Hasan –i Sabbah sinh ra tại Qumm, một trong những trung tâm định cư Ả-rập
tại Ba tư và là 1 căn cứ của phái Shi’a 12 Imam. Bố ông, là tín đồ của giáo
phái này, gốc vùng Kufa (Iraq), nhưng có người lại nói rằng ông vốn là dân
xứ Yemen - và kỳ dị hơn nữa, là hậu duệ của các vua dòng Himyaritic ở miền
đông bán đảo Ả-rập. Không biết rõ ngày sinh, nhưng có lẽ vào khoảng giữa thế
kỷ 11. Khi còn bé, cha ông dời đến Rayy – là Tehran ngày nay - và chính tại
đây Hasan theo đuổi sự nghiệp học tập về tôn giáo của mình. Rayy từ lâu đã
là 1 trung tâm hoạt động của các da’i kể từ thế kỷ thứ 9, và cũng không mấy
chốc Hasan bắt đầu cảm nhận ảnh hưởng của các vị này. Trong 1 đoạn tiểu sử
được các sử gia về sau gìn giữ, ông ta tự kể như sau : " Hồi còn bé, khi được 7 tuổi, ta thích học nhiều thứ, và muốn trở thành 1
nhà nghiên cứu tôn giáo ; đến 17 tuổi ta tìm tòi và khao khát kiến thức,
nhưng vẫn trung thành với giáo lý phái 12 Imam của tổ tiên. " Một ngày nọ, ta gặp 1 đồng đạo (Rafiq, theo cách gọi cuả các tín đồ
Ismaili) tên là Amira Zarrab, ông này đôi lúc diễn giải giáo lý của các
Caliph Ai cập … như những người khác trước ông ta đã từng làm …” " Chưa bao giờ ta nghi ngờ hoặc thay đổi về đức tin của ta đối với Hồi giáo
; ta luôn tin rằng có 1 Thượng đế luôn sống động, kiên trì, đầy quyền lực,
nghe hết, thấy hết, 1 đấng tiên tri và 1 Imam, những điều được phép, những
điều cấm, thiên đàng và địa ngục, lời răn dạy và sự cấm đoán. Ta cho rằng
tôn giáo và giáo lý bao gồm những điều mà mọi người nói chung và người theo
phái Shi’a nói riêng, đều có và trong đầu ta chưa bao giờ có ý nghĩ là phải
tìm sự thật ngòai Hồi giáo. Ta nghĩ rằng các giáo lý của Hồi giáo chính là
triết học (một từ bị người mộ đạo lạm dụng), và người cai trị là 1 người
làm ra triết lý. " Amira Zarrab là một người tốt tính. Khi chuyện trò với ta lần đầu, ông ta
nói : Người Ismaili nói như thế này, thế này ". Ta bảo : " Này ông bạn, đừng
nói theo lời của họ, bởi vì họ là những người bị ruồng bỏ, những điều họ nói
đều chống lại tôn giáo ”. Bọn ta thảo luận, tranh cải, ông ta bác bỏ và làm
cho ta mất lòng tin. Ta không thừa nhận điều này với ông ta, nhưng trong
lòng ta có sự chuyển biến mạnh … Amira nói với ta" khi suy nghĩ những lời
tôi nói trước khi ngủ, bạn sẽ thấy những điều tôi nói là đúng ”. Sau này, Hasan và người hướng dẫn chia tay nhau, nhưng chàng thanh niên tiếp
tục sự tìm kiếm của mình, và khi đọc các sách của phái Ismaili, chàng ta tìm
được một số điều thuyết phục được mình, còn một số điều khác lại làm cho anh
ta thất vọng. Một cơn bệnh nặng đã làm cho ông ta thay đổi hòan tòan. " Ta
nghĩ : chắc chắn đây là niềm tin thực sự, và bởi vì ta quá sợ cho nên ta
không tìm ra điều này. Nay số mạng của ta sắp hết, và ta sẽ chết mà không
đạt được chân lý ”. Hasan đã không chết, và khi hồi phục, ông ta đi tìm một đạo sư Ismaili
khác, để hòan tất việc học hỏi. Bước kế tiếp của ông ta là lập thệ trung
thành với Imam dòng Fatimid ; người đứng ra làm lễ là 1 thầy truyền
đạo được phép của Abd al- Malik Ibn Attash, là thủ lãnh của sứ đòan truyền
đạo (da’wa)
Ismaili tại miền tây Ba tư và Iraq. Chẳng bao lâu sau đó, vào tháng 5-6 năm
1072, đích thân thủ lãnh đến thăm Rayy, và gặp kẻ tân tòng. Ông này chấp
nhận Hasan và cử ông ta tham gia đòan da’wa, ra lệnh cho Hasan đến Cairo và
có mặt tại triều đình Caliph- tức là trình diện trước cơ quan đầu não. Thực ra, nhiều năm sau đó Hasan mới tới Ai cập. Có một câu chuyện liên quan
đến nhiều tác giả người Ba tư, và được Edward Fitzgerald giới thiệu cho độc
giả châu Âu trong lời nói đầu cho bản dịch tập thơ Rubaiyat, ngụ ý đưa ra 1
thông tin về các biến cố khiến Hasan phải ra đi. Theo câu chuyện này, thì
Hasan- i Sabbah, nhà thơ Omar Khayyam, và vizier Nizam al- Mulk đều là bạn,
học cùng 1 sư phụ. Họ cam kết là trong 3 người ai thành công sớm thì sẽ giúp
đỡ 2 bạn kia. Nizam al- Mulk sau này trở thành vizier của Sultan, và khi đó
2 người bạn nhắc đến lời cam kết xưa. Cả 2 được đề nghị giữ chức thủ hiến (
governorship), nhưng cả 2 đều từ chối vì nhiều lý do khác nhau. Omar
Khayyam ghét những trách nhiệm ở công đường, chỉ muốn nhận 1 khỏan trợ cấp
để hưởng thú nhàn hạ ; Hasan lại không muốn chết đời làm 1 viên chức tỉnh
lẻ, muốn tìm chức quan cao tại triều đình. Với mong muốn này, chẳng bao lâu
Hasan dòm ngó chức vizier và trở thành đối thủ cuả chính Nizam. Vì thế, vị
vizier lập mưu để làm giảm uy tín của Hasan trước mặt Sultan. Xấu hổ và đầy
căm giận, Hasan bỏ trốn sang Ai cập để tìm cách báo thù. Câu chuyện có một số điểm nghịch lý. Nizam al- Mulk sinh ra muộn nhất cũng
vào năm 1020 và bị giết năm 1092. Omar Khayyam sinh vào năm 1048 và chết vào
năm 1131. Còn ngày sinh của Hasan thì không rõ, nhưng chết vào năm 1124.
Những năm tháng như thế khó có thể làm cho 3 nhân vật trở nên bạn đồng học
được và nhiều tác giả hiện nay đều coi như đây là một câu chuyện được thêm
thắt. Có một số sử gia đưa ra một cách giải thích khác về việc ra đi của
Hasan, theo những người này thì Hasan va chạm với giới cầm quyền tại Rayy,
họ tố cáo Hasan một mặt đã che chở cho các điệp viên người Ai cập và một mặt
lại chính là 1 tay kích động nguy hiểm. Để tránh bị bắt, Hasan trốn ra khỏi
thành phố, và sau nhiều gian nan mới tới được Ai cập. Theo tiểu sử, Hasan rời Rayy vào năm 1076 và đi đến Isfahan. Từ đây, ông ta
ngược lên hướng bắc đến Azerbayjan, rồi từ đó đến Mayyfariqin, tại đây ông
ta bị vị Qadi đuổi ra khỏi thành phố vì khăng khăng cho rằng chỉ có
Imam mới
có quyền giải thích về tôn giáo, tức là gạt bỏ thẩm quyền của các thầy giảng
(Ulema) dòng Sunni. Tiếp tục đi về miền Lưỡng hà và Syria, Hasan đến được
Damascus, tại đây ông ta mới biết là không thể đến Ai- cập bằng đường bộ vì
hiện có tranh chấp quân sự. Vì thế, ông ta quay về phía tây ra phía biển và
từ Beirut đáp thuyền đi về hướng nam, đi từ Palestin đến Ai cập. Hasan đến
Cairo vào ngày 30 tháng 8 năm 1078, được các quan chức cao cấp triều đình
Fatimid đón tiếp. Hasan - i Sabbah lưu lại Ai cập khỏang 3 năm, lúc đầu tại Cairo, sau đó đến
Alexandria. Theo một số tài liệu, ông ta xung đột với Badr al- Jamali, chỉ
huy quân sự ở đây, bởi vì Hasan ủng hộ Nizar, cho nên bị bắt giam và sau đó
bị trục xuất khỏi Ai cập. Lý do gán cho cuộc xung đột chắc hẳn chỉ là tô vẻ
thêm, bởi vì sự tranh cải về việc ly khai lúc này chưa xảy ra, nhưng sự va
chạm giữa 1 nhà cách mạng sôi nổi và 1 tay độc tài quân sự là điều chắc
chắn. Từ Ai cập, Hasan bị tống khứ sang Bắc Phi, nhưng chiếc tàu của người Frank
chở khách lại bị đắm, và ông ta được cứu sống, rồi được mang sang Syria.
