía bắc,
họ tiến nhanh dọc theo vùng bờ biển xứ Syria mà không gặp phải lực lượng
nào đủ sức ngăn trở, sau đó họ thành lập 4 quốc gia Latinh tại Edessa,
Antioch, Tripoli và Jerusalem.
Sự mở rộng quyền lực của dòng Seljuq sang phía Syria đã đem theo nhiều
vấn đề liên quan đến sự thay đổi và áp lực xã hội vốn quen thuộc tại
phương Đông. Ngỡ ngàng vì bị các quốc gia Latinh xâm lược và sự chinh
phục đã làm cho người Syria càng thêm khốn khổ và thất vọng và đẩy họ
vào hòan cảnh dễ gần với những kẻ mang thông điệp đem lại hy vọng đươc
cứu chuộc - nhất là đối với những ai vốn đã mang các tín niệm sẵn sàng
chấp nhận một thông điệp kiểu như thế. Dòng Fatimid tại Cairo vẫn còn có
các tín đồ tại Syria, là những người phái Ismaili theo Lời giảng
cũ - nhưng do sự yếu hèn nhục nhã của chế độ tai Cairo không ngóc nổi
đầu để chống trả sự đe dọa của bọn Thổ, hoặc bọn Latinh, cho nên họ phải
chuyển sang phía nào tích cực, hiếu chiến hơn và cũng có phần dễ thành
công hơn. Một nhóm Shi’ite và đa số nhóm Sunni dường như vẫn còn
chung thủy với các những ràng buộc cũ ; nhưng cũng đã có nhiều người lại
quây quanh lực lượng mới, có vẻ một mình cũng đủ sức đối đầu với những
kẻ xâm lược và cai trị trong xứ.
Ngay từ lúc khởi đầu, các thuộc hạ của lâu đài Alamut tại Syria thử sử
dụng các phương pháp tương tự và đã đạt được một số kết qủa giống như
các đồng bọn của họ tại Ba-tư. Mục đích của họ là đánh chiếm hoặc bằng
cách nào đó đọat được pháo đài làm căn cứ bàn đạp để phát ra các đợt
khủng bố. Để đạt được cứu cánh này, họ tìm cách xúi giục và lèo lái lòng
nhiệt tình của các tín đồ, nhất là tại các khu vực núi non ; cùng lúc,
họ cũng không chê kiểu hợp tác bí mật với các vương hầu khi xét thấy cần
đến một liên minh tạm thời và có mức độ mà cả 2 bên đều cần có.
Mặc dù được giúp đỡ như thế, và thỉnh thỏang cũng đạt được một số thành
công, nhóm Ismaili nhận thấy rằng nhiệm vụ của họ tại Syria khó
khăn hơn nhiều so với công việc tại Ba-tư - có lẽ phần nào vì họ là
người Ba-tư phải làm việc trong một môi trường xa lạ. Sau ngót nửa thế
kỷ hết sức quyết tâm, họ mới đạt được mục tiêu đầu tiên, và củng cố được
1 loạt các cứ điểm tại vùng trung tâm Syria, vùng rừng núi Jabal Bahra
theo tên cũ, tức là Jabal Ansariyya ngày nay. Các thủ lãnh của họ, theo
như chúng ta biết được, thảy đều là người Ba-tư, được Alamut phái tới
theo lệnh của Hasan-i Sabbah và những người kế vị sau này. Việc chiến
đấu để tồn tại của họ chia ra làm 3 giai đọan chính. Trong 2 giai đọan
đầu, chấm dứt vào các năm 1113 và 1130, họ họat động liên tục ở Aleppo
và Damascus nhờ sự tiếp tay của thủ lãnh 2 thành phố trên, và họ cố gắng
phát triển sang vùng lân cận. Cả 2 đợt đều thất bại tai hại. Trong suốt
giai đọan 3 bắt đầu từ năm 1131, họ cũng chiếm được các cứ điểm mà họ
cần, khi chiếm đươc rồi, họ ra sức củng cố.
Lịch sử của nhóm Ismaili tại Syria, theo như các sử gia Syria ghi
lại, chủ yếu chỉ là lịch sử những cuộc ám sát do họ chủ mưu. Câu chuyện
bắt đầu vào ngày 1 tháng 5 năm 1103, với vụ ám sát đầy tai tiếng nhắm
vào Janah al-Dawla, thủ lãnh thành Homs, tại giáo đường trung tâm thành
phố xảy ra vào ngày thứ sáu cầu nguyện. Các tay sát thủ người Batư, giả
dạng làm tu sĩ dòng Sufis, nhào tới tấn công ông này theo tín hiệu của 1
tên Shaykh đi cùng. Trong lúc hỗn lọan, nhiều người bị giết trong đó có
bọn tùy tùng của Janah al-Dawla, và những tên thủ ác. Điều đáng chú ý
là, sau vụ này, phần lớn người Thổ sống tại Homs bỏ chạy sang Damascus.
Janah al-Dawla là kẻ thù của Ridwan, thủ lãnh Seljuq tại Aleppo, và đa
số các nhà chép sử biên niên đều nhất trí rằng Ridwan có nhúng tay vào
vụ mưu sát. Đầu đảng của nhóm hashishiyya hoặc Sát thủ
(Assassin), như tên gọi bọn chúng tại Syria, là tên al-Hakim
al-Munajjin, là " nhà chiêm tinh kiêm thầy thuốc ‘. Ông này cùng với bạn
bè từ Ba tư tới và lập nghiệp tại Aleppo. Họ được Ridwan cho phép hành
đạo và rao giảng giáo lý tôn giáo của họ tại đây, và họ lấy thành phố
này làm bàn đạp cho các hoạt động khác. Aleppo có sẵn những lợi thế mạnh
cho các Sát thủ. Trong thành phố có nhiều người theo phái Shi’ite thờ 12
Imam, và thuận lợi hơn nữa là gần gũi với những khu vực
Jabalal-Summaq và Jabal Bahra’ nơi có nhóm Shi’ite cực đoan. Nhờ sự lơ
là với các trách vụ tôn giáo của Ridwan, nên nhóm Sát thủ mới có khả
năng huy động các nhân tố mới để bù đắp cho sự yếu kém về quân sự so với
các đối thủ tại Syria.
Vị " chiêm tinh gia kiêm thầy thuốc " chỉ chết sau Janah al-Dawla 2 hoặc
3 tuần, và sau đó được một người Ba-tư khác tên là Abu Tahir al-Sa’igh,
thợ kim hòan, kế vị làm thủ lãnh nhóm Sát thủ. Abu Tahir, cũng được
Ridwan ưu ái và cho tự do hành động tại Aleppo, tìm cách chiếm lấy các
điểm chiến lược tại vùng núi ở phía nam thành phố. Dường như ông này
được dân địa phương giúp đỡ cho nên chiếm giữ được 1 vài vị trí, dù chỉ
trong thời gian ngắn.
Theo tài liệu thì đợt tấn công đầu tiên xảy ra vào năm 1106 nhằm vào
thành Afamiya. Thủ thành này là Khalaf ibn Mula’ib, 1 người Shi’ite, có
lẽ cũng thuộc nhóm Ismaili - nhưng gốc tích ở Cairo, không thuộc
lâu đài Alamut. Vào năm 1096, ông ta giành được Afamiya từ tay Ridwan,
và tìm cách biến thành phố này thành một căn cứ bàn đạp để tiến hành
việc cướp bóc rộng rãi hơn. Các sát thủ cho rằng Afamiya sẽ dễ dàng đáp
ứng các yêu cầu của họ, và Abu Tahir bèn nghĩ ra 1 kế họach giết Khalaf
và đọat lấy thành trì của ông này. Một số dân chúng trong thành Afamiya
là nhóm Ismaili tại chỗ, và thông qua Abu’I-Fath, thủ lãnh của
họ, vốn là 1 quan tòa của thành Sarmin kế cận, cũng biết được âm mưu.
Một nhóm gồm 6 sát thủ từ Aleppo đến để thực hiện vụ tiến công ’. Từ
Aleppo tới Afamiya, họ dắt theo 1 con ngựa, 1 con lừa và quân phục, gồm
1 bộ khiên và giáp của người Frank, và nói với Khalaf …” Chúng tôi đến
để xin được phục vụ cho ngài. Giữa đường gặp 1 hiệp sĩ người Frank,
chúng tôi giết hắn và giờ đây chúng tôi xin dâng lên ngài ngựa, lừa và
quân phục của hắn.” Khalaf tiếp đón họ tử tế, và thu xếp cho họ ở trong
thành Afamiya, trong một căn nhà sát bờ thành. Bọn họ đào 1 cái lổ xuyên
qua tường và hẹn hò với đồng bọn Afamiya … để bọn này chui qua lổ ấy mà
vào bên trong. Rồi họ giết chết Khalaf, chiếm được lâu đài Afamiya.’
Việc này xảy ra vào ngày 3 tháng 3 năm 1106. Chẳng bao lâu sau, đích
thân Abu Tahir từ Aleppo tới để nắm quyền.
Vụ tấn công Afamiya, dù thoạt đầu đầy hứa hẹn nhưng lại không thành
công. Tancred, là vương hầu tham gia Thập tự chinh đóng tại Antioch, tức
là ở sát bên, nhân cơ hội này tấn công vào Afamiya. Có vẻ ông ta nắm rõ
tình hình, và dẫn theo 1 tù nhân chính là em của Abu’l-Fath thành
Sarmin. Thoạt tiên, ông ta đồng ý bắt bọn Sát thủ cống nạp và cho phép
họ giữ thành Afamiya, nhưng đến tháng 11 năm đó, ông ta quay lại và ra
lệnh bao vây thị trấn buộc họ phải đầu hàng. Abu’l-Fath của thành Sarmin
bị bắt và bị tra tấn cho đến chết ; Abu Tahir và đồng bọn bị bắt cầm tù,
nhưng được phép nộp tiền chuộc để về Aleppo.
