Những bài cùng tác giả
Chương 4
Sứ mạng tại Ba tư Cái chết của 1 Sultan dòng Seljuq đã làm ngưng ngay mọi hành động tích cực,
và sau đó là 1 khỏang thời gian đầy những xung đột và bất trắc, là thời điểm
mà mọi kẻ thù bên trong, giặc bên ngoài đều tìm cách nắm lấy cơ hội tốt.
Chắc hẳn có nhiều người mong mỏi rằng cứ địa Ismaili do Hasan-i
Sabbah lập ra, nhờ cái chết của Sultan, sẽ thích nghi được với cái cung cách
đầy thảm hại của 1 chính quyền Hồi giáo trong giai đọan này. Vào năm 1126, tức là 2 năm sau khi Buzurgumid kế vị, Sultan Sanjar mở một
cuộc tấn công để kiểm tra vấn đề. Từ lúc tổ chức cuộc viễn chinh tấn công
Tabas vào năm 1103, Sanjar không đưa thêm hành động nào chống lại nhóm
Ismaili, thậm chí còn thoả hiệp với họ nữa. Trận tấn công năm 1126 chống
lại nhóm Ismaili không có lý do gây chiến rõ rệt. Có thể do Sultan
cảm thấy đủ tự tin, và nhóm Ismaili bị coi là suy yếu với thủ lãnh
mới, có thể là lý do đủ mạnh để giải thích cho quyết định của Sultan không
thể nào tiếp tục chịu đựng cái thế lực độc lập đầy nguy hiểm này trong cương
thổ của mình và cả trong phạm vi của đế quốc. Mu’in al – Din Kashi, vizier
của Sultan, người có chủ trương hành động mạnh tay đóng vai trò quan trọng
trong vụ này. Đợt tấn công đầu tiên dường như đến từ phương Đông. " Năm đó, vị vizier … ra
lệnh gây chiến với nhóm Ismaili, cứ gặp là giết, cướp sạch tài sản và
bắt vợ, con gái của họ làm nô lệ. Vizier gởi 1 đạo quân tấn công Turaythith
( vùng Quhistan) hiện đang nằm trong tay họ, và tấn công Bayhaq, ở tỉnh
Nishapur … ông ta phái các tóan quân tấn công mọi vùng lãnh địa của họ, ra
lệnh cứ gặp nhóm Ismaili là giết ‘. Hiểu ngầm là không được xem nhóm
Ismaili như tù binh và là dân thường theo luật Hồi giáo trong các
cuộc xung đột giữa người Hồi giáo với nhau, mà phải coi như là những kẻ vô
đạo, chỉ có giết hoặc bắt làm nô lệ. Nhà chép sử biên niên Ả-rập ghi nhận 2
vụ thành công - vụ chiếm đóng làng Tarz của người Ismaili, gần Bayhaq
; trong vụ này, tất cả dân làng đều bị giết, còn thủ lãnh của họ thì tự sát
bằng cách nhảy từ tháp chuông đền thờ xuống đất, và vụ đột kích vào
Turaythith, tại đây binh lính đã giết rất nhiều người, lấy đi nhiều tài sản,
rồi rút quân ". Rõ ràng là các chiến dịch này đều mang lại kết quả hạn chế
và không mấy thuyết phục. Tại miền bắc, thế tấn công đem lại kết quả còn tệ
hơn. Cuộc viễn chinh vào Rudbar, do người cháu của Shirgir chỉ huy, bị đánh
trả, và quân phiến lọan dành khá nhiều chiến lợi phẩm. Một cuộc viễn chinh
khác, tuy có dân địa phương giúp đỡ, nhưng cũng bị đánh bật, và một trong
các cấp chỉ huy bị bắt giữ. Nhóm Ismaili chẳng hề chậm chân trong việc trả thù. 2 tên fida’i len
lõi vào nhóm gia nhân dưới vỏ bọc người giữ ngựa cho vị vizier, chiếm đuợc
sự tin cậy của ông này nhờ tài khéo léo và vẻ mộ đạo. Họ tìm được thời cơ
khi vị vizier kêu họ đến gặp để chọn ra 2 con ngựa Ả-rập làm quà tặng cho
Sultan xứ Ba - tư nhân dịp năm mới. Vụ ám sát xảy ra vào ngày 16 tháng 3 năm
1127. Ibn al-Athir nói:’ Ông ta đã làm nhiều việc tốt và có ý định tốt khi
chống lại bọn họ, và Thượng đế sẽ coi ông ta là kẻ tử đạo ". Cũng chính sử
gia nay đã ghi lại cuộc chinh phạt do Sanjar cầm đầu tấn công vào lâu đài
Alamut ; trong trận này có đến trên 10.000 người Ismaili bị tàn sát.