Vượt qua Aleppo và Baghdad, Hasan đến được Isfahan vào ngày 10 tháng 6 năm
1081. Trong vòng 9 năm sau đó, ông ta xuôi ngược khắp xứ Ba tư thực hiện
nhiệm vụ do da’wa giao. Trong 1 đọan tiểu sử, ông ta kể lại những hành trình
đó như sau : " Từ nơi đó (tức là từ Isfahan), ta đi đến Kerman và Yazid,
và thực hiện việc giảng đạo tại đây một thời gian ”. Từ miền trung Iran,
Hasan trở về Isfahan, và rồi quay về phương nam, trú 3 tháng tại Khuzistan,
là nơi ông ta đã từng đến trên đường quay về từ Ai cập. Hasan bắt đầu chú ý nhiều đến vùng phía bắc xa xôi của Ba tư - tức là những
tỉnh Gilan và Mazandran quanh Lý hải, và nhất là vùng núi Daylam. Những vùng
đất này, nằm về phía bắc của dãy núi bao quanh bình nguyên Ba tư rộng lớn,
có hình thể khác hẳn với những phần còn lại của đất nước Ba tư, là nơi cư
trú của 1 nhóm người độc lập, gan góc, ưa đánh nhau ; từ lâu đã bị người
Iran vùng đồng bằng cho là người không cùng chủng tộc, rất đáng sợ. Từ thời
xa xưa, các nhà lãnh đạo Iran chưa bao giờ kiểm sóat họ thực sự, và ngay đến
dòng Sasanid cũng nhận thấy cần thiết phải lập ra các pháo đài vùng biên địa
để phòng thủ chống sự xâm lấn của họ. Những người Ả-rập chinh phục Iran có
đi xa hơn một chút. Người ta nói rằng khi lãnh tụ người Ả-rập tên là
al-Hajjaj sắp tấn công vùng Daylam, ông này cho mang ra 1 tấm bản đồ, trong
đó ghi rõ núi non, thung lũng và các đèo, rồi chỉ cho sứ giả người Daylam,
bảo họ nên đầu hàng trước khi ông ta mang quân đến tấn công và tàn phá xứ sở
của họ. Nhóm người Daylam nhìn vào bản đồ, và nói : " đúng là họ báo cho
ngài biết rõ về đất nước chúng tôi, nhưng tấm bản đồ này không chỉ ra được
các chiến binh bảo vệ vùng rừng núi và các đèo. Ngài sẽ biết đến họ nếu ngài
muốn thử ". Về sau, Daylam theo đạo Hồi - do sự thâm nhập hòa bình hơn là do
chinh phục. Tuy là người qui phục đạo Hồi muộn, nhưng người Daylam lại là những người
đầu tiên khẳng định tính cá biệt trong tôn giáo này- về mặt chính trị, qua
sự xuất hiện của các triều đại độc lập, về mặt tôn giáo, qua sự nhìn nhận
những tín điều không chính thống. Từ cuối thế kỷ thứ 8 trở đi, khi các con
cháu của Ali trốn tránh sự săn lùng của dòng Abbasid, đã tìm được nơi trú
ngụ và che chở ở đây, thì Daylam đã trở thành 1 trung tâm họat động của phái
Shi’a, hết lòng bảo vệ nền độc lập của họ chống lại các Caliph ở Baghdad và
các lãnh đạo phái Sunni. Trong suốt thế kỷ thứ 10, qua họ Buyid, người
Daylam thậm chí còn xây dựng được thế lực hầu như khắp xứ Ba tư và Iraq, và
có lúc các Caliph còn nằm trong tay của họ nữa. Sự xuất hiện của người
Seljuq đã kết liễu sự cai trị của người Daylam và Shi’ite trong đế quốc, và
tạo khó khăn cho chính người Daylam. Chính từ những người phương bắc này - chủ yếu theo phái Shi’a và đã bị phái
Ismaili tuyên truyền xâm nhập từ lâu – mà Hasan - i Sabbah ra sức nhắm tới.
Đối với nhóm dân hiếu chiến và bất mãn sống tại vùng rừng núi các tỉnh
Daylam và Mazarandan, thì những tín điều quá hiếu chiến của ông ta quả là có
sức khêu gợi mạnh mẽ. Tránh không ghé qua các đô thị, Hasan len lõi qua các
sa mạc từ Khuzistan đến miền đông Mazarandan và cuối cùng đóng đô tại
Damghan trong vòng 3 năm. Từ căn cứ này, ông ta cử các da’i đến làm việc với
các nhóm dân miền núi, và chính ông ta cũng di chuyển không hề mệt mỏi đến
những nơi ấy để giúp đỡ và hướng dẫn họ. Chẳng bao lâu các họat động của ông
ta đến tai vizier, vị này ra lệnh cho chính quyền tại Rayy phải bắt lấy ông
ta. Nhưng họ không làm được. Tránh Rayy, ông ta cứ theo đường núi đến
Qazvin, là căn cứ thuận lợi nhất để tiến hành 1 chiến dịch tại Daylam. Trong suốt các chuyến du hành bất tận, Hasan không những chỉ bận tâm tới
việc làm sao đưa được nhiều tín đồ theo chính nghĩa, mà còn chú ý tìm kiếm 1
kiểu căn cứ địa mới – không phải chỉ là 1 điểm hẹn lén lút tại thành phố lúc
nào cũng có nguy cơ bị phát hiện và đánh phá nhưng phải là 1 căn cứ xa xôi,
không thể đến đuợc, từ đó có thể ra tay phát động cuộc chiến chống lại đế
quốc Seljuq mà không hề sợ bị trừng phạt. Cuối cùng, ông ta tìm ra pháo đài
Alamut được xây trên đỉnh 1 núi đá, nằm sâu trong rặng Elburz, án ngữ 1 vùng
thung lũng khép kín nhưng trồng trọt được, thung lũng này dài chừng 30 dặm,
chỗ rộng nhất đến 3 dặm. Nằm chót vót trên mỏm đá 6000 bộ (khỏang 1800 m)
so với mực nước biển, lâu đài chỉ có thể đến được qua 1 con đường hẹp, dốc
và ngoằn ngoèo. Muốn tới được mỏm đá phải qua 1 hẻm núi hẹp tạo bởi dòng
sông Alamut, với những vách đá thẳng đứng,và đôi khi chồm ra lơ lững như mái
nhà. Người ta nói rằng lâu đài này vốn do một trong những vị vua của người Daylam
xây nên. Một ngày nọ khi đi ra ngòai săn bắn, con chim đại bàng được dạy để
săn của nhà vua được thả ra và đậu trên mỏm đá. Nhà vua thấy được giá trị
chiến lược của vị trí và lập tức cho xây trên đó 1 lâu đài đặt tên là Aluh
Amut, theo tiếng Daylam có nghĩa là lời dạy của chim đại bàng. Còn những
người khác thì dịch nghĩa Alamut là tổ đại bàng dù ít tính thuyết phục hơn.
Lâu đài này được 1 ông vua dòng Alid xây lại vào năm 860, và khi Hasan đến
thì lâu đài được Sultan dòng Seljuq giao lại cho 1 ông vua dòng Alid tên là
Mihdi cai quản. Vịệc đánh chiếm lâu đài Alamut được chuẩn bị cẩn thận. Từ Damghan, Hasan
phái các da’i đến làm việc tại các làng mạc chung quanh lâu đài Alamut. Rồi
" từ Qazvin, ta phái thêm 1 thầy da’i đến lâu đài Alamut …Trong lâu đài
Alamut đã có một số người được thầy da’i này cải đạo và họ cũng cố gắng cải
đạo cho Alid. Ông này giả bộ theo ý họ nhưng sau đó lại lập mưu đuổi tất cả
những kẻ cải đạo xuống núi và đóng kín mọi cửa nẻo của lâu đài và cho họ
biết lâu đài là tài sản của Sultan. Sau nhiều lần thương thảo, Alid cho họ
quay trở lại nhưng từ đó họ không thèm nghe lệnh buộc phải xuống núi của ông
ta nữa. Sau khi các đồ đệ vào lâu đài, Hasan rời Qazvin đến vùng phụ cận Alamut,
nhưng vẫn lánh mặt trong một thời gian. Rồi vào ngày thứ 4, ngày 4 tháng 9
năm 1090, ông ta được bí mật đưa vào lâu đài. Ông ta sống dấu mặt ở đây một
thời gian, nhưng rồi cuối cùng cũng lộ ra danh tính. Chủ nhân cũ của lâu đài
nhận biết sự việc đang xảy ra nhưng không thể làm gì để chận đứng hoặc thay
đổi được. Hasan cho phép ông ta ra đi, và theo 1 truyện kể do các nhà chép
biên niên người Ba tư ghi lại,thì Hasan đưa cho ông ta 1 hối phiếu 3000 đồng
dinar vàng, coi như là tiền mua lâu đài. Hasan–i Sabbah giờ đây trở thành chủ nhân của lâu đài Alamut.Từ khi lọt vào
lâu đài cho đến lúc chết 35 năm sau, ông ta chưa bao giờ rời khỏi đỉnh núi,
và có 2 lần ra khỏi ngôi nhà ông ta ở nhưng cả 2 lần đều chỉ đi lên mái nhà.
Rashid al-Din kể lại : " Cho đến khi chết, ông ta chỉ ở suốt trong nhà ; mãi
mê đọc sách, viết các bài giảng truyền đạo, xử lý công việc trong lãnh địa,
và sống một cuộc đời khổ hạnh, đạm bạc, đầy lòng mộ đạo. Lúc đầu, ông ta lo 2 nhiệm vụ - truyền đạo và chiếm lĩnh thêm nhiều lâu đài.