Lần đụng độ đầu tiên này của các Sát thủ với quân Thập tự, và cay đắng
thay khi 1 kế họach được chuẩn bị kỹ lại bị 1 vương hầu cuả quân Thập tự
phá hỏng, nhưng dường như không xoay chuyển mục tiêu của nhóm Sát thủ từ
Hồi giáo sang Cơ đốc. Cuộc chiến đấu chính của họ chỉ nhằm vào các thủ
lãnh, chứ không phải là kẻ thù của Hồi giáo. Mục đích trước mắt của họ
là chiếm lấy 1 căn cứ, của ai cũng được ; còn mục đích lớn hơn là nhằm
lật đổ nơi nào có quyền lực của dòng Seljuq.
Vào năm 1113, họ làm được cú đảo chánh nhiều tham vọng nhất chưa từng có
- đó là vụ ám sát tại Damascus nhằm vào Mawdud, tiểu vương dòng Seljuq
vùng Mosul, tư lệnh lực lượng viễn chính phía đông, người đã đem quân
đến Syria với lý do bề ngòai để giúp cho người Hồi giáo tại đây chống
lại quân Thập tự. Nhưng đối với các Sát thủ, một cuộc viễn chinh như thế
quả là một mối nguy thực sự. Mà cũng chẳng phải chỉ riêng họ mới sợ. Năm
1111, khi Mawdud đem quân đội đến Aleppo, Ridwan đã cho đóng sập cửa
thành không để họ vào, và các sát thủ đã đứng về phía ông ta. Theo nguồn
tin ngồi lê đôi mách thời ấy, từ cả 2 nguồn Hồi giáo và Cơ đốc, đều cho
rằng vụ mưu sát Mawdud có sự tiếp tay của Phó vương Hồi giáo tại
Damascus.
Mối nguy trước ảnh hưởng của dòng Seljuq ở phía đông đối với với nhóm
Sát thủ càng ngày càng rõ hơn khi Ridwan, người bảo trợ của họ chết vào
ngày 10 tháng chạp năm 1113. Dân chúng tại Aleppo càng ngày càng trở có
ác cảm với các họat động ám sát của họ tại đây, và vào năm 1111, sau vụ
mưu sát không thành một người Ba-tư giàu có đến từ phương Đông, người
này vốn chống nhóm Ismaili ra mặt, đã làm cho dân chúng ở đây
nhất tề nổi lên chống lại bọn họ. Sau khi Ridwan chết, con là Alp Arslan
lúc đầu theo chính sách của cha, thậm chí còn nhường cho họ 1 lâu đài
nằm trên đường đi Baghdad. Nhưng chẳng bao lâu lại có phản ứng. Đại
Sultan dòng Seljuq là Muhammad gởi cho Alp Arslan 1 bức thư cảnh báo về
cái họa Ismaili và khuyên ông này nên ra tay tiêu diệt chúng.
Trong thành, thủ lãnh thị dân và chỉ huy quân tự vệ là Ibn Badi’, chộp
lấy ý này, và thuyết phục thủ lãnh cho phép áp dụng những biện pháp
mạnh. ‘ Ông ta cho bắt và giết Abu Tahir thợ kim hòan cùng với viên da’i
tên là Isma’il, và người em của nhà chiêm tinh-thầy thuốc, và những tay
cầm đầu của chi phái này tại Aleppo. Khỏang 200 tên bị bắt, một số bị bỏ
tù, tài sản bị tịch thu. Một số được can thiệp xin tha, một số được thả,
một số bị ném từ trên đỉnh pháo đài xuống đất cho chết, một số bị giết.
Số còn lại trốn thóat, trôi dạt khắp vùng.
Dù bị thoái trào, và chưa kiếm được một lâu đài để làm cứ điểm lâu dài,
nhưng sứ mạng của nhóm Ismaili Ba-tư cũng không hẳn quá bết bát
trong thời gian Abu Tahir cầm quyền. Họ đã liên lạc với các cảm tình
viên người địa phương, hình thành liên minh giữa nhóm Sát thủ với các
nhóm Ismaili khác cùng với những nhóm Shi’ite cực đoan thuộc
nhiều chi phái tại Syria. Họ có chỗ dựa quan trọng tại vùng Jabal
al-Summaq, vùng Jazr, vùng Banu Ulayn- tức là vùng lãnh thổ có tầm chiến
lược nằm giữa Shayzar và Sarmin. Họ xây dựng được những hạt nhân hỗ trợ
tại nhiều nơi ở Syria, nhất là dọc theo con đường liên lạc hướng về phía
đông chạy đến tận Alamut. Các đô thị trên dòng Euphrates nằm về phía
đông Aleppo đã từng là hang ổ của các nhóm Shi’ite cực đoan thời trước
và về sau này, và mặc dù không có bằng chứng trực tiếp chứng tỏ chúng có
hoạt động trong những năm đó, nhưng người ta có thể tin chắc rằng Abu
Tabir không hề bỏ qua khi có cơ hội. Điều đáng chú ý là ngay từ mùa xuân
năm 1142, một lực lượng chừng 100 tên Ismaili từ Afamiya, Sarmin
và các nơi khác lại bất ngờ tấn công chiếm được thành Sarmin của người
Hồi giáo, khi quan thủ thành này cùng bộ hạ đi ra ngoài dự hội nhân ngày
lễ Phục sinh của người Cơ đốc. Ngay sau đó đã xảy 1 cuộc phản công giáng
trả, đẩy lùi và tiêu diệt bọn chiếm thành.
Thậm chí tại Aleppo, mặc dù đã thất bại vào năm 1113, nhóm Sát thủ cũng
còn lưu được một vài dấu ấn. Vào năm 1119, kẻ thù của họ là Ibn Badi’ bị
đuổi ra khỏi thành phố và chạy về Mardin ; nhóm Sát thủ đón lỏng và giết
được ông này cùng với 2 đứa con trai tại chỗ vượt sông Euphrates. Năm
sau họ đòi một thủ lãnh phải giao 1 lâu đài, ông này tuy không muốn
nhưng lại sợ trả thù, bèn giả vờ cho phá hủy vội vàng như thể lệnh phá
hủy đã đưa ra từ trước. Mấy năm sau, viên sĩ quan thực hiện việc phá hủy
này bị ám sát. Đến năm 1124 thì ảnh hưởng của nhóm Ismaili tại
Aleppo không còn nữa, khi thủ lãnh mới của thành phố này bắt giam người
đại diện của viên da’i chính và trục xuất các tay chân của ông ta, bọn
này bán tống bán tháo tài sản rồi bỏ đi.
Vào thời đó, người đại diện mới là thủ lãnh thực sự nhóm Ismaili
tại Aleppo chứ không phải viên da’i chính. Sau khi Abu Tahir bị hành
quyết, người kế nghiệp là Bahram, đưa các họat động chính của phái này
về phía nam, và chẳng bao lâu sau đó thâu tóm được quyền hành tại
Damascus. Cũng như người tiền nhiệm, Bahram là 1 người Ba-tư, là cháu họ
của al-Asadabadi, người bị xử tử tại Baghdad vào năm 1101. Trong một
thời gian dài ‘ ông ta sống ẩn dật và hầu như hòan tòan bí mật, luôn cải
trang kín đến mức khi đi từ thành phố này sang thành phố khác, từ lâu
đài này sang lâu đài khác, không hề để lộ lý lịch ’. Chắc hẵn ông ta có
nhúng tay vào vụ mưu sát Bursuqi, là thủ hiến Mosul, tại 1 giáo đường
thành phố vào ngày 26 tháng 11 năm 1126. Có đến ít nhất 8 tay sát thủ
người Syria, cải trang thành thầy tu khổ hạnh, nhào vô đâm Bursuqi. Sử
gia thành Aleppo là Kamal al-Din Ibn al-Adim kể lại 1 câu chuyện khá thú
vị :” Tất cả các thích khách đều bị giết chỉ trừ 1 thanh niên quê tại
Kafr Nasih, thuộc thị trấn Azaz (phía bắc Aleppo) thóat được mà không hề
hấn gì. Bà mẹ cậu này khi nghe Bursuqi bị giết và bọn thích khách cũng
bị giết, và biết rằng trong số đó có con trai mình, lấy làm mừng rỡ, lấy
dầu kohn bôi lên mí mắt ; nhưng vài ngày sau khi thấy đứa con trai trở
về an lành, bà ta nắm lấy tóc mà giựt và bôi đen cả mặt mình.’
Cũng từ năm đó, năm 1126, mới có các báo cáo đầu tiên cho biết về sự hợp
tác giữa nhóm Sát thủ và Tughtigin, thủ lãnh người Thổ tại Damascus. Vào
tháng giêng, theo sử gia biên niên người Damascus là Ibn al-Qalanisi,
các băng nhóm Ismaili từ Homs và các nơi khác, nổi tiếng là can
đảm và mã thượng, đã gia nhập đội quân của Tughtigin, tấn công vào quân
Thập tự nhưng không thành công. Vài năm trước, Bahram xuất hiện công
khai tại Damascus qua thư giới thiệu của Il-Ghazi, là thủ lãnh của thành
Aleppo. Ông ta được tiếp đón nồng hậu tại Damascus, và chẳng bao lâu,
nhờ sự che chở chính thức đó đã kiếm được 1 vị trí nhiều quyền lực. Theo
chiến lược được thừa nhận của giáo phái, đầu tiên ông ta đòi lấy 1 lâu
đài ; Tughgitin nhường cho ông ta pháo đài Banyas, nằm trên biên giới
với Jerusalem, vương quốc Latinh. Nhưng vẫn chưa đủ. Ngay chính tại
Damascus, bọn Sát thủ cũng được tặng 1 tòa nhà, khi thì gọi là "dinh”
khi thì gọi là " nhà công vụ " để họ đặt tổng hành dinh. Sử gia biên
niên thành Damascus cho rằng người mắc sai lầm chính trong những vụ việc
này là al-Mazdagani, vị vizier, vị này tuy không theo nhóm Ismaili,
nhưng lại là kẻ sẵn lòng tiếp tay theo các kế họach của chúng và đã đứng
đằng sau các âm mưu thóan đọat quyền hành. Theo sử gia trên thì
Tughtigin tuy không ưa bọn Sát thủ, nhưng vì những lý do chiến thuật nên
bỏ qua cho chúng, đợi đến lúc thuận lợi sẽ giáng 1 cú quyết định chống
lại. Các sử gia khác, trong khi thừa nhận vai trò của vị vizier, nhưng
cứ qui lỗi cho Tughtigin, và cho rằng ông ta làm như thế chẳng qua vì áp
lực của Il-Ghazi, người mà Bahram kết thân khi còn ở Aleppo.