Nhưng điều này không được nhóm Ismaili hoặc các nguồn tư liệu khác
nhắc tới, cho nên có lẽ là một chuyện bịa đặt. Khi các vụ xung đột chấm dứt người ta mới thấy là đám Ismaili mạnh
hơn nhiều so với trước đó. Tại Rudbar, họ đã cũng cố vị thế của mình bằng
cách xây dựng 1 pháo đài mới, kiên cố hơn tên là Maymundiz, và mở mang lãnh
thổ, cụ thể là chiếm lấy Talaqan. Tại phía đông, các lực lượng Ismaili,
đóan chừng là từ Quhistan tới, đã đột kích Sistan vào năm 1129. Cùng năm đó,
Mahmud, là Sultan dòng Seljuq tại Isfahan, thấy rằng tốt hơn nên nói đến hòa
bình, và mời Alamut gởi đến 1 sứ giả. Rủi thay sứ giả này cùng với đồng
nghiệp, lại bị dân chúng tại Isfahan bắt đem treo cổ sau khi được gặp
Sultan. Sultan đưa ra lời xin lỗi và không nhận trách nhiệm nhưng lại từ
chối yêu cầu của Buzurgumid là phải trừng trị đám giết người. Nhóm
Ismaili trả đủa bằng cách tấn công Qazvin, tại đây, theo sử biên niên
của họ, họ đã giết được 400 người và cướp đươc nhiều chiến lợi phẩm. Người
Qazvin tìm cách giáng trả, nhưng theo lời người chép biên niên Ismaili,
khi các đồng đảng Ismaili giết được 1 tiểu vương người Thổ, thì cả
bọn đều bỏ chạy. Một đợt tấn công lâu đài Alamut do đích thân Mahmud ra tay
vào lúc đó, đã không mang lại kết quả gì. Vào năm 1131, Sultan Mahmud chết, và cảnh xâu xé giữa các anh em và con ông
ta lại xuất hịện. Một vài tiểu vương tìm cách kết thân với vị Caliph
ở Baghdad là al-Ustarshid, liên kết để chống lại Sultan Mas’ud, và vào năm
1139, vị Caliph cùng với viên vizier và một số quan lại, bị Mas’ud
bắt giữ gần Hamadan. Sultan giải người tù nổi tiếng này về Maragha, đối xử
tử tế – nhưng không ngăn chặn đươc 1 đám đông nhóm Ismaili xông vào
doanh trại và ám sát ông này. Một vị Caliph dòng Abbasid - tức là thủ
lãnh danh nghĩa của Hồi giáo dòng Sunni - là mục tiêu đương nhiên
phải sát hại của các sát thủ nếu gặp cơ hội, nhưng có lời đồn đại cho rằng
Mas’ud đã câu kết hoặc cố tình xao nhãng, và thậm chí giao cho Sanjar, lúc
này vẫn là thủ lãnh danh nghĩa của dòng Seljuq, là kẻ thủ ác. Yuvayni cố
gắng giải tội cho cả 2 người này :’ Một số người đầu óc thiển cận và ác ý
với nhà Sanjar đã gán cho họ phải chịu trách nhiệm về hành động này.Nhưng "
các nhà chiêm tinh đã lừa dối, lạy đấng Ka’ba!” Lòng hào hiệp và bản chất
thanh khiết Sultan Sanjar đã được chúng minh qua tấm lòng tuân phục và thêm
sức vào đức tin Hanafite và Luật thánh Shari’a, Sultan luôn kính trọng những
gì liên quan đến chức vụ của Caliph cũng như lòng nhân từ và thương
cảm đều rất thẳng thắn và bộc bạch cho nên những lời tố cáo giả trá và phỉ
báng không thể nào nhắm được vào cá nhân của ngài, vốn là cội nguồn của đức
khoan dung và lòng trắc ẩn ". Tại Alamut, tin tức về cái chết của Caliph được đón nhận hết sức hồ
hởi. Họ ăn mừng trong 7 ngày đêm, ca tụng các đồng đảng và không tiếc lời xỉ
vả tên họ và tước hiệu của dòng Abbasid. Danh sách các vụ ám sát tại Ba-tư trong thời gian cầm quyền của Buzurgumid
tương đối ngắn, mặc dù không phải là không nổi bật. Ngòai vị Caliph
ra,còn có các nạn nhân khác là quận trưởng Isfahan, thủ hiến Maragha, đều bị
ám sát không lâu trước khi Caliph đến thành phố này, quận trưởng