Từ Alamut,ông ta gởi các sứ giả và gián điệp đi khắp nơi, nhằm hòan thành 2
mục đích đó. Mục tiêu trước mắt là kiểm sóat cho được vùng phụ cận chung
quanh căn cứ địa, đó là thị trấn Rudbar nằm dọc bờ sông Shah Rud. Trong vùng
thung lũng núi non heo hút nhưng phì nhiêu này, lối sống cũ vẫn tồn tại,
không hề bị ảnh hưởng bởi những đổi thay đang xảy ra ở tận phương nam. Thực
ra Rudbar không phải 1 thị trấn thực sự, cũng không có 1 thẩm quyền quân sự
hoặc chính trị nào đặt trên cơ sở thị trấn cả. Dân chúng sống trong các làng
mạc, và tuân phục giới hào trưởng địa phương sống trong lâu đài. Chính từ
các làng mạc và dân chúng ở đây mà nhóm Ismaili tìm ra chỗ dựa. Juvayni kể
lại : " Hasan tìm đủ mọi cách để chiếm được các vùng kế cận Alamut. Nơi nào
có thể được thì ông ta chiêu dụ bằng mánh lới tuyên truyền, nơi nào không
theo lời phủ dụ thì ông ta tàn sát, cướp bóc, cưởng đọat, gây đổ máu và
chiến tranh để chiếm lâý. Nơi nào có lâu đài thì ông ta đánh chiếm và khi
thấy có mỏm núi nào phù hợp, ông ta cho xây lâu đài trên đó. " Một thành
công quan trọng khi tiến chiếm lâu đài Lamasar vào năm 1096 hoặc 1102. Kiya
Burzugumid dẫn binh lính chiếm lâu đài này rồi trụ lại ở đó 20 năm. Nằm ở 1
vị trí chiến lược trên 1 mỏn đá tròn trông xuống sông Shah Rud, lâu đài này
khẳng định quyền lực của nhóm Ismaili trên tòan vùng Rudbar. Xa mãi về phía đông nam là vùng núi non khô cằn xứ Quhistan, gần biên giới
ngày nay giữa Ba tư và Afghanistan. Dân chúng vùng này sống rải rác thành
những nhóm khu trú trong các ốc đảo chung quanh tứ phía chỉ tòan là sa mạc
muối rộng lớn thuộc bình nguyên trung tâm. Vào những năm đầu của đạo Hồi,
vùng này là 1 trong những nơi trú ẩn của Bái hoả giáo (Zoroastra) ; khi
chuyển sang đạo Hồi, nó trở thành 1 cứ điểm của nhóm Shi’ite và những kẻ bất
tuân tôn giáo khác, và sau này là nhóm Ismaili.. Vào năm 1091-1092 Hasan cử
1 nhà truyền đạo đến Quhisatan để vận động và mở rộng sự ủng hộ của nhóm
Ismaili. Ông ta chọn ngay Husayn Qa’ini là 1 thầy da’i có năng lực đã từng
tham gia việc cải đạo tại Alamut và ông ta cũng là người gốc Quhistan. Ông
này hòan thành nhiệm vụ tức tốc. Dân chúng Quhistan đang rên siết dưới ách
cai trị của triều đại Seljuq ; người ta đồn rằng 1 viên sĩ quan người Seljuq
hống hách tại đây đã làm vấn đề thêm phức tạp khi đòi cưới người em gái của
1 thủ lãnh người địa phương rất được kính trọng, làm cho ông này phải bỏ
trốn sang hàng ngũ Ismaili. Những gì xảy ra tại Quhistan còn hơn là 1 cuộc
nổi dậy bí mật, không những chỉ là việc chiếm lĩnh các lâu đài ; người ta
cho rằng đó là 1 cuộc nổi dậy của quần chúng, một phong trào đòi độc lập
khỏi sự thống trị quân sự của ngọai bang. Tại nhiều nơi trong tỉnh, người
Ismaili công khai nổi dậy, chiếm quyền kiểm sóat nhiều thị trấn lớn – Zuzan,
Qa’in, Tabas, Tun và nhiều nơi khác. Tại miền đông Quhistan, cũng như tại
Rudbar, họ đã thành công tạo dựng nên 1 một cái gì đó giống như 1 vùng lãnh
thổ quốc gia. Các khu vực miền núi tạo nên những lợi thế rõ rệt đối với chiến lược bành
trướng của phái Ismaili. Một vùng khác cũng giống như thế nằm tại miền Tây
nam Ba tư, nằm giữa Khuzistan và Fars. Tại đây cũng có những điều kiện cần
thiết cho sự thành công - 1 vùng đầy những khó khăn, dân chúng phản nghịch
và bất mãn, dân tại đây có truyền thống rất trung thành với nhóm Shi’ite và
Ismaili. Lãnh tụ phái Ismaili tại vùng này là Abu Hamza, vốn là thợ giầy
vùng Arrajan, đã từng đến Ai cập rồi quay về trong vai trò thầy giảng da’i
dòng Fatimid. Ông này chiếm lấy 2 lâu đài, cách Arrajan vài dặm, và lấy đó
làm căn cứ cho các họat động về sau. Trong lúc một số người truyền đạo Ismaili chiếm đọat và củng cố các vị trí
quyền lực tại những cứ địa xa xôi, thì những người khác đi tuyên truyền
giảng đạo tại các trung tâm chính của phái chính thống Sunni và do triều đại
Seljuq cầm quyền. Chính họ là người gây những cuộc đổ máu đầu tiên giữa các
bộ hạ Ismaili và nhà cầm quyền triều Seljuq. Vụ xung đột đầu tiên, thậm chí
có lẽ trước khi chiếm được lâu đài Alamut, xảy ra tại 1 thị trấn nhỏ Sava,
nằm ở bình nguyên phía bắc không xa Rayy và Qumm. Viên cảnh sát trưởng bắt
được 1 nhóm 18 người Ismaili vì tụ tập riêng để cầu nguyện. Do đây là lần
họp hội đầu tiên cho nên sau khi tra xét họ được thả. Sau đó họ cố cải đạo 1
thầy rao (muezzin) gốc Sava, và sống tại Isfahan. Ông này cự tuyệt lời
chiêu mộ của họ, thế là nhóm Ismaili, do sợ ông ta tố cáo, bèn giết đi. Sử
gia Ả-rập tên là Ibn al-Athir cho biết ông ta là nạn nhân đầu tiên bị họ hạ
thủ. Tin tức về vụ mưu sát này đến tai vị vizier Nizam al-Mulk, ông này đích
thân ra lệnh hành hình kẻ cầm đầu. Người bị kết tội tên là Tahir làm nghề
thợ mộc, con của 1 thầy giảng từng giữ nhiều chức vụ tôn giáo và đã bị 1
nhóm côn đồ tại Kerman treo cổ vì nghi ngờ thuộc nhóm Ismaili. Tahir bị hành
hình, và để răn đe, xác ông ta bị kéo lê khắp chợ. Theo Ibn al-Athir, thì
ông này là người Ismaili đầu tiên bị hành quyết. Vào năm 1092, triều đại Seljuq bắt đầu đưa các biện pháp quân sự đối phó với
sự đe dọa của nhóm Ismaili. Malikshak, vị Sutan vĩ đại, hoặc chúa tễ tối cao
của dòng Seljuq, phái 2 cánh quân, 1 để chống Alamut, 1 để chống Quhistan.
Cả 2 đều bị đẩy lùi, cánh thứ nhất là do sự giúp đỡ của dân chúng có cảm
tình tại Rudbar và từ Qazvin. Juvayni nêu ra 1 tài liệu của người Ismaili về
chiến thắng này như sau :” Sultan Malikshah, vào đầu năm 495/1092 phái 1 vị
emir (tiểu vương) tên là Arsalnash đến để đánh đuổi và diệt tận gốc Hasan
–i Sabbah và đồng bọn. Vị emir này đến được Alamut vào ngày 1 tháng Jumada
năm đó (tháng 6-7 năm 1092). Vào thời điểm này, trên Alamut, Hasan -i
Sabbah chỉ có vỏn vẹn 60-70 bộ hạ ; và không có nhiều lương thực. Họ sống dè
sẻn và cố gắng cầm cự với đám quân lính bao vây. Rồi trong đám da’i của
Hasan có người tên là Dihdar Bu-Ali, vốn từ Zuvara và Ardistan tới, cư trú
tại Qazvin nơi có môt số người là tín đồ cải giáo của ông ta ; cũng giống
như tại thị trấn Talaqan và Khu-i Bara và thị trấn Rayy, có nhiều người tin
vào lời tuyên truyền của Sabbah, tất cả đều trông cậy vào con người có hộ
khẩu tại Qazvin. Hasan -i Sabbah bèn nhờ Bu-Ali giúp đỡ, và ông ta khuấy
động đám dân tại Khu-i Bara và Talaqan và mấy nơi khác từ Qazvin gởi khí
giới và quân cụ đến. Có khỏang 300 người đến để trợ giúp cho Hasan –i
Sabbah. Họ lũ lượt vào lâu đài Alamut và rồi với sự giúp đỡ của quân lính
đồn trú và sự hỗ trợ của một số người tại Rudbar cùng với đồng đảng ở bên
ngòai lâu đài, vào 1 đêm cuối tháng Sha’ban của năm đó (tháng 9-10 năm 1092), họ đánh úp quân đội của Arslantash. Như có phép màu, quân đội tháo chạy,
bỏ lâu đài Alamut và quay về với Malikshah. Việc bao vây trung tâm Ismaili
tại Quhistan bị huỷ bỏ khi có tin Sultan từ trần vào tháng 11 năm 1092. Trong khi đó nhóm Ismaili đã đạt được thành công lớn đầu tiên trong ngón
nghề mang tên của họ - đó là ngón nghề ám sát. Con mồi được chọn là chính vị
vizier đầy quyền lực, người đã ra sức ‘ nặn cho hết bọc ung nhọt dấy loạn và
cắt bỏ vết nhơ ứ trệ khiến ông ta trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của họ.