Tại Banyas, Bahram cho xây lại và gia cố lâu đài, và bắt đầu chuẩn bị
các họat động quân sự và tuyên truyền tại các vùng phụ cận. Ibn
al-Qalanisi cho biết: ’ Ông này tung các sứ đòan ra khắp mọi hướng, bọn
này nổ lực lôi kéo lũ dân chúng ngu muội tại các tỉnh và đám nông dân
khờ khạo tại các làng mạc, cùng với bọn rác rưỡi cùng đinh …’ Từ Banyas,
Bahram và bộ hạ ra sức đột kích, và chiếm giữ được một vài chỗ. Nhưng
chẳng bao lâu họ gặp phải thất bại. Tại vùng Hasbayya, nơi mà người
Druze, người Nusayri và các nhóm tà đạo khác cùng chung sống, vị Wadi
tên là al-Taym lại muốn tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm Sát thủ bành
trướng. Baraq ibn-Jandal, là 1 trong những thủ lãnh của vùng này bị bắt
giữ và rồi bị giết chết do bị phản bội, và chẳng bao lâu sau đó, Bahram
đem lực lượng đến tấn công vị Wadi. Tại đây, chúng gặp sự chống trả
quyết liệt của Dahhak ibn Jandal, là em của người bị giết, thề sẽ trả
thù. Trong 1 trận giao chiến dữ dội, bọn Sát thủ bại trận, còn Bahram
thì bị giết.
Thay thế Bahram nắm quyền tại Banyas là Isma’il, một người Ba-tư, tiếp
tục theo chính sách và các họat động của người trước. Vị vizier
al-Mazdagani tiếp tục ra tay ủng hộ. Nhưng rồi cũng tới hồi kết. Cái
chết của Tughtigin vào năm 1128 kéo theo một phản ứng chống nhóm
Ismaili tương tự như tình hình sau cái chết của Ridwan tại Aleppo.
Lần này cũng thế, viên thị trưởng tên là Mufarrij ibn al-Hasan ibn
al-Sufi, người chống đối kịch liệt các chi phái, và là kẻ thù của
vizier, có sáng kiến. Được vị thị trưởng cũng như thủ hiến quân sự là
Yusuf ibn Firuz khuyến khích, Buri, là con và là người kế vị của
Tughtigin chuẩn bị tấn công. Vào thứ 4, mồng 4 tháng 9 năm 1129, ông ta
ra tay. Theo lệnh Buri,vị vizier bị giết khi ra tiếp khách buổi sáng, và
đầu bị chặt đem bêu nơi công cọng. Khi tin tức lộ ra, đám thân binh và
quần chúng đổ xô tấn công đám Sát thủ, chém giết và cướp bóc. ‘ Đến sáng
hôm sau, thì bọn Batinites (= bọn Ismaili) bị quét sạch ra khỏi
mọi khu phố đường phố, lũ chó tha hồ tranh nhau xâu xé xác và tứ chi bọn
chúng.’ Trong vụ này, tài liệu của các sử gia biên niên không giống
nhau, người thì cho rằng có đến 6000 tên Sát thủ bị giết, người thì cho
là 10000 tên, người khác cho là 20000 tên. Tại Banyas, Isma’il thấy rằng
không thể giữ được chỗ này nữa, cho nên đầu hàng và giao lâu đài cho
người Frank rồi bỏ chạy sang lãnh thổ của người Frank. Ông ta chết vào
đầu năm 1130. Câu chuyện về âm mưu của vị vizier và của nhóm Sát thủ đem
giao thành Damascus đầu hàng người Frank được kể nhiều lần, nhưng chỉ
dựa trên 1 nguồn tư liệu duy nhất, không đáng tin cậy lắm và có thể coi
như đây là một câu chuyện tầm phào đầy ác ý không đáng chú ý.
Buri và các trợ lý hết sức thận trọng tự bảo vệ mình nhằm tránh sự trả
thù của bọn Sát thủ, luôn mặc áo giáp và lúc nào cũng có nhiều quân sỹ
hộ vệ ; nhưng đều vô ích. Lực lượng tại Syria lúc đó hầu như tan rã, và
cú tấn công bất ngờ do chính từ Alamut hang ổ của bọn này đưa ra. Vào
ngày 7 tháng 5 năm 1131, 2 người Ba-tư cải trang thành lính Thổ, nhập
vào đám tùy tùng của Buri, đã hạ gục ông này. Tên của họ được ghi vào sổ
danh dự tại Alamut. Lập tức, lính canh bằm nát 2 tên sát thủ còn Buri bị
thương và chết sau đó 1 năm. Tuy cú đột kích này thành công, nhưng nhóm
Sát thủ không bao giờ phục hồi đươc vị thế của họ tại Damascus, và thật
vậy, trong 1 thành phố được bảo vệ nghiêm ngặt đúng nghĩa, khó có hy
vọng để làm được việc đó.
Trong thời kỳ này, ngoài người Thổ ra, nhóm Sát thủ còn đánh nhau với 1
kẻ thù khác. Dưới mắt họ, Caliph dòng Fatimid đang trị vì tại
Cairo là kẻ thoán đoạt ; cho nên lật đổ người này đi để đưa dòng Nizar
lên giữ chức Imam là nghĩa vụ thiêng liêng. Trong nửa đầu thế kỷ
12, có vài cuộc nổi dậy của phe thân Nizari nổ ra và bị dập tắt tại Ai-
cập, và chính quyền Cairo dành nhiều công sức đánh bạt lời tuyên truyền
của nhóm Nizari nhắm vào các thần dân của mình. Vị Caliph al-Amir
đưa ra 1 huấn lệnh đặc biệt để bảo vệ quyền lợi của dòng tộc của mình về
quyền kế vị và bác bỏ lời cáo buộc của phái Nizari. Có 1 đoạn phụ lục
đầy thú vị về tài liệu này, người ta kể rằng khi sứ giả dòng Fatimid đọc
to cho các Sát thủ tại Damascus nghe huấn lệnh trên, họ nhao nhao phản
đối và có 1 tên rất phấn kích đến mức hắn ta trình tài liệu này cho thủ
lãnh, ông ta ghi thêm lời phủ nhận vào chỗ trống ở cuối trang. Nhóm
Nizari đọc phần phủ nhận này trong 1 phiên họp cuả những người ủng hộ
dòng Fatimid tại Damascus. Vị sứ giả của Cairo nhờ Caliph giúp đỡ
để trả lời ý này và nhận được lời giải thích rõ hơn từ Musta’l. Những
việc này có thể liên quan đến vụ ám sát do bọn Sát thủ thực hiện tại
Damascus vào năm 1120 nhằm vào một người bị coi là nằm vùng săn tin cho
chính quyền Fatimid.
Bọn Sát thủ cũng đưa ra các lý luận đanh thép và đặc trưng hơn để chống
lại với kẻ kình địch thuộc dòng Fatimid. Vào năm 1121, al-Afdal là tư
lệnh quân đội tại Ai cập, và là người tham gia vào việc truất quyền của
Nizar, bị 3 tay sát thủ từ Aleppo đến ám sát ; vào năm 1130 chính
Caliph al-Amir cũng bị 10 tay Sát thủ từ Aleppo hạ gục. Ai cũng biết
là ông này rất căm ghét nhóm Nizari, và người ta kể lại rằng sau khi
Bahram chết, thì thủ cấp, tay và nhẫn của ông này bị 1 người của Wadi al
– Taym mang về Cairo để nhận tiền thưởng và được ban tặng 1 chiếc áo bào
(robe of honor).
Mối liên hệ giữa nhóm Sát thủ với người Frank trong thời kỳ này không rõ
lắm. Theo các tài liệu Hồi giáo về sau này thì những câu chuyện liên
quan đến việc nhóm Ismaili bắt tay với kẻ thù của có lẽ chỉ là sự
nghiền ngẫm của thế hệ sau, khi tòan bộ dân Hồi giáo miền Trung đông dồn
hết tâm trí vào cuộc Thánh chiến bảo vệ tôn giáo. Vào thời điểm này, đại
để người ta chỉ biết là nhóm Sát thủ cũng như nhóm Hồi giáo ở Syria
không quan tâm nhiều về vấn đề chia rẽ tôn giáo. Không nghe thấy người
Frank nào ngả gục dưới lưỡi dao găm của bọn fida’i, nhưng ít nhất cũng
có 2 lần lực lượng Sát thủ xô xát với đội quân Thập tự. Ngược lại, đám
tị nạn là Sát thủ từ Aleppo và Banyas chạy đến đất của người Frank tìm
chốn nương thân. Việc Banyas đầu hàng người Frank thay vì các thủ lãnh
Hồi giáo, khi cần phải bỏ chạy, xem ra chỉ là một vấn đề địa lý.