Tabriz và 1 vị Mufti của Qazvin. Nhịp độ ám sát lơi đi không phải là sự thay đổi duy nhất về đặc điểm của 1
lãnh điạ Ismaili. Khác với Hasan-i Sabbah, Buzurgumid không phải là
người ngòai mà vốn là dân địa phương tại Rudbar, ông này không có kinh
nghiệm của 1 tay khuấy động bí mật như Hasan, nên đã dành nhiều thời gian để
lo việc cai trị hành chánh. Việc ông ta chấp nhận vai trò của 1 nhà cai trị
trên lãnh địa, và thiên hạ cũng thừa nhận như vậy, đã được chứng minh rõ nét
khi tiểu vương Yarankush, vốn là kẻ cựu thù đáng gờm của nhóm Ismaili,
cùng với bộ hạ chạy trốn vào lâu đài Alamut, khi bị thế lực đang lên của vua
Shah xứ Khorazm lật đổ. Vua Shah buộc ông này phải ra đầu hàng, cho rằng ông
này là bạn của nhóm Ismaili, trong khi đó Yarankush vốn là kẻ thù của
họ - nhưng Buzurgumid từ chối giao trả, và nói rằng :” ta không thể coi ai
là kẻ thù khi người đó đến xin ta che chở ‘. Sử gia chép biên niên dưới
trướng Buzurgumid quả là phấn khởi khi kể lại những câu chuyện về lòng quảng
đại - những câu chuyện phản ánh vai trò của 1 chúa công mã thượng hơn là 1
thủ lãnh cách mạng. Các thủ lãnh Ismaili đã làm tròn nhiệm vụ của mình đến mức đàn áp dị
giáo. Vào năm 1131, theo lời 1 sử gia biên niên Ismaili, có 1 giáo đồ
Shi’ite tên là Abu Hashim xuất hiện tại Daylam, và gởi nhiều thư đến tận
Khurasan. ‘ Buzurgumid gởi cho ông ta 1 bức thư khuyên nhủ, nhắc ông ta chú
ý đến bằng chứng của Thượng đế ‘. Abu Hashim đáp lời :’ Những gì nhà ngươi
nói đều là tà giáo và trái với tín ngưỡng. Nếu ngươi tới đây chúng ta sẽ
tranh luận, ta sẽ bóc trần những điều mà ngươi tin đều là giả dối ‘. Nhóm
Ismaili gởi đến 1 đội quân và đánh bại ông này. Họ bắt được Abu Hashim,
đưa ra nhiều bằng chứng, rồi đem ông ta ra thiêu sống. Buzurgumid cai trị trong một thời gian dài cho đến lúc chết vào ngày 9 tháng
2 năm 1138. Juvayni đã diễn tả một cách hoa mỹ như sau :’ Buzurgmid đã bám
víu vào Dốt nát để cai trị bằng sự Lầm lạc cho đến ngày 26 tháng Jumda I,
năm 522 (nhằm ngày 9 tháng 2, năm 1138), là lúc ông ta bị ách Trầm luân đè
bẹp và Địa ngục sẽ được sưởi ấm khi cái thây của ông ta được quăng vào lửa.
Điều đáng nói là khi thay đổi lãnh đạo, không có sự cố nào xảy ra khi người
con là Muhammad được ông ta chỉ định làm thừa kế trước khi chết có 3 ngày.
Một sử gia biên niên Ismaili cho biết, khi Buzurgumid chết, " đám kẻ
thù của họ lộ vẻ vui mừng và lên mặt, nhưng họ cũng mau chóng nhận ra rằng
mọi hy vọng của họ đều vô ích ". Nạn nhân đầu tiên của triều đại mới là một người cuả dòng Abbasid al-Rashid,
vị cựu Caliph, là con và người thừa kế người cha là al-Mustarshid đã
bị ám sát. Cũng giống như cha mình, ông này bị lôi vào những chuyện tranh
dành của dòng Seljuq, cho nên bị một hội đồng các luật gia và quan tòa do
Sultan triệu tập chính thức cách chức. Sau đó al – Rashid rời Iraq đi Ba-tư
để gặp các đồng minh, và chính tại Isfahan, sau khi ốm dậy, ông ta bị các
sát thủ tìm giết vào ngày 5 hoặc ngày 6 tháng 6 năm 1138. Thích khách chính
là đám dân Khurasani đang phục vụ cho ông ta. Tại Alamut, người ta ăn mừng
cái chết của vị Caliph trong 1 tuần lễ, để tỏ lòng trân trọng với "
chiến thắng” đầu tiên của triều đại mới. Bảng vinh danh (roll of honor) dưới thời Muhammad có ghi ra 14 vụ ám sát.