Hasan-i Sabbah đưa ra 1 kế họach tỉ mĩ. Rashid al -Din kể lại, theo nguồn
tài liệu Ismaili và của ông ta dĩ nhiên có chỉnh sửa, " Vị đạo sư của chúng
ta đặt ra chông, bẩy cốt để bắt và giết cho cho được con thịt béo như Nizam
al –Mulk, nhằm lấy tiếng và tạo uy danh. Với trò lừa gạt và ma mãnh những
điều không có thực, đầy những mưu chuớc xảo quyệt làm cho mụ mị đầu óc, ông
ta đã dựng nên nền tảng tổ chức fida’i, và ông ta bảo " ai trong các anh sẽ
thanh tóan kẻ ác Nizam al- Mulk Tusi ?.” Một người tên là Bu Tahir Arrani
đặt tay lên ngực tuân phục và, bằng cách chọn con đường lầm lạc mà ông ta
mong sẽ đạt được ơn phước ở đời sau, vào một đêm của ngày thứ 6, ngày 12
tháng Ramadan năm 485 (nhằm ngày 16 tháng 10 năm 1092), tại thị trấn
Nihavand nơi có vũ đài Sahna, dưới bộ dạng 1 tu sĩ phái Sufi, Arrani đến gần
chiếc kiệu khiêng Nizam al- Mulk từ nơi thiết triều về lều hậu cung, và rút
dao đâm ông này 1 nhát. Với nhát đâm này, Arrani trở thành kẻ tử đạo. Nizam
al- Mulk là người đầu tiên bị đám fida’i giết. Vị Đạo sư của chúng ta, đã
rất đúng khi dạy, " việc giết tên nanh ác này là bước khởi đầu để đến cảnh
cực lạc ‘. Đây là bước đầu của 1 loạt dài nhiều đợt đột kích như thế, theo đường lối
chiến tranh khủng bố có tính tóan, đã gieo những cái chết bất ngờ cho nhìều
vua chúa, tướng lãnh, thống đốc và thậm chí cả các nhà thần học là những
người đã tố cáo các giáo thuyết của phái Ismaili và cho phép đàn áp những ai
rao giảng các giáo thuyết này. Một trong những đối thủ mộ đạo này tuyên bố :
" Giết bọn họ còn hợp pháp hơn là uống nước mưa. Các Sultan và vua chúa có
nhiệm vụ khống chế và giết bọn chúng, và giữ cho mặt đất thanh sạch không bị
bọn chúng làm bẩn. Không được quyền liên minh hoặc liên kết với chúng, không
được ăn thịt do chúng giết, không được có quan hệ hôn nhân với chúng. Làm đổ
máu 1 tên theo tà giáo còn đáng tưởng thưởng hơn là giết 70 tên vô đạo Hi
lạp ”. Đối với nạn nhân, thì những sát thủ chỉ là bọn cuồng tín tội đồ, nhúng tay
vào âm mưu giết người, chống lại tôn giáo và xã hội. Còn đối với nhóm
Ismaili, họ là nhóm người ưu tú trong cuộc chiến chống lại kẻ thù của
Imam ;
việc đánh đổ bọn áp bức và thóan đọat đó là bằng chứng chính yếu chứng minh
đức tin và lòng trung thành của họ, họ sẽ được hưởng cảnh cực lạc tức thời
và miên viễn. Bản thân nhóm Ismaili dùng từ fida’i, có nghĩa là người mộ
đạo, để chỉ những tên sát nhân thực sự, và ngày nay người ta còn tìm được 1
bài thơ của nhóm Ismaili khá thú vị ca tụng lòng can đảm, sự trung thành và
lòng mộ đạo quên mình của họ. Trong các sử biên niên của nhóm Ismaili địa
phương tại Alamut được Rashid al-Din và Kashani trích dẫn, có 1 danh sách
vinh danh ghi những cuộc ám sát, nêu rõ tên nạn nhân và tên của các đồ tễ
sùng đạo. Về hình thức, Ismaili là 1 tổ chức bí mật, có 1 hệ thống các lời thề và lễ
nhập đạo và 1 trật tự các thứ bậc và bí quyết nhận ra nhau. Các bí mật được
giữ rất chặt, cho nên các thông tin về họ đều manh mún và rối mù. Các nhà
luận chiến phái chính thống mô tả nhóm Ismaili như những tay theo chủ nghĩa
hư vô đầy mưu chước chuyên lừa dối những kẻ u mê làm cho họ biến chất qua
nhiều giai đọan tiếp nhau, cuối cùng là họ rất đổi kinh hòang khi biết rằng
mình không giữ được niềm tin nữa. Các tác giả nhóm Ismaili coi giáo phái này
là những người gìn giữ những bí mật thiêng liêng, mà người có lòng tin chỉ
biết được sau 1 quá trình dài chuẩn bị và học hỏi, được ghi nhận qua các đợt
khai tâm. Danh từ được sử dụng thường xuyên nhất để chỉ cách tổ chức của
giáo phái là da’wa (da’vat theo tiếng Ba tư), có nghĩa là truyền đạo hoặc
thuyết giáo ; thành viên là da’i hoặc nhà truyền giáo - nghĩa bóng là những
người triệu tập tín đồ, hình thành một tầng lớp giống như tu sĩ được thụ
phong. Theo những tài liệu của nhóm Ismaili sau này, thì thầy giảng, thầy
giáo và người biết kinh sách được chia ra làm nhiều nhóm cao và thấp. Dưới
những bậc này là các mustajib, nghĩa bóng là những người đáp trả (
respondent), là bậc thấp nhất của những người nhập đạo ; trên các bậc này là
các hujja (tiếng Ba tư là hujjar) là bậc Chứng ngộ (Proof), tức là da’i
trửơng lão. Từ jariza, hòn đảo, được dùng để chỉ thẩm quyền lãnh thổ hoặc 1
nhóm dân mà vị da’i cai quản. Cũng gíông như các phe phái và dòng tu Hồi
giáo, nhóm Ismaili cũng thường gọi người đứng đầu của họ về mặt tôn giáo là
Trưởng lão - tiếng Ả-rập là Shaykh hoặc tiếng Ba tư là Pir. Một từ thường
được các thành viên của giáo phái sử dụng là rafiq - đồng đạo. Vào năm 1094, nhóm Ismaili đối mặt với 1 khủng hỏang lớn. Vị Caliph dòng
Fatimid là al- Mustanir, là Imam vào thời điểm đó và là người đứng đầu tín
đồ, từ trần tại Cairo, nhưng không chỉ rõ người kế vị. Nhóm Ismaili tại Ba-
tư không chịu thừa nhận kẻ kế vị của ông này lên ngôi tại Ai cập, và tuyên
bố rằng họ chỉ tin vào người thừa kế chính đáng là Nizar, người con trưởng
của ông đã bị hất cẳng. Cho đến lần phân tách này, thì tổ chức tại Ba tư, ít
nhất trên danh nghĩa, nằm dưới thẩm quyền tối thượng của vị Imam và Thủ lãnh
Da’i tại Cairo. Hasan –i Sabbah đã từng là thành viên của nhóm, ban đầu là
cấp phó, sau đó là người kế vị của Abd al-Malik ibn Attash. Lần này thì
tuyệt giao hoàn toàn, và từ đó trở đi, nhóm Ismaili ở Ba-tư không còn nhận
được sự hỗ trợ cũng như chịu sự kiểm soát của các ông chủ cũ tại Cairo nữa.
Một vấn đề cốt lõi là lý lịch của vị Imam - bộ mặt trung tâm của cả 1 hệ
thống thần học và chính trị của nhóm Ismaili. Nizar từng là
Imam hợp pháp
sau al- Mustansir - nhưng Nizar bị ám sát chết trong nhà ngục ở Alexandria,
nghe nói người con của ông ta cũng bị giết theo. Một số người theo phái
Nizari cho rằng Nizar chưa chết thực sự, mà còn ẩn náu ở đâu đó và sẽ xuất
hiện dưới hình dạng Madhi - điều này có nghĩa là dòng dõi Imam không còn
nữa.Trường phái này không kéo dài. Ta không biết những gì mà Hasan dạy cho
các đồ đệ về điểm này, nhưng về sau, người ta chấp nhận một giáo thuyết là
chức vị Imam được truyền cho cháu nội của Nizar, vốn được nuôi dưỡng bí mật
tại Alamut. Có 1 nguồn tin cho rằng đó là đứa bé được bí mật đưa từ Ai cập
sang Ba tư ; một nguồn tin khác cho rằng 1 người vợ của con Nizar có thai và
được mang tới Alamut, rồi sinh ra một Imam mới tại đây. Theo sự tin tưởng
của tín đồ phái Nizari, những điều này được giữ rất kín vào thời điểm đó, và
rất nhiều năm về sau mới được tiết lộ. Sự thiếu vắng 1 Imam công khai, và những lần chỉnh sửa cần phải có sau khi
tuyệt giao với Cairo dường như không ngăn chặn hoặc cản trở các hoạt động
của nhóm Ismaili tại Ba- tư. Ngược lại, lợi dụng sự hỗn loạn nhất thời của
nhà nước Seljuq xảy ra vào những năm cuối của thế kỷ 11 và những năm đầu của
thế kỷ 12, họ bành trướng các hoạt động của mình sang các khu vực mới. Một trong các hoạt động này là việc chiếm đoạt 1 lâu đài nằm ở miền đông
Elbruz vào năm 1096. Từ Alamut, các sứ giả được phái tới vùng Damghan, nơi
Hasan đã từng làm việc trước khi đến Daylam. Họ được thủ hiến Daylam tên là
Muzzffar giúp đỡ rất nhiều, ông này vốn là một người đã bí mật cải đạo
Ismaili, mà người bị lôi kéo là Abd al-Malik ibn Attash chứ không phải ai
khác. Nằm ở phía nam Damghan có lâu đài Girdkuh, có vị trí và lợi thế phù
hợp với các mục đích của phái này, cho nên Muzaffar toan tính việc chiếm lấy
lâu đài cho đồng bọn. Một mặt vẫn tỏ ra trung thành, ông này thuyết phục bề
trên là vị tiểu vương Seljuq xin Sultan giao lại lâu đài Girdkuh và cử cho
ông ta làm chỉ huy. Lấy danh nghĩa của vị tiểu vương và có lẽ bằng tiền của
ông này, Muzaffar cho sửa chữa và gia cố lâu đài, tích trữ quân cụ và vàng
bạc. Thế rồi khi mọi việc sắp xếp xong xuôi, ông ta công khai xưng danh là