20 năm tiếp nằm trong nổ lực thứ 3 của nhóm Sát thủ đã bảo toàn thành
công các căn cứ pháo đài tại Syria, lần này tại Jabal Bahra’, nằm ngay
phía tây nam của vùng Jabal al-Summaq mà lúc đầu họ đã cố công chiếm
lấy. Họ đặt chân được vào nơi này sau khi người Frank cố gắng dành quyền
kiểm soát khu vực nhưng không thành công. Vào năm 1132-33 một quí tộc
Hồi giáo ở al-Kahf bán pháo đài trên núi ở Qadmus, vừa mới dành được từ
tay người Frank trong năm trước, cho nhóm Sát thủ. Vài năm sau đó, người
con của ông ta lại nhường luôn al-Kahf cho họ khi tranh giành quyền kế
tục với nhóm cháu họ của ông ta. Vào năm 1136-37, quân đồn trú người
Frank tại Khariba bị một nhóm Sát thủ đuổi chạy, bọn này dành lại quyền
kiểm soát sau một thời gian ngắn bị vị thủ hiến ở Hama tống cổ. Masyaf,
là cứ điểm quan trọng nhất của nhóm Sát thủ, bị chiếm cứ vào năm 1140-41
từ tay vị thủ hiến được Banu Munqidh bổ nhiệm, ông này là người đã mua
lâu đài vào năm 1127-28. Những lâu đài khác của nhóm Sát thủ tại
Khawabi, Rusafa, Qulay’a và Maniqa có lẽ tất cả đều được thâu tóm cũng
vào thời kỳ ấy, mà dù ta không biết rõ ngày tháng cũng như cách thức
chiếm lĩnh.
Trong suốt thời kỳ im hơi lặng tiếng để củng cố này, thế giới bên ngoài
không hề biết điều gì về nhóm Sát thủ, và chính vì thế, trong các tài
liệu biên niên cũng không có mấy dòng nói về họ. Chúng ta biết rất ít
đến tên tuổi của họ. Người mua lâu đài Qadmus được ghi tên là Abu’l
–Fath, đó là Abu Muhammad, thủ lãnh da’i cuối cùng trước Sinan. Một thủ
lãnh Sát thủ gốc người Kurd tên là Ali ibn Wafa đã cọng tác với Raymond
xứ Antioch trong chiến dịch đánh lại Nur al-Din, và bị giết cùng với ông
này tại chiến trường Inab vào năm 1149. Chỉ có 2 vụ ám sát được ghi nhận
trong những năm đó. Vào năm 1149, Dahhak ibn Jandal, thủ lãnh của Wadi
al-Taym, bị đám Sát thủ trả thù vì ông này đã chống trả Bahram vào năm
1128. Một hoặc 2 năm sau đó, họ đã ám sát Bá tước Raymond II tại Tripoli
ngay tại cổng thành - đó là nạn nhân người Frank đầu tiên của họ.
Chúng ta chỉ thấy được những nét chính về chính sách chung của nhóm Sát
thủ trong những năm đó. Đối với họ, thì Zangi, thủ lãnh vùng Mosul, và
dòng họ của ông này chỉ có sự thù nghịch. Các thủ lãnh của vùng Mosul
lúc nào cũng là các thân vương người Thổ hùng mạnh nhất. Khống chế được
các con đường liên lạc giữa Ba-tư và Syria, và có mối liên hệ thân hữu
với các thủ lãnh dòng Seljuq ở phương Đông, cho nên họ luôn là mối đe
doạ cho vị trí lúc nào cũng muốn bành trướng về phía Syria của nhóm Sát
thủ. Mawdud và Bursuqi đã bị ám sát. Họ Zangid bị hăm doạ không phải chỉ
1 lần. Khi họ chiếm cứ Aleppo vào năm 1128, thì mối đe doạ của họ đối
với nhóm Ismaili lại càng trực tiếp hơn. Vào năm 1148, Nur al-Din
ibn Zangi bãi bỏ công thức mà từ trước đến giờ nhóm Shi’ite tại Aleppo
vẫn làm để nhắc mọi người cầu nguyện. Bước này tuy gây phẫn nộ nhiều
nhưng không đạt hiệu quả gì trong nhóm Ismaili và các nhóm
Shi’ite khác trong thành phố, diễn tiến thành lời tuyên chiến công khai
chống lại bọn tà đạo. Trong tình thế này, sẽ chẳng mấy ngạc nhiên khi
thấy 1 nhóm sát thủ đứng chung hàng ngũ chiến đấu với Raymond thành
Antioch, là thủ lãnh duy nhất tại Syria thời đó có khả năng chống trả
với nhà Zangid.
Trong khi đó, thủ lãnh lớn nhất trong tất cả các thủ lãnh Sát thủ tại
Syria đứng ra cầm quân. Đó là Sinan ibn Salman ibn Muhammad, được biết
dưới tên Rashid al-Din, vốn là người ở Aqr al –Sudan, là 1 làng gần
Basra, trên đường đến Wasit. Ông này khi thì xưng là nhà giả kim thuật,
khi là thầy giáo, và theo chính ông ta cho biết, là con trai của một
trong những người có máu mặt tại Basra. Một tác gia người Syria cùng
thời tả lại lần gặp gỡ Sinan, và trong khi trò chuyện được Sinan cho
biết nghề nghiệp cũ, học vấn của mình cũng như sứ mạng trong những lần
đến Syria. ‘ Ta lớn lên tại Basra và cha ta là một trong những nhân sĩ
tại đấy. Giáo lý này đã đi vào tim ta. Rồi giữa ta và các anh em ta có
chuyện buộc ta phải rời bỏ họ, và ta ra đi tay trắng không ngựa không
tài sản. Ta cứ tìm đường đi mãi miết cho đến khi tới được Alamut. Chủ
nhân lâu đài bấy giờ là Kiya Muhammad và ông ta có 2 người con tên là
Hasan và Husayn. Kiya cho ta cùng học với con ông, coi ta như con, cung
cấp mọi thứ cần thiết cho việc sinh hoạt, giáo dục, quần áo con trẻ. Ta
lưu lại ở đó cho đến khi Kiya Muhammad chết và người con là Hasan lên kế
tục. Hasan lệnh cho ta đi đến Syria. Ta lại lên đường cũng như đi ra
khỏi Basra, và ta tránh ít khi đi vào các thành thị. Hasan giao cho ta
mệnh lệnh và thư từ. Ta vào được Mosul và dừng lại ở một nhà nguyện của
đám thợ mộc và qua đêm tại đó, và sau đó ta lại tiếp tục đi, cũng không
ghé vào chỗ đô thị, cho tới khi đến được Raqqa. Ta có 1 lá thư gởi cho
một đồng đạo ở đó. Ta giao thư cho ông ta, ông ta cho ta lương thực và
thuê cho ta một con ngựa để đi đến Aleppo. Tại đây ta gặp 1 đồng đạo
khác và giao cho anh ta 1 lá thư khác, anh này lại thuê cho ta 1 con
ngựa để đưa ta đến Kahf. Ta được lệnh lưu lại trong pháo đài, và ta ở đó
cho tới khi Shaykh Abu Muhammad, trưởng của đoàn truyền đạo, chết trên
núi. Người kế vị là Khwaja Ali b. Mas’ud, tuy không được Alamut bổ nhiệm
nhưng lại được sự nhất trí của một số người trong nhóm. Rồi sau đó thủ
lãnh Abu Mansur, là cháu họ của Shaykh Abu Muhammad, và thủ lãnh Fahd
lập mưu sai một vài tên nào đó đến đâm chết ông này khi đi tắm. Lúc này
việc lãnh đạo là lấy ý kiến chung, còn những kẻ giết người thì bị bắt và
cầm tù. Thế rồi có lệnh từ Alamut là phải xử tử tên sát nhân và thả thủ
lãnh Fahd. Kèm theo đó là 1 bức thư và 1 mệnh lệnh được đọc to cho mọi
người cùng nghe.’ Những điểm chính của lời kể này được các nguồn tin
khác xác nhận, và được thổi phồng lên trong tiểu sử huyền thoại của
Sinan, là thời kỳ tại Kahf ông ta phải chờ đợi đến 7 năm. Sinan, rõ ràng
là người được Hasan ala dhikrihi-‘l-salam bảo trợ, và năm mà ông ta xuất
hiện trước các giáo đồ tại Syria là năm 1162, tức là năm Hasan lên nắm
quyền tại Alamut. Câu chuyện về ai là người kế nghiệp có lẽ là một nhận
xét về sự bất hoà giữa Hasan và cha của mình.
Vào tháng 8 năm 1164, Hasan tuyên cáo sự Sống lại tại Alamut và phái các
sứ giả mang tin này đến các nhóm Ismaili tại những vùng khác.
Nhằm lúc đó Sinan khai trương một hệ thống cai trị mới tại Syria. Có sự
đối nghịch khá kỳ lạ giữa những gì được ghi chép về các biến cố này tại
Ba-tư và tại Syria. Tại Ba-tư việc xuất hiện của sự Sống lại được người
Ismaili ghi lại một cách trung thành – và dường như không gây
được sự chú ý cho người Sunni cùng thời ; tại Syria ngược lại,
người Ismaili dường như đã quên hẵn - trong khi đó các sử gia
phái Sunni, vừa hãi hùng vừa thích thú, lập lại các tin đồn mà họ
nghe được về thời kỳ mạt pháp. Một người cùng thời kể lại :’ Ta từng
nghe là ông ta (Sinan) đã cho phép bọn chúng cưỡng bức mẹ, chị em gái,
con gái của chúng và cho họ khỏi phải ăn chay trong tháng Ramadan .
Trong khi những báo cáo kiểu này không nghi ngờ gì là có phóng đại, thì
cũng rõ ràng là thời kỳ không còn giáo luật đã được công bố tại Syria,
và đã đưa lại lắm điều quá đáng, cuối cùng cũng được chính Sinan cho
dừng lại. ‘ Vào năm 572 [1176-77], Kamal al-Din kể lại dân chúng tại
Jabal al-Summaq đâm đầu vào những điều đồi bạc và trác táng và nhưng lại
gọi chính mình là người "thanh khiết ”. Đàn ông, đàn bà cùng nhau chè
chén, không tay đàn ông nào tha cho chị hoặc con gái của chính mình, phụ
nữ thì vận quần áo nam giới, và có kẻ lại tuyên bố rằng Sinan là Thượng
đế của mình . Các nhà lãnh đạo tại Aleppo cử quân đội đến đánh dẹp, bọn
họ rút vào trong núi để cố thủ. Còn Sinan, sau khi điều tra vụ việc,
chối không nhận trách nhiệm của mình trong vụ này, và thuyết phục người
Aleppo rút quân, để tự tay ông ta đánh dẹp bọn họ. Những nguồn tư liệu
khác cũng nói về những nhóm sa đoạ tương tự trong mấy năm đó. Có lẽ là
các tin đồn đại và các báo cáo mơ hồ của những vụ việc đó là nhằm nhắc
đến đến truyền thuyết về các khu vườn Thiên đàng của nhóm Sát thủ sau
này.