Ngòai tên vị Caliph ra, nạn nhân nổi danh nhất là Sultan dòng Seljuq
tên là Da’ud, bị 4 sát thủ người Syria giết tại Tabriz vào năm 1143. Người
ta cho rằng các sát thủ này do chính Zangi cử đến. Là thủ lãnh tại Mossul,
ông ta sợ rằng Da’ud có thể cử người khác đến hất chỗ của mình vì lý do đã
mở rộng lãnh địa sang Syria. Có điều khá kỳ lạ là 1 vụ ám sát tại miền Tây
bắc Ba-tư lại được sắp xếp từ Syria chứ không phải từ lâu đài Alamut gần đó.
Những nạn nhân khác có gồm 1 tiểu vương trong triều của Sanjar và 1 trong
những cộng sự của ông này, một vương gia thuộc dòng họ của vua Shah tại
Khorazm, các thủ lãnh tại xứ Gruzia (?) và Mazandaran, 1 vizier, các vị Qadi
xứ Quhistan, Tiflis và Hamadan là những người đã phê chuẩn hoặc xúi dục việc
tàn sát nhóm Ismaili. Đây quả là 1 mẻ lưới nghèo nàn so với những ngày huy hòang khi Hasan-i
Sabbah còn sống, và điều này phản ánh mối lo ngại ngày càng tăng của nhóm
Ismaili đối với các vấn đề tại chỗ. Trong biên niên sử của nhóm
Ismaili những việc này được coi trọng. Những vụ việc lớn của đế quốc hầu
như không được nhắc tới ; thay vào đó, là những ghi chép chi tiết về các
cuộc xung đột với các thủ lãnh láng giềng, được tô điểm thêm bằng danh sách
các bò, cừu, lừa và những chiến lợi phẩm khác đọat được.Ngoài ra nhóm
Ismaili còn đưa 1 lọat các cuộc đột kích và phản kích vào Rudbar và
Qazvin, và vào năm 1143, đã đẩy lùi được 1 cuộc tấn công do Sultan Mahmud
đánh vào lâu đài Alamut. Họ cố đánh chiếm hoặc xây dựng một số pháo đài mới
tại các thị trấn bên bờ Lý hải, và thậm chí còn cho biết là đã mở rộng họat
động sang 2 khu vực mới - tại Gruzia, họ tổ chức đột kích và tuyên truyền,
và tại xứ Afghanistan ngày nay, họ được thủ lãnh địa phương, vì lý do riêng,
đã yêu cầu họ gởi đến 1 đòan truyền đạo. Khi thủ lãnh này chết vào năm 1161,
cả các giáo sĩ truyền đạo lẫn các tín đồ cải giáo đều bị người kế nhiệm đem
ra giết sạch. Vẫn còn 2 kẻ thù đặc biệt dai dẵng - thủ lãnh thành Mazandaran, và Abbas,
thủ hiến người Seljuq tại thành Rayy, đã ra tay tàn sát nhóm Ismaili
tại thành phố này và tấn công vào lãnh thổ của họ. Có người nói là cả 2 kẻ
thù này đã lấy xương sọ của người Ismaili để xây tháp canh. Vào năm
1146, Abbas bị Sultan Mas’ud giết khi đến thăm Baghdad mà theo sử gia chép
biên niên Ismaili " thì đó là do lệnh của Sultan Sanjar ‘. Đầu của
ông này được gởi đến Khurasan. Có rất nhiều dấu hiệu tương tự cho thấy
Sanjar và nhóm Ismaili đứng cùng một phía, mặc dù có lúc họ xung đột,
chẳng hạn như khi Sanjar ủng hộ âm mưu phục hồi giáo lý phái Sunni
tại 1 trong những trung tâm Ismaili tại Quhistan. Còn ở những nơi
khác, chuyện tranh chấp thường liên quan đến vấn đề đất đai và cục bộ. Điều
đáng chú ý là tại những lâu đài và thái ấp khác của nhóm Ismaili,
ngòai Alamut ra, quyền lãnh đạo được truyền từ cha xuống con, và lắm khi
những cuộc xung đột chỉ có tính hòan tòan liên quan đến dòng dõi cai trị. Giáo lý Ismaili dường như đã mất sức lôi cuốn. Trong tình thế hầu như
bế tắc và thỏa thuận ngầm giữa các lãnh địa Ismaili và các vương
triều dòng Sunni, cuộc chiến đấu cao cả để lật đổ cái trật tự cũ và
xây dựng một kỷ nguyên mới, nhân danh vị Imam ẩn thân, đã bị đẩy
xuống thành những vụ cải vả vặt vãnh về biên giới và đột kích để bắt trộm
ngựa. Các lâu đài cứ địa, ban đầu vốn được coi là mũi xung kích để tấn công
ào ạt vào đế quốc Sunni, giờ đây lại trở thành lỵ sở của các thủ lãnh
phe nhóm địa phương,vốn là cảnh thường gặp trong lịch sử đạo Hồi. Nhóm
Ismaili thậm chí còn có các cơ sở đúc tiền riêng nữa. Thật vậy, các tay