tín đồ Ismaili và là đồ đệ của Hasan - i Sabbah. Ông ta cai trị tại đây
trong 40 năm. Lâu đài Girdkhu, án ngữ con đường chính giữa Khurasan và miền
tây Iran, và rất thuận lợi vì gần các trung tâm ủng hộ phái Ismaili ở miền
đông Mazandaran, vì thế đã cũng cố vị trí chiến lược làm cho nhóm Ismaili
ngày càng lớn mạnh. Cũng cùng thời gian đó, họ đã ra tay làm 1 cú táo bạo hơn nhiều - đó là đánh
chiếm lâu đài Shahdiz nằm trên 1 ngọn đồi trong thành Isfahan, vốn là đầu
não của Sultan dòng Seljuq. Các đặc tình Ismaili đã hoạt động từ lâu trong
thành phố này ; Abd al-Malik ibn Attash cũng đã từng sống tại đây, nhưng sau
đó bỏ trốn khi bị tố cáo là theo phái Shi’a. Việc tranh chấp giữa Berkyaruq,
vị Sultan mới, với mẹ kế và em cùng cha đã cho họ một dịp may mới, và mối
kinh sợ mà họ gieo rắc cho cả thành phố Isfahan chỉ chấm dứt khi toàn thể
dân chúng đứng lên chống đối và giết sạch bọn họ. Người ta ghi nhận nhiều vụ
bạo hành tương tự của dân chúng chống lại nhóm Ismaili tại các thành phố
khác ở Ba-tư. Một bước khởi đầu mới do Ahmah, con của al-Malik ibn Attash, khởi xướng tại
Isfahan. Vào thời điểm người cha bỏ trốn, Ahmah được phép ở lại, bởi vì
người ta tin rằng Ahmah không theo quan điểm tôn giáo của người cha. Tuy
nhiên, Ahmah lại bí mật phục vụ cho lý tưởng Ismaili. Một sử gia người Ba tư
kể rằng Ahmah tìm được 1 công việc là làm thầy giáo dạy cho đám trẻ em trong
doanh trại quân đội tại Shahdiz mà đa số vốn là lính đánh thuê người vùng
Daylam. Bằng cách này, anh ta tranh thủ cảm tình và lôi cuốn họ theo phái
Ismaili. Nhờ thế anh ta mới chiếm được pháo đài. Ngòai ra, còn có 1 nguồn
tin dung tục hơn cho rằng anh ta luồn lách để được vị chỉ huy doanh trại tin
dùng như cánh tay mặt, và khi ông này chết thì nắm quyền chỉ huy. Một thời
gian ngắn sau đó, nhóm Ismaili chiếm được 1 lâu đài thứ 2 gần Isfahan tên là
Khalinjan - không rõ là do chiếm lấy hoặc được nhường cho. Một câu chuyện
theo kiểu này cũng được các nhà chép biên niên ưa kể về nhóm Ismaili là có 1
anh chàng thợ mộc kết thân với vị chỉ huy, và tòan bộ binh sĩ đều say bí tỉ
khi dự bữa tiệc do anh ta khỏan đãi. Sultan Berkyaruq, lên kế nghiệp Maliskshah vào năm 1092, mãi lo tranh giành
với người anh em cùng cha là Muhamad Tapar, ông này được sự ủng hộ của người
anh em ruột là Sanjar. Nếu thuận lợi thì vị Sultan chẳng cần quan tâm hoặc
bỏ công sức gì cho nhóm Ismaili ; còn nếu trong tình huống xấu nhất, ông ta
và bộ hạ đều sẵn lòng bỏ qua hành động của nhóm Ismaili đối với với các địch
thủ của mình và thậm chí có khi còn kín đáo nhờ họ giúp đỡ. Vì thế, thuộc
cấp của Berkyaruq tại Khurasan tìm được sự giúp đỡ của nhóm Ismaili vùng
Quhistan để chống lại phe đối nghịch. Trong bảng công trạng của các sát thủ
được ghi trong biên niên sử lâu đài Alamut, có đến 50 vụ ám sát được ghi
nhận trong thời gian trị vì của Hasan-i Sabbath, mà tên đầu tiên là Nizam
al-Mulk. Quá nửa các vụ ám sát xảy ra trong thời kỳ này - và người ta kể
rằng một số các nạn nhân là tay chân của Muhammad Tapar và các đối thủ của
Berkyaruq. Vào mùa hè năm 1100, Berkyaruq đánh bại Muhammad Tapar, buộc ông này tháo
lui về Khurasan. Sau thắng lợi này, nhóm Ismaili trở nên bạo dạn và táo tợn
hơn, thậm chí còn thâm nhập vào triều đình và quân đội của Berkyaruq. Họ lôi
kéo được nhiều binh sĩ, và dọa sẽ ám sát những ai chống đối. Sử gia biên
niên tiếng Ả-rập cho biết :” Không có cấp chỉ huy hoặc sĩ quan nào dám ra
đường mà không có người hộ vệ ; thảy đều mặc giáp sắt bên trong, và ngay cả
vizier Abu’l Hasan cũng mang 1 áo giáp ngắn bên trong. Do sợ bị tấn công,
các sĩ quan cao cấp của Sultan Berkyaruq xin phép được mang vũ khí khi yết
kiến, và Sultan đồng ý ". Mối đe dọa và tính xấc xược của đám Ismaili càng lúc càng quá, và chính đám
thủ hạ cũng càng căm giận thêm khi thấy thủ lãnh làm ngơ, cho nên cuối cùng
buộc Berkyaruq phải ra tay. Năm 1101, ông ta gần như thỏa thuận được với
Sanjar, lúc này vẫn còn cai trị Khurasan, để cùng hành động chống lại 1 kẻ
địch chung. Sanjar phái 1 đòan quân lớn, trang bị đầy đủ, do 1 tiểu vương
thân tín cầm đầu, đến đánh những khu vực Ismaili tại Quhistan. Tại đây họ
phá tan khu vực và vây hãm Tabas là cứ địa chính của nhóm Ismaili. Sử dụng
súng bắn đá, họ đánh sập gần hết các bờ thành và lúc gần chiếm được pháo
đài, thì đám Ismaaili bỏ tiền ra mua chuộc vị tiểu vương để ngưng việc hãm
thành và rút quân. Nhờ thế họ có thì giờ sửa chữa, gia cố lại Tabas để chuẩn
bị cho đợt tiến công tiếp. Việc này xảy ra 3 năm sau đó, khi vị tiểu vương
dẫn 1 đoàn quân mới - gồm quân chính qui, 1 số quân tình nguyện tiến đến
Quhistan. Lần này chiến dịch thành công, nhưng lạ thay lại không đem kết quả
rõ rệt. Quân đội Seljuq chiếm lĩnh rồi phá hủy Tabas cùng với các lâu đài
khác của nhóm Ismaili, cướp phá làng mạc, bắt một số người Ismaili làm nô lệ
- và lui quân, sau khi ép người Ismaili phải đưa ra lời cam kết là " họ
không được xây lâu đài, mua khí giới, hoặc chiêu dụ người khác theo tôn giáo
của họ ". Có nhiều người cho rằng những điều kiện này quá nhẹ, và chỉ trích
Sanjar đã chấp nhận. Như thế là quá đủ, vì chẳng mấy chốc sau đó nhóm
Ismaili lại bám vững chắc tại Quhistan. Tại vùng tây Ba tư và Iraq, Berkyaruq không có cố gắng nào rõ rệt để tấn
công các trung tâm quyền lực nhóm Ismaili. Thay vào đó, ông ta cố làm dịu
nổi căm phẩn của các sĩ quan và dân chúng bằng cách cho phép hoặc xúi dục họ
tàn sát những kẻ có cảm tình với nhóm Ismaili tại Isfahan. Quân sĩ và dân
thường lùng sục những kẻ tình nghi, dồn tất cả vào 1 quảng trường lớn rồi
chém giết. Ibn al- Athir kể lại, chỉ cần 1 lời tố cáo vu vơ đủ để nhiều
người vô tội bị giết vì óan thù cá nhân trong những ngày đó. Từ Isfahan,
họat động chống nhóm Ismaili lan tới Iraq, tại đây nhóm Ismaili bị giết
trong 1 trại quân ở Baghdad, sách vở của họ đều bị đốt. Một người Ismaili
lỗi lạc tên là Abu Ibrahim Asadabadi, đã từng được chính Sultan cử sang
Baghdad công cán, lúc này bị Sultan ra lệnh bắt giam. Khi bọn giữ ngục đem
ông đi giết, Asadabadi nói " Được lắm, các người giết ta – nhưng liệu có
giết được những người ở trong lâu đài ?. " Sự chế nhạo cuả Asadabadi có phần đúng. Nhóm Ismaili đã chịu nhiều thất bại
; họ không còn trông mong vào sự mặc nhận của Berkyurq và trong một thời
gian nhóm fida’i nằm im không họat động - nhưng các lâu đài của họ vẫn không
ai xâm nhập được, và sự sợ hải do họ tạo ra, dù có bị kìm lại, nhưng không
hề mất. Giữa những năm 1101 và 1103, bảng công trạng có ghi lại những vụ ám
sát như vụ Mufti của Isfahan tại 1 nhà nguyện cổ trong thành phố, vụ quận
trưởng Bayhaq, và vụ thủ lãnh của dòng Karramiyya, một dòng tu hiếu chiến
chống lại nhóm Ismaili, tại 1 nhà nguyện ở Nishapur. Việc ám sát các sĩ quan
và viên chức Seljuq vào lúc này xem ra quá khó - nhưng nhiệm vụ phải trừng
phạt các chức sắc tôn giáo và dân sự dám chống đối nhóm Ismaili vẫn còn.
Chính trong những năm này mà thủ lãnh lâu đài Alamut đưa ra 1 quyết định
quan trọng - cử các sứ giả đến Syria. Mối đe dọa của nhóm Ismaili đối với đế quốc Seljuq tuy bị ngăn chặn nhưng
chưa phải là hết. Sau khi Berkyurq chết vào năm 1105, người kế nghiệp,
Muhammad Tapar, đã đưa ra một nổ lực mới dứt khoát phải thanh tóan nhóm này.
" Khi Muhammad nắm chắc quyền hành của thể chế Sultan và không còn ai tranh
giành với ông ta nữa, thì không có công việc gì cấp bách hơn là truy tầm đám
Ismaili để trả mối thù cho những tín hữu Hồi giáo bị họ áp bức và đối xử bất
công. Ông ta quyết định trước hết là chọn lâu đài Isfahan hiện đang nằm
trong tay họ, bởi vì đây là nơi khống chế thủ phủ và gây lắm điều khó chịu.