Một khi đã đặt được cơ sở, công việc đầu tiên của Sinan là củng cố lãnh
đia mới của mình. Ông ta xây lại các pháo đài tại Rusafa và Khawabi, và
vun quén lãnh thổ của mình bằng cách chiếm giữ và gia cố lại Ulayqa. Một
sử gia biên niên Ả-rập cho biết ‘ Ông ta xây dựng pháo đài tại Syria là
để cho chi phái. Có cái mới và có cái cũ nhờ mưu mô đọat được, ông ta
gia cố và biến chúng thành bất khả xâm phạm. Lợi dụng thời gian mà các
vua chúa không tấn công vào những lâu đài này bởi vì sợ các vụ ám sát do
đám tay chân của ông ta thực hiện. Ông ta cai trị Syria hơn 30 năm. Thủ
lãnh tại Alamut nhiều lần cử người đến ám sát, sợ rằng Sinan sẽ nổi lên
giành quyền lãnh đạo, thường thì những tên được cử đến đều bị giết. Một
số tên thì lại bị ông ta lừa phỉnh và thuyết phục không thực hiện mệnh
lệnh . Điều này có nghĩa là chỉ có một mình Sinan trong nhóm các thủ
lãnh Sát thủ tại Syria không chịu thừa nhận uy quyền của Alamut và đi
theo một chính sách hòan tòan độclập. Về điểm này, cũng có một số người
ủng hộ quan điểm về sự phân rã giáo lý mang tên ông ta, và đươc lưu giữ
mãi cho đến thời kỳ cận đại trong nhóm Ismaili tại Syria. Giáo lý
này không hề nhắc đến Alamut, nhắc đến thủ lãnh của lâu đài này, hoặc
các Imam dòng Nizari, nhưng lại thừa nhận rằng chính Sinan là thủ
lãnh tinh thần tối thượng.
Thông tin mà chúng ta có được về các chính sách của nhóm Sát thủ dưới
thời Sinan chủ yếu liên quan đến một lọat các biến cố mà chính họ tham
gia : 2 vụ mưu sát Saladin sau khi ông này tổ chức tấn công không thành
công vào Masyaf; 1 vụ mưu sát và gây hỏa họan tại Aleppo; và vụ ám sát
Conrad xứ Montferrat. Ngòai ra còn có những bằng chứng mơ hồ về mấy lá
thư hăm dọa gởi cho Nur al-Din và Saladin, và một tài liệu tra cứu về
tình trạng chiến tranh vào năm 1167 giữa nhóm Sát thủ và lãnh thổ
Tripoli do 1 lữ khách người Do thái sống tại Tây ban nha, tên là
Benjamin người Tudela ghi lại.
Sự xuất hiện của Saladin với vai trò là kiến trúc sư của sự thống nhất
Hồi giáo và tính chính thống, cũng như là người dẫn đầu Thánh chiến đã
khiến cho ông ta trở thành kẻ thù chính của nhóm Sát thủ, và điều không
thể tránh khỏi là đẩy họ vào vị trí dựa dẫm nhà Zangid ở Mosul và
Aleppo, tức là các đối thủ chính của ông ta lúc đó. Trong các bức thư
gởi cho Caliph ở Baghdad vào năm 1181-2, Saladin tố cáo các thủ
lãnh ở Mosul đã kết bè với đám Sát thủ tà đạo và dùng họ để liên lạc với
người Frank vô đạo. Saladin cũng đề cập đến việc họ hứa hẹn dành cho
nhóm Sát thủ nào là lâu đài, đất đai, và 1 cơ sở truyền giáo tại Aleppo,
và việc cử các sứ giả đến gặp Sinan và quân Thập tự, và cũng nhấn mạnh
đến vai trò là người bảo vệ đạo Hồi chống lại bọn Frank vô đạo, bọn Sát
thủ tà đạo, và bọn Zangid phản bội. Còn chính tác giả của thiên tiểu sử
của phái Ismaili viết về Sinan, vốn tiêm nhiễm các lý tưởng thánh
chiến của giai đoạn sau này, đã mô tả người anh hùng của mình như là 1
người cọng tác với Saladin trong công cuộc chiến đấu chống lại quân Thập
tự.
Cả 2 tài liệu đều đúng trong các thời điểm khác nhau. Mặc dù chứng cứ
của Saladin đưa ra cho biết mức độ cọng tác của các kẻ thù của mình có
lẽ đã được phóng đại nhằm hạ uy tín nhà Zangid, thì đó cũng là lẽ tự
nhiên khi các kẻ thù của Saladin trước hết là tập trung tấn công vào
chính ông ta thay vì vào ngươi khác. Câu chuyện kỳ lạ về việc 1 sát thủ
đề nghị xin theo đạo Cơ đốc do William người xứ Tyre kể lại có thể chỉ
nhằm phản ánh một sự xích lại gần giữa Sinan và vương quốc Jerusalem.
Vụ mưu sát do nhóm Sát thủ nhắm vào Saladin xảy ra vào tháng chạp năm
1174 hoặc tháng giêng năm 1175, khi ông ta đang bao vây thành Aleppo.
Theo các nhà chép tiểu sử Saladin, thì Gumushtigin, người cai trị thành
này nhân danh người con của Zangi, đã gởi thư cho Sinan, đề nghị dâng
đất, tiền bạc để đổi lại việc mưu sát Saladin. Đám Sát thủ nhận nhiệm vụ
xâm nhập vào doanh trại vào một ngày đông lạnh lẽo, nhưng lại bị tiểu
vương Abu Qubais, là người láng giềng của chúng, phát hiện được. Ông ta
cật vấn chúng, và bị chúng giết lập tức. Vụ đụng độ sau đó làm nhiều
người chết, nhưng Saladin thì không hề hấn gì. Năm sau, Sinan tính làm
một cú mưu sát nữa, và ngày 22 tháng 5 năm 1176, nhóm Sát thủ ăn mặc như
quân sĩ của Saladin, tấn công Saladin bằng dao khi ông này đang bao vây
Azaz. Nhờ mặc áo giáp cho nên Saladin chỉ bị sướt bên ngòai, còn bọn ám
sát thì bị các tiểu vương xử trí, nhiều người bị chết trong khi xô xát.
Một số tài liệu cho rằng cú mưu sát lần thứ 2 là do Gumushtigin xúi dục.
Sau mấy vụ như thế, Saladin hết sức cẩn trọng, lúc đi ngủ thì nằm trong
1 cái tháp gỗ được chế tạo đặc biệt và không cho bất cứ ai lạ tiến gần
đến bên mình.
Khi tổ chức 2 vụ mưu sát Saladin, dứt khóat là không thể có việc Sinan
bắt tay với Gumushtigin, và cũng không thể có việc ông ta hành động là
do Gumushtigin gợi ý. Nhiều khả năng hơn cả là Sinan hành động theo ý
của mình, chấp nhận sự giúp đỡ của Gumushtigin, và như thế là có được
các lợi thế về vật chất và chiến thuật. Những quan điểm tương tự cũng
được áp dụng cho nội dung của bức thư do Saladin từ Cairo gởi cho
Caliph vào năm 1174, cho rằng các thủ lãnh tham gia trong âm mưu bất
thành nhằm ủng hộ nhà Fatimid tại Ai cập trong năm đó đã viết cho Sinan,
nhấn mạnh đến điểm là họ có chung niềm tin tôn giáo và thúc dục ông ta
có hành động chống lại Saladin. Nhóm Ismaili phái Nizari ở Syria
và Ba-tư không có nghĩa vụ gì với những người cuối cùng của dòng Fatimid
tại Cairo, mà họ coi là những kẻ thóan đọat. Việc các thành viên dòng
Fatimid tìm sự giúp đỡ từ các Sát thủ tại Syria cũng đã quá đủ rồi -
khỏang nửa thế kỷ trước vị Caliph dòng Fatimid là al-Amir đã thử
thuyết phục họ thừa nhận sự lãnh đạo của mình. Nhưng nhóm Nizari từ
chối, và chính al-Amir cũng bị họ sát hại. Có thể là Sinan, một lần nữa
vì các lý do chiến thuật, lại tỏ ý muốn cọng tác với những kẻ âm mưu
người Ai cập, mặc dù không chắc là ông ta còn tiếp tục phục vụ lợi ích
của họ sau khi ra tay dẹp tan âm mưu tại Ai cập. Một nguyên nhân trực
tiếp có nhiều khả năng hơn giải thích hành động chống Saladin của Sinan
có thể tìm thấy trong 1 câu chuyện do 1 sử gia biên niên đời sau kể lại,
chứ không phải do các tác giả đương thời. Vào năm 1174-5, theo tài liệu
này, có đến 10 ngàn kỵ binh của Nubuwiyya, là một dòng tu tại Iraq chống
nhóm Ismaili, đã đột kích vào các trung tâm Ismaili tại
al-Bab và Buza’a, tại đây họ tàn sát đến 15000 người Ismaili và
lấy đi nhiều của cải và tù binh. Lợi dụng sự hỏang lọan của nhóm
Ismaili, Saladin phái quân đội đến tấn công họ, đột kích vào Sarmin,
Ma’arrat Masrin, và Jabal al-Summaq, giết sạch dân chúng ở đó. Tiếc rằng
sử gia biên niên không nêu rõ biến cố đã xảy ra vào tháng nào, nhưng có
nhiều khả năng là Saladin đã cho quân đội tấn công khi trên đường tiến
về hướng bắc để đến Aleppo, việc này có thể giải thích thái độ thù
nghịch của nhóm Sát thủ đối với ông ta. Tuy nhiên, ngay cả khi không có
lời giải thích này, thì sự xuất hiện của Saladin với tính cách là 1 lực
lượng chính tại xứ Syria Hồi giáo, chủ trương chính sách thống nhất Hồi
giáo, thì cũng đủ để xác định ông ta là 1 địch thủ nguy hiểm.