fida’i vẫn còn đi ám sát, nhưng không còn chuyên chú, và trong nhiều trường
hợp, chưa đủ sức để khơi lên ngọn lửa hy vọng của tín đồ. Vẫn có người trong bọn họ muốn quay về những ngày vẻ vang của Hasan –i
Sabbah - quay lại với tinh thần tận tụy và phiêu lưu khi ông ta mới tham gia
chiến đấu, và quay lại với niềm tin tôn giáo đã truyền cảm hứng cho họ. Họ
tìm thấy hình ảnh lãnh đạo của Hasan qua người con và người kế nghiệp hợp
pháp của l chủ lâu đài Alamut, là Muhammad. Ông này sớm quan tâm đến công
việc. " Lúc nhỏ, ông ta hun đúc ý muốn học hỏi và nghiên cứu những lời dạy
của Hasan-i Sabbah và tổ tiên của mình, và … ông ta đã giải thích những tín
lý của họ một cách xuất sắc … Với lời lẽ hùng hồn ông ta lấy lòng được nhiều
người. Trong lúc người cha hầu như không khéo mấy về nghệ thuật này, thì
người con … lại có vẻ như 1 học giả lớn khi đứng bên cạnh, và vì thế thường
dân tôn ông ta làm thủ lãnh. Và do không nghe được những gì giống như thế ở
người cha, cho nên họ bắt đầu nghĩ rằng đây đúng là vị Imam mà Hasan
đã từng hứa hẹn. Dân chúng càng ngày càng theo ông ta nhiều hơn và chẳng bao
lâu họ đưa ông lên làm thủ lãnh ‘. Mauhammad chẳng hề thích thú điều này. Là môt người bảo thủ với các tín điều
Ismaili, ‘ ông ta cứng nhắc trong việc tuân thủ những nguyên tắc do
cha ông ta và Hasan đặt để về cách tuyên truyền trên danh nghĩa vị Imam
và việc tuân thủ các qui tắc Hồi giáo bên ngoài ; và ông ta cho rằng cách
hành sử của con mình không phù hợp với những nguyên tắc đó. Vì vậy ông ta
phê bình con mình không chút úp mở và nói trước mọi người như thế này :” Tên
Hasan này là con ta, và ta không phải là Imam mà chỉ là một trong các
da’i của người mà thôi. Ai đã từng nghe những lời này mà còn tin họ thì chỉ
là kẻ vô đạo và vô thần ". Và trên cơ sở này, ông ta trừng trị thẳng tay
bằng khổ hình và tra tấn một số người tin vào chức vị Imam của con
mình, và có đợt đã kết tội chết đến 250 người tại Alamut rồi tống cổ 250
người khác phạm cùng tội ra khỏi lâu đài, bắt họ phải cỏng xác những người
chết trên lưng. Bằng cách này, thảy đều nản lòng và khuất phục. Hasan nằm im
đợi thời cơ và cố gắng không để cha mình nghi ngờ mảy may.Khi Muhammad chết
vào năm 1162, ông ta kế vị, không ai lên tiếng phản đối. Lúc ấy, ông ta mới
35 tuổi. Lúc đầu sự cai trị của Hasan chẳng có gì để nói, chỉ nới lỏng chút ít những
qui định nghiêm khắc của Luật thánh mà trước đây đã được duy trì tại lâu đài
Alamut. Sau khi lên cầm quyền được 2 năm rưỡi, vào giữa tháng ăn chay
Ramadan, ông ta tuyên cáo thiên niên kỷ mới. Các sự kiện về nhóm Ismaili về những gì đã xảy ra đều được lưu giữ
trong các tài liệu về sau này của giáo phái và, cả trong các biên niên Ba tư
được viết sau khi Alamut sụp đổ, tuy có sửa đổi chút ít. Tài liệu này nêu ra
một câu chuyện kỳ lạ. Vào ngày thứ 17 của tháng chay Ramadan, năm 559 (nhằm
ngày 8 tháng 8 năm 1164), là ngày kỷ niệm Ali bị ám sát, khi sao Xử nữ xuất
hiện và mặt trời đi vào cung Bắc giải, Hasan ra lệnh dựng lên 1 đài cao
trong sân lâu đài Alamut, mặt quay về hướng tây, 4 góc cắm 4 đại kỳ mang 4
màu trắng, đỏ, vàng và xanh. Dân chúng từ các vùng được triệu tập về Alamut
từ trước, tụ tập trong sân lâu đài - người từ phương đông thì ngồi ở bên
phải, người từ phía tây đến ngồi ở bên trái, và người từ phía bắc, từ Rudbar
và Daylam, ngồi đằng trước mặt, đối diện với đài. Vì đài cao quay về hướng
tây, nên các giáo đồ ngồi quay lưng về hướng Mecca. Một tài liệu nhỏ
Ismaili kể lại : ‘ Khoảng gần trưa, Chuá công (Hasan), cầu cho an bình