Vì thế ông ta thân chinh cầm quân, bao vây thành này vào ngày 6 tháng
Sha’ban năm 500 (ngày 2 tháng 4 năm 1027). Công cuộc bao vây và chiếm lĩnh lâu đài bị hõan lại vì một lọat các mưu mô
và thủ đọan do nhóm Ismaili và đồng bọn dựng nên. Ngay từ lúc đầu, việc xuất
chinh cũng bị dời lại đến 5 tuần, do những kẻ có cảm tình với nhóm Ismaili
trong doanh trại của Sultan đơm đặt các mối nguy hiểm ở đâu đó. Khi thủ lãnh
của nhóm Ismaili địa phương tên là Ahmad ibn Attash cảm thấy cùng đường, ông
ta cố lấy lại sức bằng cách cho nổ ra 1 cuộc tranh luận về tôn giáo. Trong 1
điệp văn gởi cho Sultan, nhóm Ismaili kêu rằng họ là những tín đồ Hồi giáo
tốt, những người tin vào Thượng đế và đấng tiên tri, tuân thủ theo Luật
thánh. Họ chỉ khác những người phái Sunni về vấn đề đấng Imam, cho nên tốt
nhất Sultan nên ban cho họ được hưu chiến và giảng hoà, chấp nhận sự trung
thành của họ. Điều này khơi ra một cuộc tranh luận về tôn giáo - giữa kẻ tấn
công và người phòng thủ, và giữa các trường phái tư tưởng khác nhau trong
đội ngũ của những người đi tấn công. Nhiều người trong số các cố vấn thần
học của Sultan muốn chấp nhận luận điểm của nhóm Ismaili, nhưng một số ít
lại giữ vững một quan điểm nghiêm khắc hơn : " Nếu vị Imam của các anh cho
phép những gì mà Luật thánh cấm và cấm những gì mà Luật thánh cho phép, thì
liệu anh có vâng phục ông ta không ?. Nếu họ trả lời là có, thì việc giết họ
là đúng luật. Do nhóm chủ trương khắc khổ (rigorist) kiên định quan điểm
của mình, cho nên cuộc tranh luận không đi đến đâu và lâu đài tiếp tục bị
vây hãm. Đám Ismaili giờ đây đưa ra 1 mánh lới mới, đề nghị 1 thỏa hiệp có điều khoản
họ sẽ nhường 1 lâu đài khác ở gần đó " để cứu mạng sống và tài sản của họ
khỏi bị dân chúng xâm phạm ". Việc thương thuyết cứ kéo lê, trong khi đó vị
vizier của Sultan lại đích thân thu xếp để đưa lương thực vào bên trong pháo
đài. Giai đọan này chấm dứt khi 1 sát thủ Ismaili chỉ làm bị thương nhưng
không giết được một trong các tiểu vương của Sultan vốn là người đã từng lớn
tiếng chống đối họ. Lúc này Sultan thắt chặt việc vây hãm,và đối với những
kẻ thủ thành chỉ còn 1 mối hy vọng duy nhất là điều kiện đầu hàng. Chẳng bao lâu, các điều kiện được thỏa thuận. Một phần quân sĩ, dưới sự bảo
vệ của Sultan, sẽ được phép rời pháo đài để đi đến các điểm tập trung
Ismaili tại Tabas và gần Arrajan. Phần còn lại sẽ chuyển vào 1 cánh của pháo
đài và giao phần kia cho Sultan. Khi nào nhận được tin báo các đồng đảng đã
đến nơi an toàn, họ sẽ trèo xuống và sẽ được phép chuyển về Alamut. Theo
đúng lịch trình, những người ra đi được báo đã đến nơi, nhưng Ibn Attash lại
không muốn thực hiện theo như cam kết. Lợi dụng thời gian nghỉ lấy hơi này,
ông ta tập trung vũ khí và bộ hạ - khỏang 80 người - vào phía còn lại của
pháo đài, và chuẩn bị đánh 1 trận liều chết. Bọn họ chỉ bị đè bẹp khi có kẻ
phản bội mách bảo rằng trên 1 bờ thành chỉ có 1 hàng vũ khí và áo giáp được
xếp sắp giống như có người đang đứng - nhưng chẳng hề có người. Trong đợt
đột kích cuối cùng, phần lớn lính thủ thành đều bị tiêu diệt. Vợ của Ibn
Attash đeo đầy nữ trang, gieo mình từ bờ thành xuống đất, rồi bị giết ; còn
Ibn Attash bị bắt và bị đem dong bêu khắp các đường phố Isfahan. Sau đó, ông
này bị xử tùng xẻo - da đem nhồi rơm, còn thủ cấp thì mang về Baghdad. Trong 1 thư báo tiệp, được công bố nhân dịp thắng trận, thư ký của Sultan
cho biết quan điểm của triều đại Seljuq đối kẻ thù mà họ vừa dẹp xong, bằng
một giọng văn có phần khoa trương thường gặp trong những lọai văn kiện như
thế này " Tại lâu đài Shahdiz này … đã nuôi dưỡng mầm mống dối trá …. Có kẻ
tên Ibn Attash, mà lý trí đã đi vào con đường lầm lạc, dám nói Con đường
chính đạo là sai, và đâm đầu theo 1 ngụy thư chứa đầy những điều láo toét,
và cho rằng mình có quyền làm đổ máu và cho phép chiếm đọat tài sản của tín
hữu Hồi giáo … Dù rằng chúng chưa kịp làm những gì mà chúng đã từng làm khi
mới tới Isfahan - chúng đã trí trá theo dõi và dùng mưu ma chước quỉ vây bắt
nạn nhân, dùng những nhục hình kinh khiếp để giết họ, chúng đã ám sát nhiều
người từ các thượng quan trong triều đình đến các phần tử ưu tú trong Ulema,
chúng đã làm đổ maú những dòng máu đáng kính và những xúc phạm xấu xa đối
với đạo Hồi … chúng ta phải có bổn phận chiến đấu bảo vệ tôn giáo của ta và
bằng mọi giá sẵn sàng tham gia cuộc thánh chiến chống lại bọn chúng, dù có
phải đi đến nước Tàu đi nữa ". Dĩ nhiên nước Tàu chẳng qua chỉ là cách nói đầy hoa mỹ - kiểu nói ẩn dụ của
đấng Tiên tri mà ai cũng biết. Nhưng cuộc tiến công của Sultan vào nhóm
Ismaili trải rộng ra đến cả 2 cực đông và tây của đế quốc Seljuq. Tại Iraq,
một đòan quân tấn công Takrit, nơi mà nhóm Ismaili đã giữ vững suốt 12 năm,
tuy không chiếm được nơi này, nhưng cũng buộc được thủ lãnh Ismaili trao trả
lại cho các giáo đồ Ả-rập địa phương theo phái Shi’ite. Tại phía đông,
Sanjar bị thúc bách phải ra tay tấn công các căn cứ Ismaili tại Quhistan, dù
không đưa lại hiệu quả nào rõ rệt. Cũng vào thời gian đó hoặc sau đó ít lâu,
thành lũy của nhóm Ismaili gần Arrajan bị chiếm, và không còn nghe mấy đến
họ tại miền Khuzistan và Fars. Nhưng trung tâm thế lực chính của nhóm Ismaili không nằm tại những nơi này.
Nó nằm ở miền bắc - trong các lâu đài Rudbar và Girdkuh, và trên tất cả là
lâu đài lớn Alamut, nơi Hasan-I Sabbah đóng đô. Vào năm 1107-08, Sultan gởi
một đạo quân đến Rudbar, dưới sự chỉ đạo của vizier Ahmad ibn Nizam al-Mulk.
Vị vizier này có lý do riêng để thù ghét đám Ismaili. Cha ông ta, Nizam
al-Mulk danh tiếng, là nạn nhân tên tuổi đầu tiên của họ ; anh ông ta, Fakhr
al- Mulk, cũng bị sát hại dưới nhát dao của tay sát thủ tại Nishapur trong
năm trước đó. Công cuộc chinh phạt đạt được một vài thành công, đã gây nhiều tổn thất cho
nhóm Ismaili, nhưng không đạt được mục đích - đó là chiếm được hoặc phá tan
lâu đài Alamut. " Ông ta (Ahmad ibn Nizam al-Mulk) bao vây Alamut và
Ustavand, gần mé sông Andij, và cho quân sĩ khởi sự đánh phá một thời gian
và phá họai mùa màng. Rồi sau đó, do không đạt kết quả thêm gì, quân đội rút
lui khỏi Rudbar. Trong lâu đài dân chúng bị đói nặng, chỉ ăn cỏ sống qua
ngày ; cho nên, họ phải gởi vợ con đi nơi khác, và chính Hasan –i Sabbah
cũng phải gởi vợ và con gái đến Girdkuh. Bên cạnh việc sai phái quân đội chính qui, Sultan còn cố xúi dục các láng
giềng của nhóm Ismaili đứng lên chống lại họ, và thuyết phục 1 thủ lãnh địa
phương tại Gilan tham gia tấn công – nhưng không đạt được mục đích. Về sau
vị thủ lãnh này thôi không ủng hộ nữa, có người cho là vì không ưa tính kiêu
căng của Sultan. Thủ lãnh này hẵn có lý do khác. Juvayni đã diễn tả một cách
sinh động dự cảm của các thủ lãnh địa phương tại Daylam, bị kẹt giữa anh
hàng xóm hung bạo ở sát bên và các lãnh chúa tuy có quyền lực nhưng lại quá
xa xôi : " về mặt này thì các thủ lãnh địa phương, cả xa lẫn gần, cũng đều
lâm vào cảnh nguy hiểm, dù đối với bạn hoặc thù, đều bị cuốn vào cái vòng
xoáy huỷ diệt quay cuồng - nếu làm bạn với họ, thì vua Hồi giáo sẽ nghiền
nát và tiêu diệt và họ sẽ mất hết " trong kiếp này và kiếp sau " (Qur’an
xxii,11) ; còn nếu coi họ là kẻ thù, vốn sợ sự giả trá và phản bội, cho nên
họ sẽ thủ thế và cuối cùng tất cả thảy đều bị giết.” Rõ ràng là không thể tổ chức đánh chiếm Alamut bằng cách tấn công trực diện.