Vào tháng 8 năm 1176, Saladin dẫn quân vào lãnh thổ của nhóm Sát thủ để
trả thù và cho bao vây thành Masyaf. Có nhiều cách giải thích khác nhau
lý do ông ta lui binh. Theo Imad al-Din, là thư ký và là sử quan cuả
Saladin, cùng với các nguồn tự liệu tiếng Ả-rập về sau này, thì nhóm Sát
thủ nhờ hòang thân Hama, là chú của Saladin, đứng ra can thiệp dùm. Một
người chép tiểu sử khác bổ sung 1 lý do khá thuyết phục hơn - vì người
Frank tấn công vào thung lũng Biqa’ nên Saldin phải có mặt ở đó gấp.
Trong quyển sử về Aleppo của Kamal al-Din, thì chính Saladin nhờ hòang
thân Hama làm trung gian đứng ra kêu gọi hòa bình, rõ ràng là do hiệu
quả khủng bố mà nhóm sát thủ tạo ra. Theo luận điểm của nhóm Ismaili,
thì Saladin qúa hỏang sợ vì các quyền lực siêu nhiên của Sinan ; cho nên
mới nhờ hòang thân Hama đứng ra năn nỉ Sinan để rút lui an toàn. Saladin
đồng ý rút binh, và Sinan trao cho ông ta 1 chứng thư bảo đảm, và sau
này 2 người trở thành bạn thân thiết. Tài liệu của nhóm Ismaili
rõ ràng là thêm thắt nhiều chuyện hoang đường, nhưng dường như cũng có
phần đúng, bởi vì thật ra 2 bên có đạt được một số thỏa thuận. Chắc hẵn
là ta không ghi nhận được hành động công khai nào của bọn Sát thủ chống
lại Saladin sau khi ông này rút binh ra khỏi Masyaf và thậm chí còn có
lời bóng gió cho biết có sự toa rập nữa.
Các sử gia đưa ra nhiều câu chuyện, nhằm mục đích giải thích - có lẽ
cũng để biện minh - cho sự dễ dãi của Saladin đối với nhóm sát thủ. Có
chuyện kể rằng, trong một dịp nọ, vị Sultan gởi một bức thư hăm dọa cho
thủ lãnh nhóm Sát thủ. Ông này trả lời như sau : ’ Ta đã đọc kỹ mọi chi
tiết bức thư của ngươi, ghi nhận những lời đe dọa nhắm vào bọn ta bằng
lời nói và việc làm, và có trời chứng giám, ta ngạc nhiên khi thấy đó
chỉ là những tiếng ruồi vo ve bên tai con voi và con muỗi châm vào tượng
đá. Biết bao nhiêu kẻ trước ngươi cũng từng đã nói như thế, rồi cũng bị
chúng ta diệt sạch mà không ai cứu được. Liệu ngươi có dám chối bỏ sự
thật và tiếp tay cho cái giả dối ?. Kẻ nào làm sai sẽ biết cái kết cuộc
mà chúng sẽ gánh chịu "[ Qur’an,xxvi, 228]. Nếu quả thật lệnh của ngươi
có cắt được đầu ta và cào bỏ được lâu đài của ta ra khỏi núi đá cứng,
thì đó chỉ là những hy vọng hão huyền và không tưởng, bởi vì chẳng khi
nào mà cái tinh chất lại bị phá hủy bởi cái tình cờ, cũng như bệnh tật
không khi nào làm tan rã linh hồn được. Nhưng nếu chúng ta theo cái biểu
lộ, được cảm nhận bằng cảm giác mà bỏ đi cái thần bí, cảm nhận bằng linh
hồn, thì đây là lời của Đấng Tiên tri thay mặt cho Thượng đế :’ Không có
tiên tri nào trải qua những gì mà ta gánh chịu ”. Nhà ngươi đã rõ những
gì xảy ra cho dòng dõi, gia đình và bạn hữu của Người. Nhưng tình thế
cũng không hề thay đổi, lý tưởng không hể tàn lụi và Thượng đế luôn được
vinh danh. Chúng ta chỉ là người bị áp bức chứ chưa hề đi áp bức ai, là
người bị thiệt thòi chớ không phải là người đi cướp đọat. Khi ” chân lý
đến thì sự dối trá sẽ tàn lụi ; mà quả đúng như thế, sự dối trá đang tàn
lụi.” "[ Qur’an,ii, ] Người biết rõ bề nổi công việc của chúng ta, bản
chất của người chúng ta, những gì họ làm được ngay tức thì và họ sẵn
sàng liều chết. ” Này - Nói ra sự thật thì có chết cũng được ” [
Qur’an,ii, 88]. Có câu ngạn ngữ : Ngươi có ý định lấy con sông mà dọa
con vịt hay không ?’. Hãy chuẩn bị phương tiện, quần áo để đối đầu với
tai họa ; bởi vì ta sẽ đánh bại ngươi từ bên trong hàng ngũ của ngươi và
sẽ trả thù người tại ngay chỗ của ngươi, và ngươi sẽ thấy ai là kẻ sẽ bị
tiêu diệt, và " đối với Thượng đế thì điều này chẳng có ý nghĩa gì [ cf
Qur’an,xiv,23]. Khi ngươi đọc thư này của ta, hãy liệu chừng chúng ta và
hãy bình tĩnh, và hãy đọc từ chữ đầu ’Con ong’ đến chữ " Buồn " cuối
cùng.
Thậm chí còn đáng ngạc nhiên hơn nữa là câu chuyện do Kamal al-Din kể về
thẩm quyền của người anh của mình.:’ Anh tôi (Cầu trời thương xót cho
ông ta) nói với tôi rằng Sinan đã gởi 1 sứ giả đến gặp Saladin (Cầu trời
thương xót cho ông ta) và ra lệnh chỉ nói riêng với Saladin mà thôi.
Saladin cho người lục sóat sứ giả, và khi thấy không có gì nguy hiểm bèn
ra lệnh đuổi bớt đám tùy tùng, chỉ để lại còn một vài người, và yêu cầu
sứ giả thông báo nội dung thông điệp. Nhưng ông này nói :’ Chủ của tôi
ra lệnh chỉ đưa bức thư cho riêng ngài mà thôi ‘. Thế là Saladin đuổi
hết tùy tùng ra ngòai chỉ còn lại 2 tên nô lệ (Mamluck), rồi nói " Ngươi
đưa bức thư ra đây”. Sứ giả trả lời " Tôi được lệnh chỉ đưa bức thư chỉ
riêng cho ngài mà thôi”. Saladin đáp:’ 2 người này luôn ở bên ta. Nếu
ngươi muốn, thì hãy đưa bức thư ra, còn nếu không thì cứ ra về’. Sứ giả
nói:’ Tại sao ngài không cho 2 người này ra ngòai như những người khác ?
Saladin trả lời :’ Ta coi 2 người này như con trai của ta, họ với ta là
một ‘. Thế rồi sứ giả quay sang 2 tên Mamluck và nói : » Nếu ta nhân
danh chủ nhân ra lệnh ngươi giết tên Sultan này, ngươi có làm hay không
?. Họ trả lời có, rút gươm ra, và nói : « Xin ngài hãy ra lệnh «. Sultan
Saladin (Cầu trời phù hộ cho ông ta) hết sức ngỡ ngàng, và khi sứ giả ra
về, dẫn theo luôn 2 tên Mamluck. Thế là từ đó, Saladin (Cầu trời phù hộ
cho ông ta) phải cầu hòa với Sinan và đặt quan hệ thân hữu với ông này.
Chỉ có trời mới biết rõ tình tiết.
Vụ mưu sát thứ 2, xảy ra vào ngày 31 tháng 8 năm 1177, nhằm vào Shihab
al-Din ibn al-Ajami, là vizier của Zangid al-Malik al-Sahih tại Aleppo,
và cựu vizier của Nur al-Din ibn Zangi. Vụ ám sát này, kéo theo 2 vụ mưu
sát không thành công nhắm vào 2 tay chân của vizier, theo các sử gia
Syria thì đó là do mưu mẹo của Gumushtigin, người đã làm giả chữ ký của
al-Malik al-Sahih trong 1 bức thư gởi cho Sinan xin ông này gởi cho ông
ta mấy tên thích khách. Câu chuyện này dựa trên lời thú tội của nhóm Sát
thủ, khi bị thẩm vấn, cho rằng họ thực hiện mệnh lệnh của chính al-Malik
al –Sahih. Mánh lới này được phát hiện qua những thư từ trao đổi sau này
giữa al –Malik al-Sahih và Sinan, và các kẻ thù của Gumushtigin chộp lấy
cơ hội để đánh đổ ông ta. Dù câu chuyện có đúng sự thật hay không, cái
chết của vị vizier, mối bất hòa và thiếu tin cậy về sau cũng đều làm cho
Saladin hài lòng.
Sự tranh chấp giữa Aleppo và Sinan vẫn tiếp tục. Vào năm 1179-80,
al-Malik al-Sahih chiếm lấy al-Hajira từ tay bọn Sát thủ. Sinan có phản
đối nhưng không đạt kết quả, nên ông ta cử người đến đốt các khu chợ tại
Aleppo và gây khá nhiều thiệt hại. Không thủ phạm nào bị bắt - có lẽ là
họ vẫn còn có sự ủng hộ của dân địa phương.