khi nhắc đến người, mặc quần áo trắng, đội khăn trắng, từ lâu đài đi xuống,
từ hướng phải tiến gần đài cao, và đường bệ bước lên đài. Ngài chào 3 lần,
trước tiên chào người Daylam, rồi đến những ngưòi ở phiá hữu, rồi đến những
người ở phiá tả. Sau đó ngài ngồi xuống, rồi đứng dậy, tay giữ kiếm, cất cao
giọng . Hướng về phía " con dân của các thế giới, jinn, đàn ông và các
thiên thần , ngài tuyên bố là vị Imam ẩn thân đã gởi đến cho ngài 1
sứ điệp với những chỉ dạy mới. Vị Imam của thời đại chúng ta gởi đến
các con lời chúc phúc và lòng thương cảm của Người, và coi các con là những
tôi tớ được ngài chọn lựa đặc biệt. Đức Imam giải phóng các con khỏi
các qui lệ nặng nề của Luật thánh, và mang các con đến cõi Sống lại ". Ngòai
ra, vị Imam cử Hasan, con của Muhammad là con của Buzurgumid, là
người đại diện (vicar), là da’i và là bằng chứng của chúng ta. Chúng ta phải
vâng lời và tuân phục Hasan về những vấn đề tôn giáo lẫn thế tục, có nhiệm
vụ phải thực hiện những mệnh lệnh của người và coi những lời của ông ta là
lời của chúng ta ‘. Phát biểu xong, Hasan bước xuống đài, cúi lạy 2 lần theo
kiểu cầu nguyện. Rồi, sai người bày ra 1 bàn tiệc, ông ta bảo họ chấm dứt
mùa chay, nhập tiệc và cùng vui vẻ. Các sứ giả được phái sang phía đông và
tây báo tiệp. Tại Quhistan, thủ lãnh pháo đài Mu’minabad cũng làm một lễ rập
khuôn như ở lâu đài Alamut, và tự xưng là người đại diện của Hasan nhưng lễ
đài lại đặt lệch hướng ;’ Và từ ngày đó trở đi, những điều đê tiện được
phanh phui và những cái ác này được tuyên xưng trong hang ổ của bọn dị giáo,
Mu’minabad, lũ này đờn ca, chè chén công khai trên mọi bậc cấp của lễ đài và
chung quanh . Tại Syria người ta đón nhận những tin tức như vậy, và các tín
đồ ăn mừng vì không còn phải tuân theo qui luật nữa. Sự vi phạm nghiêm trọng về mặt thể thức của luật tôn giáo – giáo đồ quay
lưng về hướng Mecca, tổ chức tiệc vào buổi trưa ngay trong mùa chay – đánh
giá điểm đỉnh của khuynh hướng của phái thiên niên kỷ và phá luật (
antinomian) xảy ra nhiều lần trong Hồi giáo và tương tự như thế tại các nước
theo đạo Kitô. Luật lệ đã đạt được mục đích, và không còn hiệu lực nữa ; các
bí mật được phơi bày, chỉ còn ơn phước của Imam mà thôi. Khi dựng
những kẻ tôi tớ được lựa chọn của mình thành các tín đồ, ông ta đã cứu họ ra
khỏi tội lỗi, qua cách tuyên cáo Sự sống lại, ông ta cứu họ khỏi cái chết,
và mang họ, khi còn sống, đến cõi Thiên đàng tinh thần tại đây họ nắm được
Chân lý, và chiêm nghiệm được cái Bản thể thần thánh.’ Giờ đây bản chất của
niềm tin vô ích này … là : bắt chước nhà triết học, họ nói đến 1 thế giới
như chưa hề được tạo dựng và Thời gian không hề có giới hạn và sự Sống lại
chỉ nói về mặt tinh thần. Và họ giải thích Thiên đàng và Hỏa ngục… theo kiểu
gán thêm ý nghĩa tinh thần cho những quan niệm này. Và dựa trên cơ sở đó, họ
cho rằng sự Sống lại là khi ta gặp được Thượng đế và mọi bí mật cũng như
chân lý của mọi Sáng tạo được vén ra, và các qui định về sự tuân phục đều bị
bãi bỏ, bởi vì trong cái thế giới này, tất cả đều là hành động và không có
sự phán xét, nhưng trong cái thế giới sắp đến, chỉ có sự phán xét và không
có hành động. Đây là (sự Sống lại) tinh thần do chính Hasan tìm thấy và cái
này là sự Sống lại như được hứa hẹn và mong chờ trong tất cả các tôn giáo và
tín ngưỡng. Do hệ quả này, từ đây, tín đồ được miễn không phải tuân theo các
nhiệm vụ do luật Shari’a qui định bởi vì trong thời buổi Sống lại này họ
phải tòan tâm ý hướng về thượng đế và từ bỏ mọi nghi lễ theo luật tôn giáo
và những qui định thờ phụng đã có. Luật Shari’a qui định là tín đồ phải cầu