Vì thế Sultan bèn tìm cách khác - đó là chiến tranh hao mòn, như mong muốn
sẽ làm suy yếu nhóm Ismaili đến mức họ không đủ sức kháng cự. Juvayni kể lại
” trong 8 năm ròng rã, quân đội bao vây Rudbar, phá hủy mùa màng, và 2 bên
cố cầm chân nhau. Khi biết Hasan và đồng đảng không được cung cấp thực phẩm
hoặc bổ sung lực lượng, vào đầu năm 511/1117-18 Sultan Muhammad cử vị atabeg
(phụ chính) tên là Nushtigin Shirgir làm tư lệnh đòan quân và ra lệnh cho
ông này tiếp tục vây chặt lâu đài. Vào ngày 1 tháng Safar (ngày 4 tháng 6
năm 1117) họ phong tỏa Lamasar và vào ngày 11 tháng Rabi’ (ngày 13 tháng 7) phong tỏa Alamut. Bằng cách dựng lên máy bắn đá, họ tấn công tới tấp và
đến khỏang tháng Dhu’l – Hijja của năm đó (tháng 3-4 năm 1118) khi họ sắp
chiếm được lâu đài và giải phóng nhân lọai khỏi mưu đồ của nhóm Ismaili, thì
họ nhận được tin báo Sultan Muhammad qua đời tại Isfahan. Quân sĩ thế là tan
tác, và đám dị giáo bị bỏ sổng, tha hồ mang vác vào lâu đài mọi thứ quân
dụng, vũ khí và công cụ chiến tranh do quân đội của Sultan mang tới. Việc Shirgir cho rút quân, vào thời điểm gần nắm được chiến thắng, đã gây
nên một nổi thất vọng sâu sắc. Có một số chỉ điểm cho thấy không phải chỉ
riêng tin báo Sultan qua đời đã làm cho họ phải hối hả lui quân. Trong vụ
này có vai trò nham hiểm của Qiwam al-Din Nasir ibn ‘Ali al- Dargazini, là
vizier của triều đình Seljuq, được coi là giáo đồ bí mật của phái Ismaili.
Ông này có ảnh hưởng lớn đối với Mahmud, là con của Sultan Muhammad. Mahmud
kế vị Sultan của cha tại Isfahan. Vị vizier có vai trò quan trọng trong
triều đình. Ông này được coi là đã làm cho quân đội Shirgir rút ra khỏi
Alamut, tức là đã cứu được nhóm Ismaili, và đã làm cho vị Sultan mới đem
lòng ghét bỏ Shirgir, tiếp đến cho hạ ngục và giết đi. Sau này, al -
Dargazini còn bị tố cáo có nhúng tay vào nhiều vụ mưu sát khác. Ngay cả trong lúc đang bị tấn công, các sát thủ cũng chẳng hề rãnh việc. Năm
1108-09 họ giết Ubay Allh al-Khatib, là Qadi của Isfahan, vốn là người chống
đối Ismaili kịch liệt. Vị Qadi biết rõ các hiểm nguy. Ông ta mặc áo giáp, có
vệ sĩ kèm theo và luôn thận trọng – nhưng cũng chẳng ích gì. Trong những
buổi cầu nguyện ngày thứ 6 tại nhà nguyện Hamadan, một sát thủ chen lọt vào
đám vệ sĩ và đã hạ gục ông này. Cùng năm đó, Qadi của thành Nishapur cũng bị
ám sát vào dịp ăn mừng hết tháng Ramadan. Tại Baghdad, một sát thủ tấn công
Ahmad ibn Nizam al-mulk, chắc là để trừng phạt cái tội dẫn quân chinh phạt
Alamut ; vị vizier này bị thương, nhưng không chết. Ngoài ra còn những các
nạn nhân khác - các nhà thần học Sunni, các luật sĩ và các quan chức cao cấp
như tiểu vương người Kurd tên là Ahmadil, vốn là em nuôi của Sultan. Tiếp sau cái chết của Sultan Muhammad vào năm 1118 là cảnh xung đột tương
tàn giữa dòng họ Seluq, nhờ đó các Sát thủ mới có thời gian lấy lại sức sau
những cú đánh mà họ chịu trận và phục hồi được vị trí tại cả 2 vùng Quhistan
và phía bắc. Trong thời Sanjar, người đã kiểm sóat được các tỉnh miền đông
do 2 người anh là Berkyaruq và Mohammad Tapar cai quản, đã cố gắng dành được
vị trí đứng đầu mỏng manh trong hàng ngũ các lãnh đạo người Seljuq. Trong
giai đọan này, bản chất mối quan hệ giữa nhóm Ismaili và các vùng lãnh thổ
theo phái Sunni bắt đầu có sự thay đổi. Phong trào Ismaili không từ bỏ các
mục đích tối hậu, nhưng các chiến dịch khởi lọan và gây khủng bố tại các
vùng trung tâm bị bóp nghẹt ; thay vào đó, họ dồn sức để bảo vệ và củng cố
các lãnh thổ mà họ đang kiểm sóat, thậm chí còn đạt được một vài sự công
nhận về mặt chính trị. Vào thời buổi mà sự phân rã của miền Trung đông vốn
bị gián đoạn do các cuộc chinh phục của triều đại Seljuq, nay lại tiếp tục
như trước, thì các lãnh địa và thái ấp của nhóm Ismaili ra đời dưới dạng các
tiểu quốc độc lập, những tiểu quốc này thậm chí còn lập bè liên kết và tranh
chấp ở cấp độ địa phương. Juvayni có kể 1 câu chuyện để giải thích về sự khoan dung của Sanjar đối với
sự độc lập của phái Ismaili :” ‘Hasan –i Sabbah muốn gởi sứ giả đi cầu hòa
nhưng các đề nghị của ông ta lại không được chấp nhận. Vì thế ông ta dùng
thủ đọan đút lót các cận thần của Sultan để bênh vực cho ông ta trước mặt
Sultan ; Hasan bỏ ra một món tiền lớn để mua chuộc một trong các thái giám
của Sultan, giao cho ông này 1 con dao ngắn rồi chờ đến một đêm nào đó khi
vị Sultan say rượu ngủ như chết mới đem dao ra cắm ngập xuống chỗ đất cạnh
giường ngủ. Khi Sultan thức dậy, trông thấy con dao, ông ta hết sức hốt
hỏang nhưng do không biết ai đã làm việc này nên ra lệnh giữ kín mọi việc.
Sau đó, Hasan-i Sabbah mới cử sứ giả đến mang theo lời nhắn như sau :’ Chẳng
lẽ ta lại không muốn cắm con dao vào cái ngực mềm của Sultan thay cho chỗ
đất cứng kia sao ". Vị Sultan lấy làm hỏang sợ và từ đó trở đi muốn làm hòa
với bọn họ. Nói tóm lại, nhờ trò ma mãnh này mà Sultan thôi không tấn công
nữa và trong suốt thời gian ông trị vì, sự nghiệp của họ trở nên phồn thịnh.
Ông ta cấp cho họ một khỏan trợ cấp 3000 đồng dinar lấy từ thuế đất thuộc
quyền của họ tại vùng Aumish và lại cho họ thu một khỏan lệ phí nhỏ đánh
trên khách lữ hành đi ngang qua lâu đài Girdkuh, một tập tục mãi đến ngày
nay vẫn còn. Tôi có thấy nhiều sắc chỉ của Sanjar còn lưu giữ trong thư khố
của họ, trong đó, ông ta xoa dịu và vỗ về họ ; và qua những sắc chỉ này, tôi
có thể suy ra mức độ mà Sultan làm ngơ trước các hành động của họ và muốn
được hòa hõan với họ. Nói ngắn gọn, dưới thời của Sultan, bọn họ sống thỏa
mái và yên bình. Nhóm theo phái Nizari ở Alamut còn có một kẻ thù khác ngòai Caliph dòng
Abbasd và Sultan, đó là Caliph dòng Fatimid, và giữa các giáo đồ của ông này
với nhóm Nizari ở Ba tư có 1 mối căm ghét đặc biệt sâu sắc xảy ra giữa các
phái của cùng một tôn giáo cạnh tranh nhau. Vào năm 1121, Al-Afdal, con
người đáng sợ, vizier và tư lệnh quân đội bị mưu sát tại Cairo. Dĩ nhiên lời
đồn đại chỉa vào nhóm Sát thủ - nhưng một nhà chép biên niên cùng thời người
Damascus cho rằng đó chỉ là " cái cớ rỗng tuếch và lời vu cáo không căn cứ
". Sử gia này cho rằng " lý do thực sự của vụ ám sát là do sự bất hòa giữa
al-Afdal và al-Amir, Caliph dòng Fatimid, là người kế vị al-Musta’li vào năm
1101. Al-amir căm ghét sự giám hộ của vị vizier đầy quyền lực và hồ hỡi khi
ông này từ trần. Có thể là như thế, nhưng lần này thì lời đồn đại lại đúng.