Vào ngày 28 tháng 4 năm 1192, họ thực hiện một cú bạo lọan lớn nhất - đó
là ám sát Hầu tước Conrad xứ Monferrat, là vua xứ Jerusalem, tại thành
Tyre. Phần lớn các tài liệu đều thống nhất là các tên giết người giả
dạng làm thầy tu Cơ đốc, luồn lọt chiếm được sự tin cậy của Giám mục và
hầu tước. Khi có cơ hội, bọn chúng bèn đâm chết ông này. Phái viên của
Saladin tại Tyre báo cáo rằng khi 2 tên Sát thủ bị đem ra tra hỏi, chúng
thú nhận rằng vụ mưu sát này do vua nước Anh xúi bẩy. Theo những nguồn
chứng cứ phương đông và một số từ phương tây, thì dường như chẳng có mấy
ai nghi ngờ có lời thú tội như thế này. Rõ ràng là vua Richard của Anh
muốn Hầu tước biến đi, và việc người được ông ta bảo trợ là Bá tước
Henri vùng Champagne cưới bà quả phụ và sau đó nhảy lên kế tục ngai vàng
vương quốc Latinh nhanh đến mức đáng ngờ, đã làm cho câu chuyện thêm hấp
dẫn - và cũng dễ hiểu là nhiều người thời ấy dễ dàng tin ngay. Nhưng
không biết bọn Sát thủ có nói ra sự thật khi họ trả lời một câu hỏi
khác. Sử gia của nhà Zangid tên là Ibn al-Athir, ghét Saladin vì không
cấp tiền trợ cấp đúng hạn, nhận xét là Richard bị coi là chủ mưu chỉ vì
hồi đó người Frank tin như thế. Chính ông này cho rằng Saladin là kẻ xúi
bẫy, và thậm chí còn biết được số tiền đã trả cho Sinan để giải quyết
công việc. Kế hoạch là giết Richard lẫn Conrad, nhưng việc ám sát
Richard hầu như không thể được. Nhà chép tiểu sử nhóm Ismaili cho
rằng Sinan khởi xướng việc này, với sự cho phép trước và tiếp tay của
Saladin ; nhưng ở đây cũng phải chú ý đến ý muốn rõ nét của tác giả là
muốn trình bày người anh hùng của mình là người cọng tác trung thành với
Saladin trong cuộc thánh chiến. Sử gia đã thêm nhiều thông tin vô lý
chẳng hạn như để tưởng thưởng, Saladin đã ban cho nhóm Sát thủ nhiều đặc
quyền, kể cả quyền được thành lập các cơ sở tuyên truyền tại Cairo,
Damascus, Homs, Hama, Aleppo và nhiều thành phố khác. Trong câu chuyện
này, có lẽ ta sẽ thấy được là khi kể lại người ta phóng đại một số quyền
lợi mà Saladin ban cho nhóm Sát thủ trong thời kỳ sau khi có thoả thuận
tại Masyaf. Ngược lại, Imad al-Din kể lại rằng vụ ám sát không hợp theo
ý cuả Saladin, bởi vì Conrad mặc dù là một trong những thủ lãnh của Thập
tự binh, nhưng lại là kẻ thù của vua Richard đáng sợ hơn nhiều, và
Conrad có liên lạc với Saladin trước khi chết. Cái chết của Conrad đã
giải thoát cho Richard nhiều mối lo âu và khuyến khích ông này quay lại
giao chiến. 4 tháng sau, ông ta ký hưu chiến với Saladin, trong đó theo
yêu cầu của Saladin, bao gồm cả các vùng đất của nhóm Sát thủ.
Vụ mưu sát Conrad là thành quả cuối cùng của Sinan. Vào năm 1192 -3 hoặc
1193-4, Sơn trung lão nhân đáng gờm qua đời, và được 1 người Ba tư tên
là Nasr kế vị. Với thủ lãnh mới, quyền lực của Alamut dường như được
khôi phục và không chút suy chuyển mãi tận đến sau khi quân Mông cổ
chiến thắng. Ta biết được tên tuổi của nhiều thủ lãnh da’i ở nhiều thời
kỳ khác nhau là nhờ các tài liệu của họ và những lời ghi khắc trên đá
tại các trung tâm Ismaili tại Syria, trong đó đa số bọn họ đều
được gọi là người đại diện của Alamut.
Là thần dân của Alamut, các sát thủ người Syria cũng phải chịu các chính
sách mới của Jalal al-Din Hasan III- đó là việc phục hồi giáo luật, và
việc liên kết với Caliph tại Baghdad. Vào năm 1211, thủ lãnh
Alamut gởi sứ điệp đến Syria, ra lệnh cho các giáo đồ xây dựng nhà
nguyện và thực hành các lễ cầu nguyện theo nghi thức, không được uống
rượu và những điều cấm đoán khác, tuân thủ ngày nhịn ăn và tất cả những
qui định có ghi trong luật thánh.
Chúng ta không biết nhiều về việc cải cách đã ảnh hưởng như thế nào đến
các niềm tin và thực hành tôn giáo của nhóm Sát thủ ; tuy nhiên liên
minh với Caliph dường như đã tác động nhiều đến hoạt động của họ.
Đáng chú ý là tại Syria, có sự hiện diện các kẻ thù của Hồi giáo, nhưng
không có thêm vụ ám sát nào được ghi nhận, mặc dù nhiều người Cơ đốc vẫn
tiếp tục gục ngã. Người đầu tiên là Raymond, con của Bohemond IV xứ
Antioch, ông này bị giết trong 1 nhà thờ tại Tortosa năm 1213. Cha ông
ta, nôn nóng muốn trả thù, đã cho bao vây pháo đài Khawabi. Nhóm Sát
thủ, lúc này đang giao hảo tốt với người kế vị Saladin, đã kêu gọi xin
Aleppo giúp đỡ, và thủ lãnh thành này gởi đến một đoàn quân giải cứu.
Nhưng đội quân này lại bị quân Frank đẩy lùi, cho nên phải kêu cứu đến
đồng nghiệp tại Damascus gởi quân đội đến để buộc quân địch phải mở vòng
vây và lui binh.
Trong khi đó, các thủ lãnh nhóm Sát thủ tìm ra được cách lợi dụng danh
tiếng của mình sao cho có lợi. Bằng cách hăm doạ ám sát, họ bắt các nhà
cầm quyền cả Hồi giáo lẫn Cơ đốc phải chi tiền, thậm chí, dường như họ
còn lấy tiền của các du khách quá cảnh qua phương đông nữa. Vào năm
1227, theo một nguồn tư liệu Ả-rập, thủ lãnh da’i là Majd al-Din tiếp
các phái viên của Hoàng đế Frederidk II, người đã từng đến Palestine để
tham gia Thập tự chinh ; những người này mang theo quà cáp trị giá đến
80.000 dinar. Lấy lý do là con đường đi đến Alamut quá nguy hiểm vì
người Khorazm quấy phá, Majd al-Dun cho giữ các quà tặng tại Syria và
đích thân ông ta trao cho Hoàng đế 1 chứng thư để làm bằng. Cùng lúc đó,
ông ta thận trọng gởi 1 phái viên đến gặp người đứng đầu Aleppo, để báo
cho ông ta biết về đặc sứ của Hoàng đế và để kết hợp các hành động.
Mối nguy hiểm tại Khorazm cũng giải thích được một vụ rắc rối khác, đã
xảy ra trước nhưng cũng cùng năm đó. Theo câu chuyện này, thì Majd
al-Din cử 1 phái viên đến gặp Sultan dòng Seljuq ở Rum, xứ Konya, yêu
cầu là số tiền cống nạp hàng năm khoảng 2000 dinar, mà những năm trước
Sultan vẫn gởi cho Alamut, thì bây giờ phải gởi cho ông ta. Vị Sultan,
hơi chần chừ, cho nên cử 1 sứ giả đến Alamut để hỏi ý Jalal al-Din, thủ
lãnh Alamut xác nhận là ông đã chỉ định món tiền này gởi đến Syria và
chỉ đạo Sultan phải trả. Thế là Sultan giao tiền.
Cũng trong thời gian này, nhóm Sát thủ chính họ cũng phải cống nộp cho
các Hiệp sĩ dòng Nhà thương (Knights Hospitaliers). Theo nhiệm vụ của
Hoàng đế giao, sử gia biên niên Ả-rập cho biết, các Hiệp sĩ đòi nhóm Sát
thủ phải cống nộp, nhưng họ từ chối và bảo :’ Hoàng đế của các ngưoi ban
cho ta, thế thì sao các ngươi lấy lại ?. Các Hiệp sĩ liền tổ chức tấn
công, và lấy đi khá nhiều chiến lợi phẩm. Tài liệu không nói rõ là việc
nộp cống cho các Hiệp sĩ mới bắt đầu từ sự cố này hoặc đã có từ trước.
Một dấu hiệu thú vị khác do Ibn Wasil, người gốc miền trung Syria, cho
biết là các Sát thủ đã được thừa nhận và thậm chí trở thành 1 bộ phận
của bối cảnh chính trị tại Syria. Vào năm 1240, vị qadi của vùng Sinjar,
là Badr al-Din, làm mất lòng vị Sultan mới. Bỏ chạy khỏi Syria, ông ta
tìm chốn nương thân ở chỗ các sát thủ. Thủ lãnh của nhóm này vào thời đó
là một người Ba-tư tên là Taj al-Din, từ Alamut tới. Ibn Wasil không
ngần ngại khi nói thêm rằng ông ta có quen biết thủ lãnh này. Tên vị Taj
al-Din này được khắc vào bia ở Masyaf vào năm 646 Dhu’l Qa’da (tháng 3
hoặc tháng 5 năm 1249).