nguyện Thượng đế mỗi ngày 5 lần và trọn lòng hướng về Người. Qui định này
chỉ là hình thức, nhưng giờ đây, trong những ngày Sống lại họ phải luôn luôn
hết lòng hướng về Thượng đế và giữ cho mọi mặt linh hồn của họ luôn hướng về
phía Đấng Chí Thánh, có như thế mới đúng lời cầu nguyện chân thực. Hệ thống tôn giáo mới đã dẫn tới một sự thay đổi quan trọng vị thế của Chúa
công lâu đài Alamut. Khi hành lễ cầu nguyện trong sân lâu đài, ông ta được
tuyên xưng là người đại diện của Imam và là Bằng chứng sống ; với vai
trò người mang sự Sống lại (qiyama), ông ta là Qa’im, tức là 1 khuôn mặt chủ
đạo trong triết học mạt thế của phái Ismaili. Theo Rashid al-Din, sau
khi ra mặt công khai, Hasan cho lưu hành những bài viết trong đó ông ta nói
rằng, dù bên ngòai ông ta là cháu nội của Buzurgumid, nhưng trong thực tế
thần bí, ông ta là Imam đang sống, là con trai của vị Imam quá
cố thuộc dòng Nizar. Có vài người lý luận, có thể là Hasan không xưng mình
thuộc dòng dõi Nizar thực sự, vốn không còn mang ý nghĩa gì trong thời kỳ
Sống lại, nhưng là một dạng quan hệ dòng họ về mặt tinh thần. Quả thật đã
từng có các tiền lệ trong các phong trào cứu rỗi Hồi giáo buổi sơ kỳ với
những lời mạo nhận là con cháu của đấng Tiên tri về tinh thần hoặc được thừa
nhận. Tuy nhiên, truyền thống mới của phái Ismaili lúc này là nhất
trí xác nhận rằng Hasan và hậu duệ của ông này đều là thuộc dòng dõi đích
thực của Nizar, mặc dù đã có nhiều ý kiến khác nhau chung quanh sự tráo đổi.
Bản thân Hasan luôn được kính trọng, và được xưng tụng là Hasan ala
dhikrihi’I-salam - Hasan, cầu cho sự bình yên khi nhắc đến tên ngài ‘. Đa số nhóm Ismaili đều sẳn lòng chấp nhận hệ thống tôn giáo mới này.
Tuy nhiên có một số lại từ chối không muốn cởi bỏ cái ách của luật đạo, và
Hasan đã đưa ra những khổ hình hà khắc nhất để đặt để sự tự do. ‘ Nửa kín
đáo nửa công khai, Hasan tuyên bố là vào thời điểm áp dụng Luật đạo, nếu có
kẻ không tuân thủ và không thờ phụng vì cho rằng theo luật của sự Sống lại,
sự tuân phục và thờ phụng chỉ có tính tinh thần, hắn ta sẽ bị trừng phạt, bị
ném đá cho chết, còn vào thời điểm Sống lại, nếu có kẻ vẫn cứ vâng theo từng
câu chữ trong Luật đạo và tiếp tục thờ phụng và hành lễ thực sự, thì nhất
quyết hắn phải bị trừng phạt, bị ném đá cho đến chết. Trong số những người bất phục Hasan có anh vợ ông ta, xuất thân từ 1 dòng họ
quí tộc tại Daylam. Theo Juvayni, ông này là một trong những người mà mùi mộ
đạo từ tim xông ra đến tận lỗ mũi … Con người này không thể nào chịu nổi khi
thấy những điều lầm lạc đáng xấu hổ này cứ lan rộng. Cầu trời thương xót đến
ông ta và ban thưởng cho ý đồ tốt lành của ông ta !. Vào ngày chủ nhật, ngày
6 tháng Rabi’i, năm 561 (nhằm ngày 9 tháng giêng năm 1166) ông ta rút dao
đâm vào tên Hasan ma muội tại lâu đài Lamasar, và từ biệt cõi đời này để đi
vào " ngọn lửa ngời sáng của Thượng đế ". Kế vị Hasan là Muhammad, người con lớn mới 19 tuổi, người này tiếp tục xác
nhận là cha mình, và chính bản thân đều là hậu duệ của Nizar, hậu duệ của
các Imam. Muhammad được coi là một người viết khoẻ, và trong suốt
thời gian cai trị dài, giáo thuyết về sự Sống lại được phát triển và hòan
thiện - nhưng dường như chẳng mấy ảnh hưởng đối với thế giới bên ngòai. Điều
đáng chú ý là chi tiết lịch sử tòan bộ giai đọan Sống lại tại lâu đài Alamut
không hề được phái Sunni nhắc tới, và chỉ được biết sau khi lâu đài
Alamut bị phá hủy, khi các tài liệu của nhóm Ismaili lọt vào tay các
học giả Sunni. Về mặt chính trị cũng vậy, triều đại Muhammad không xảy ra biến cố lớn.