Truyện kể của người Ismaili được Rashid al- Din và Kashani trích dẫn, thừa
nhận rằng vụ ám sát đó là do " 3 đồng đạo ở Aleppo làm ". Khi nhận được tin
Afidal chết, " Vị Đạo sư của chúng ta ra lệnh mở tiệc ăn mừng 7 ngày 7 đêm,
để chiêu đãi các đồng đạo đó ". Cả lâu đài Alamut và cung đình ở Cairo đều hoan hỉ khi lọai trừ được
al-Afdal, dường như đây là thời điểm thìch hợp để thử nối lại mối quan hệ
giữa 2 nhánh. Vào năm 1122, có 1 cuộc họp công khai tổ chức tại Cairo,để làm
rõ việc ủng hộ Musta’li và chống đối Nizar ; và cùng lúc đó, vị Caliph gởi
cho các huynh đệ ly khai một bức thư nhằm bảo vệ tính hợp pháp của mình, còn
vị vizier mới tại Cairo là al-Ma’mun, ra lệnh cho Viện thư ký công khố viết
1 lá thư dài cho Hasan –i Sabbah, nhằm thúc dục ông này nên quay về với chân
lý và từ bỏ việc tôn thờ cương vị vị Imam của Nizar. Cho tới lúc này, al
Ma’num - tuy là người theo phái 12 Imam chứ không phải là người của phái
Shi’ite Ismaili - chìu theo ý của Caliph và các da’i. Nhưng vị vizier rõ
ràng là không có ý định để những vụ dàn xếp này với Hasan-i Sabbah đi quá
xa. Sau khi phát hiện ra 1 âm mưu, do Alamut chỉ đạo và cung cấp tiền bạc,
nhằm ám sát cả 2 người al-Amir và al-Ma’mum, các biện pháp an ninh hết sức
nghiêm ngặt được triển khai tại các vùng biên giới và tại Cairo nhằm ngăn
chận sự thâm nhập của các sát thủ. Khi al Ma’mun lên nắm quyền, ông ta
được báo cáo là Ibn al – Sabbah (tức là Hasan-i Sabbah) và nhóm Batini hồ
hởi với cái chết của al-Afdal, và họ còn mong muốn ám sát cả al-Amir và thậm
chí al Ma’mun nữa, và vì thế họ phái đi nhiều sứ giả mang tiền bạc đến gặp
các đồng đảng đang sống tại Ai cập. ‘Al- Ma’mun đến gặp viên thủ hiến Asqalan, bãi chức ông này và cử 1 người
khác thay thế. Ông ta ra lệnh cho viên thủ hiến mới tuần hành và xem xét tất
cả các quan chức tại Asqalan, sa thải tất cả chỉ để lại những người mà dân
địa phương quen biết. Ông ta chỉ thị cho viên quan này rà sóat tòan bộ các
thương nhân và những ai mới tới, và không được cả tin vào những gì mà họ
khai về tên họ, tên gọi và quê quán của họ ‘’’ mà phải dò hỏi từng người
riêng rẽ những gì liên quan đến người khác và phải hết sức thận trọng về
công việc này. Nếu có ai mang bộ dạng như mới đến lần đầu, phải chận hắn ta
ngay ngòai biên giới, điều tra kỹ tình huống và hàng hóa mang theo. Cũng làm
như thế đối với người dắt lạc đà, và từ chối không cho nhập cảnh đối với tất
cả trừ những ai đã quen biết hoặc là những người đã đến nhiều lần. Quan chức
địa phương cũng không được cho phép các thương đòan tiến bước nếu chưa gởi
báo cáo bằng văn bản đến diwan, trong đó nêu rõ số lượng nhà buôn, tên tuổi
của họ, tên tuổi các gia nhân, tên tuổi người dắt lạc đà và danh mục hàng
hóa phải được kiểm tra tại thành phố Bilbays và khi đòan của họ đi đến cổng
thành. Mặt khác cũng phải tỏ ra tôn trọng và không được làm mích lòng các
nhà buôn. ‘ Sau đó, al Ma’mun ra lệnh cho các thủ hiến tại thành Cairo cũ và mới đều
phải đăng ký tên họ của tất cả mọi người dân, theo từng đường phố, theo từng
phường một, và không cho phép ai được chuyển đi lại từ nhà này sang nhà khác
nếu không được lệnh. Khi nắm được số dân đăng ký, tên họ, cả tên lóng, hòan cảnh và lối sống của
mọi người tại thành Cairo cũ và mới, và của tất cả những người lạ nào đến
thăm người dân trong khu phố, ông ta mới sai phụ nữ đến những nhà đó và tiến
hành tra hỏi mọi công việc của nhóm Ismaili, đến mức không có việc gì liên
quan đến bất cứ người nào tại 2 thành phố Cairo cũ và mới mà không bị phát
hiện … rồi vào một ngày nào đó ông ta phái binh linh đến từng nhà và ra lệnh
cho họ bắt giữ những kẻ mà ông ta đánh dấu …’ Có nhiều tên gián điệp như thế
bị bắt, trong đó có thầy dạy cho con của Caliph ; một số người trong bọn họ
còn được Hasan- i Sabbah cấp tiền bạc mang theo để sử dụng tại Ai-cập. Một
nhà chép sử biên niên Ai cập cho biết, cảnh sát và tình báo của vizier họat
động rất thành công đến nổi ngay từ lúc tên sát thủ mới vừa rời Alamut, thì
mọi hành tung của hắn ta đã được theo dõi và báo cáo. Rõ ràng là bức thư ân
xá, gọi đích danh các thủ lãnh Nizari quay về chính đạo mà không sợ bị trừng
phạt, chưa bao giờ được gởi đi, và mối liên hệ giữa Cairo và Alamut xấu đi
nhanh chóng. Vào tháng 5 năm 1124, Hasan-i Sabbah lâm bệnh. Cảm nhận mình không sống
được, ông ta chuẩn bị sắp xếp người kế vị. Người được chọn là Buzugumid, đã
từng cai quản Lamasar trong 20 năm. " Ông ta cử người đến Lamasar tìm
Buzugumid và bổ nhiệm làm người kế vị. Và sau đó ông ta cho Dihdar Abu- Ali
xứ Ardistan ngồi ở phía bên phải của mình và giao phụ trách bộ phận tuyên
truyền ; cho Hasan con của Adam xứ Qasran ngồi phía bên trái và Kya
Ba-Ja’far, là tư lệnh quân đội ngồi trước mặt. Và ông ta giao cho 4 người
trong bọn họ nhiệm vụ là phải thống nhất ý kiến khi hành động cho tới khi
nào có vị Imam đến tiếp quản lãnh địa. Và vào đêm thứ 4 ngày 6 tháng Rabi’
11, năm 511 (nhằm ngày thứ 6, ngày 23 tháng 5, năm 1126), ông ta vội vã
tìm đến Thượng đế để chờ sự phán xét. Một sự nghiệp phi thường đã chấm dứt. Một nhà viết tiểu sử Ả-rập, hẳn chẳng
có thiện cảm gì, đã mô tả Hasan như là " một con người thông tuệ, đầy năng
lực, giỏi về hình học, đại số, thiên văn, ma thuật và nhiều việc khác’. Phần
tiểu sử của nhóm Ismaili được các nhà biên niên sử người Ba-tư trích dẫn,
nhấn mạnh đến lối sống khổ hạnh và chay tịnh của ông ta – trong suốt 35 năm
Hasan ngự trị tại lâu đài Alamut, không ai được phép uống rượu công khai
hoặc cất trử rượu. Tính nghiêm khắc này không chỉ dành riêng cho kẻ thù. Một
trong những người con trai của ông ta bị hành hình vì uống rượu, 1 người
khác bị xử tử vì bị tố cáo đã tham gia ám sát vị da’i tên là Husayn Qa’ini
nhưng sau lại được minh oan. Và ông ta thường viện dẫn đến việc hành hình cả
2 con trai để bác bỏ những ai có ý kiến là ông ta chủ tâm lợi dụng họ để
tuyên truyền. Hasan –i Sabbah là một nhà tư tuởng và nhà văn cũng như là con người của
hành động. Các tác giả Sunni còn giữ được 2 đoạn trích dẫn trong các bài
viết của ông ta - một đọan lấy trong tự truyện, còn phần kia là phần rút gọn
của 1 luận văn thần học. Đối với các tín đồ Ismaili sau này, ông ta được tôn
kính như là người đề xuất chính về lời thuyết giảng mới – da’wa jadida – là
1 giáo lý Ismaili cải tổ, được tuyên truyền rộng rãi sau khi ly khai khỏi
Cairo, giáo lý này được lưu truyền và bổ sung trong các nhóm Ismaili theo
phái Nizari. Các bài giảng của nhóm Nizari về sau có chứa một số đọan có thể
là trích dẫn hoặc đọan tóm tắt từ các bài giảng của chính Hasan. Hasan không
hề cho mình là Imam – mà chỉ là người đại diện của Imam. Sau khi
Imam ẩn
thân, thì Hasan là Hujja - bằng chứng – là nguồn gốc để nhận biết có 1
Imam
đang ẩn thân trong thời đại mà ông ta đang sống, là mắt xích sống giữa dòng
dõi các Imam hiển hiện trong quá khứ và trong tương lai, và các thủ lãnh của
da’wa. Tín đồ không có quyền chọn lựa, nhưng phải tuân theo lời giảng đã
được cho phép, đó là ta’lim. Căn cứ dìu dắt tối hậu là đấng Imam ; căn cứ
trực tiếp là người đại diện được thừa nhận của vị này. Phái Sunni cho rằng,
Con Người không thể chọn được Imam, hoặc phán xét để quyết định chân lý
trong các lãnh vực thần học và luật pháp. Thượng đế chỉ định Imam, và
Imam
là người nắm giữ chân lý. Chỉ có Imam mới chứng thực vừa thiên khải vừa lý
tính ; chỉ có Imam, qua chức vụ và lời giảng, mới thực sự làm được điều này,
và vì thế Imam mới đúng thực là Imam. Những ai khác cạnh tranh đều là là kẻ
thóan đọat, kẻ nào đi theo họ sẽ là người bị tội, những lời rao giảng của họ
đều là giả mạo. Giáo thuyết này, nhấn mạnh vào tính trung thành và sự tuân phục, và chối bỏ
cái thế giới đang có, đã trở thành một vũ khí đầy quyền lực trong tay của
đám chống đối bí mật, có tính cách mạng. Những thực tiển nhọc nhằn của triều
đại Caliph dòng Fatimid tại Ai cập đã trở nên lúng túng trước những yêu sách
của nhóm Ismaili. Khi ly khai với Cairo, quay sang trung thành với 1 vị
Imam
bí mật đang ẩn cư, đã giải phóng những khát vọng và nhiệt tình của nhóm
Ismaili vốn bị dồn nén sôi sục ; và chính Hasan-I Sabbah thành công trong
việc đánh thức và lèo lái những sức mạnh này.
|