Chỉ có một loạt các biến cố cần phải được ghi chép trước khi nhóm Sát
thủ tại Syria tàn lụi về mặt chính trị - đó là việc thông đồng với Saint
Louis. Câu chuyện về 1 âm mưu của nhóm Sát thủ nhằm giết Saint Louis ở
Pháp khi ngài còn trẻ, được coi là không có căn cứ, cũng giống như những
chuyện khác về các hoạt động của nhóm Sát thủ tại châu Âu. Nhưng theo
tài liệu của Jonville, sử gia chép tiểu sử của Saint Louis, về những
thông đồng của nhà vua với đám Sát thủ khi ngài đến xứ Palestine lại
khác, có chứng cứ hẳn hoi. Các đặc sứ của nhóm Sát thủ đến gặp nhà vua
tại Acre, đòi ngài phải nộp cống hàng năm cho thủ lãnh của họ ‘ như
Hoàng đế nước Đức, Vua xứ Hungari, Sultan xứ Babylon [Ai cập], và nhiều
người khác đã làm, bởi vì các vị này biết rằng họ chỉ còn sống khi nào
thủ lãnh của họ hài lòng’. Ngược lại, nếu nhà vua không muốn cống nộp,
thì họ cũng lấy làm hài lòng không phải thanh tóan khỏan cống nộp của
chính họ cho các hiệp sĩ dòng Nhà thương và dòng đền Thánh. Joinville
giải thích có khỏan cống nộp này bởi vì 2 dòng tu hiệp sĩ trên không có
gì để sợ nhóm Sát thủ, bởi vì, nếu 1 trưởng dòng (master) bị giết chết,
thì lập tức sẽ có người khác cũng giỏi dang như thế lên thay ngay và thủ
lãnh nhóm Sát thủ lại không muốn mất người cho những việc chẳng mang lại
lợi lộc. Trong vụ này, cống nộp vẫn giao cho các dòng tu Hiệp sĩ, còn
Vua và thủ lãnh da’i thì trao đổi quà cáp. Nhờ thế, vị thầy tu nói được
tiếng Ả-rập là Yves người Breton mới có dịp gặp gở và trò chuyện với thủ
lãnh nhóm Sát thủ.
Quyền lực của nhóm Sát thủ tàn lụi dần khi chịu sự tấn công 2 đầu của
người Mông cổ và của Sultan Mamluk tại Ai cập, là Baybars. Tại Syria,
nhóm Sát thủ cùng với các nhóm Hồi giáo khác đẩy lùi mối đe dọa Mông cổ,
và cử sứ giả đến gặp và tặng quà cáp để tìm sự che chở ở Baybars. Lúc
đầu Baybars tỏ ra không ghét bỏ gì họ, và nhưng khi ký kết hưu chiến với
các hiệp sĩ dòng Nhà thương năm 1266, lại buộc họ phải từ bỏ việc đòi
lại các thành phố và đô thị Hồi giáo, kể cả các lâu đài của nhóm Sát thủ
cũng phải cống nạp ; phần cống nạp của họ, theo một tư liệu Ai cập là
1200 dinar và hàng trăm mudd lúa mì và lúa mạch. Nhóm Sát thủ thận trọng
gởi 1 đặc sứ tới gặp Baybars để dâng phần cống nạp mà trước đây họ vẫn
nộp cho người Frank để chi dùng trong thánh chiến.
Nhưng Baybars, cả đời gắn với sự nghiệp giải phóng dân Hồi giáo vùng Cận
đông khỏi 2 mối đe dọa của người Frank đạo Cơ đốc và đám ngọai đạo Mông
cổ, cũng không mong mình cứ tiếp tục dung nạp mãi 1 hang ổ bọn tà đạo tự
tung tự tác ngay tại giữa đất nước Syria. Ngay vào đầu năm 1260, theo sử
gia chép tiểu sử Baybars cho biết, ông này cho phép một trong các tướng
lãnh của mình lấy những vùng đất của nhóm Sát thủ làm thái ấp. Vào năm
1265, ông ta ra lệnh thu thuế và lệ phí đánh trên ‘quà cáp’ mà các vương
hầu cống nộp cho nhóm Sát thủ. Các tư liệu cho biết trong số những vua
chúa đó, có tên ‘ Hòang đế Alfonso, Vua của người Frank và Yemen . Các
Sát thủ, do đã suy yếu tại Syria và nản lòng vì số phận của các anh em
người Ba-tư của mình, cho nên không còn phương cách chống trả. Ngoan
ngõan chấp hành biện pháp này, họ cống nộp cho Baybars, và chẳng bao lâu
sau đó, Baybars thâu tóm quyền sinh sát vốn trước đó nằm trong tay thủ
lãnh của lâu đài Alamut, đang thất thế. Vào năm 1270, Baybars,do không
hài lòng thái độ của thủ lãnh Najm al-Din già yếu, cách chức ông này và
thay thế bằng một người khác dễ bảo hơn, là Sarim al – Din Mubarak, thủ
lãnh Sát thủ tại Ulayqa, là con rể của Najm. Thủ lãnh mới, giữ chức vụ
người đại diện cho Baybars, bị trục xuất khỏi Masyaf, là vùng do Baybars
trực tiếp cai trị. Nhưng Sarim al- Din, nhờ mưu mẹo, lại chiếm được
Masyaf. Baybars lật đổ, rồi cho giải qua Cairo cầm tù. Sarim chết tại
đây, chắc là bị đầu độc. Sau đó chính người bị phạt là Najm al-Din lại
được bổ nhiệm lại, cùng với Shams al-Din là con trai với điều kiện phải
cống nạp hàng năm. Từ đó tên 2 người đều được khắc ghi tên tại nhà thờ
Qadmus.
Vào tháng 2 hoặc tháng 3 năm 1271, Baybars bắt được 2 Sát thủ, nói là
được gởi tới để ám sát ông ta. Theo lời kể lại, bọn chúng đi theo 1 sứ
đòan từ từ Ulayqa đến gặp Bohemond VI xứ Tripoli, và ông này sắp xếp để
chúng đến ám sát vị Sultan. Shams al- Din bị bắt và bị kết tội giao
thiệp với người Frank, nhưng lại được thả sau khi người cha là Najm
al-Din đến để chứng minh con mình vô tội. 2 tên chưa kịp giết người được
thả tự do, còn 2 thủ lãnh Ismaili, bị ép phải nhường lại lâu đài
và bị cầm chân tại triều đình Baybars. Najm al-Din tháp tùng Baybars, và
chết tại Cairo vào đầu năm 1274. Shams al-Din được phép đi đến Kahf để ’
thu xếp công việc’. Khi tới nơi, ông này bắt đầu tổ chức chống trả,
nhưng vô ích. Vào tháng 5 và tháng 6 năm 1271, tay chân của Baybars đánh
chiếm Ulayqa và Rusafa và vào tháng 10, Shams al-Din, nhận thấy rằng mục
đích của mình không còn hy vọng, cho nên đầu hàng Baybars. Lúc đầu, ông
ta được tiếp đãi tử tế. Về sau, khi biết có 1 âm mưu nhằm ám sát một số
tiểu vương của mình, Baybars bèn đày Shams al-Din và đồng bọn sang Ai
-cập. Các lâu đài vẫn còn tiếp tục bị phong tỏa. Khawabi đổ trong năm
đó, còn tất cả các lâu đài còn lại đều bị chiếm đóng vào năm 1273.
Khi đám Sát thủ thần phục Baybars, trong một thời gian ngắn đám bộ hạ
tài ba của họ đều vào lọt tay ông này. Ngay từ đầu tháng 4 năm 1271,
Baybars hăm dọa ám sát Chủ thành Tripoli. Vụ mưu sát Hòang tử Edward
nước Anh vào năm 1272 và có lẽ vụ ám sát Philip xứ Montford tại Tyre vào
năm 1270 thảy đều do Baybars xúi bẩy. Một số sử gia biên niên sau này
còn nói đến việc Sultan Mamluk sử dụng các Sát thủ để trừ khử các đối
thủ gây phiền hà, và nhà du hành người Moor tên là Ibn Battuta, vào thế
kỷ 14, thậm chí còn mô tả được những vụ dàn xếp này. ‘ Khi Sultan muốn
sai một người trong bọn họ đi giết kẻ thù, ông ta phải trả cho họ theo
giá máu. Nếu thích khách sống sót sau khi hòan thành nhiệm vụ, hắn sẽ
nhận tiền, còn nếu hắn bị bắt, con hắn sẽ nhận. Họ sử dụng dao có tẩm
thuốc độc để hạ gục các nạn nhân được lựa chọn. Có khi mưu đồ không
thành, và chính họ bị giết.
Những câu chuyện như vậy có lẽ là do thêm thắt nào là huyền thọai nào là
ngờ vực nên cũng không mang mấy ý nghĩa như các câu chuyện kể tại phương
tây sau này, về các vụ giết thuê đám vương hầu tại châu Âu do Sơn trung
lão nhân thực hiện. Sau thế kỷ thứ 13, không còn có thêm vụ hành thích
nào đúng nghĩa do các Sát thủ Syria thực hiện vì gíáo phái của mình. Từ
đó về sau, giáo phái Ismaili chỉ còn là 1 nhóm nhỏ tà giáo tại
Syria và Ba-tư, không gây được ý nghĩa quan trọng gì về chính trị. Các
nhóm Ismaili tại Syria và Ba-tư đi theo những kẻ tiếm danh
(claimant) và kể từ đó trở về sau không còn liên hệ gì với nhau nữa.
Vào thế kỷ 16, sau khi đế quốc Ottoman chiếm đóng Syria, những cuộc điều
tra đất đai và dân số đầu tiên được trình cho những chủ nhân mới có ghi
đầy đủ các qila al-da-wa - lâu đài truyền đạo – là một nhóm các làng mạc
ở phiá tây Hama, bao gồm những trung tâm cũ và từng có tiếng tăm như
Qadmus và Kahf, nơi mà dân cư là giáo đồ cuả một chi phái đặc biệt. Điểm
khác biệt duy nhất của họ là phải trả một thứ thuế đặc biệt. Không có
trang sử nào nhắc đến họ mãi cho đến đầu thế kỷ 19, khi có báo cáo là họ
xung đột với các thủ lãnh, các nhóm dân kề cận và giữa bọn họ với nhau.
Vào khoảng giữa thế kỷ 19, họ sống đời sống thôn dã bình dị trong các
trung tâm vùng Aalamiyya, vốn là nơi định cư mới do họ khai phá từ sa
mạc. Hiện nay, họ chỉ còn khoảng 50.000 người, một số người trong bọn
họ, không phải toàn bộ, thừa nhận dòng Aga Khan là Imam.
|