Chẳng có việc gì quan trọng ngoài việc lâu đài Alamut tiếp tục đột kích các
láng giềng và các fida’i ra tay giết chết vizier của Caliph tại
Baghdad. Rashid al-Din và các tác giả khác kể lại một câu chuyện liên quan
đến nhà thần học lớn của phái Sunni là Fakhr al-Din Razi. Trong các
bài giảng cho giáo sinh tại Rayy, Fakhr al-Din có dành riêng một phần nhằm
bài bác và đả kích nhóm Ismaili. Nghe tin, chúa công lâu đài Alamut
quyết định phải dẹp ngay việc này và và phái 1 tên fida’i tới Rayy. Đến nơi,
tên này đóng vai sinh viên, ghi tên theo học, và trong 7 tháng trời, ngày
nào anh ta cũng nghe Fakhr al-Din giảng bài, cho tới khi anh ta tìm được cơ
hội xin gặp riêng một mình với thầy để tranh cải một vấn đề hóc búa. Lập tức
tên fida’i rút dao ra dọa nhà thần học. Fakhr al-Din nhảy sang một bên, và
kêu :” Tên kia, ngươi làm gì thế?”. Tên fida’i trả lời :” Ta muốn phanh thây
Ngài, bởi vì Ngài đã chửi rũa chúng tôi trên bục giảng ". Sau một hồi vật
lộn, tên fida’i quật Fakhr al-Din xuống đất, ngồi lên ngực ông này. Nhà thần
học quá hỏang sợ và hứa sẽ hối lỗi, và trong tương lai sẽ thôi không công
kích nữa. Tên fida’i nghe theo, chấp nhận lời thề trọng của Fakhr al-Din là
sẽ chuộc lại lỗi lầm, rồi đưa ra một cái túi có chứa 365 đồng dinar vàng. Số
vàng này dùng để trả cho sự cam kết mỗi năm của ông ta. Từ đó về sau, trong
các bài giảng về các chi phái Hồi giáo, Fakhr al-Din đều cố tránh không dùng
những ngôn từ đụng chạm đến phái Ismaili. Có một học sinh nhận ra sự
thay đổi này, bèn hỏi rõ lý do. Vị giáo sư trả lời :” Không nên chữi rũa
phái Ismaili, bởi vì họ có những lập luận sắc bén và nặng cân.’ Câu
chuyện mang dáng vẻ một chuyện ngụ ngôn –nhưng ta cũng có thể nhận thấy là
trong các bài viết của mình, Fakhr al-Din Razi, trong khi không chấp nhận
các giáo thuyết của nhóm Ismaili, cũng tố cáo một nhà thần học nào đó
của phái Sunni khi ông này tìm cách bác bỏ các giáo thuyết của họ với
những lời lăng mạ đầy cuồng tín và không chính xác, và khen ngợi một nhà
thần học khác đã trích dẫn đúng đắn 1 văn bản của phái Ismaili. Dĩ
nhiên, quan điểm của Razi là không phải nhóm Ismaili đúng, nhưng sự
tranh luận về thần học phải dựa trên các thông tin đúng đắn và một sự thông
hiểu sâu sắc quan điểm của đối thủ. Vào thời điểm đó, có những thay đổi quan trọng về chính trị đã xảy ra tại
các miền đất phía đông của Hồi giáo. Chế độ Sultan vĩ đại dòng Seljuq,có lúc
đã gìn giữ được sự thống nhất và xác định lại mục đích của Hồi giáo dòng
Sunni, lúc này đang phân rã ; trên vùng đất này đang hình thành 1 kiểu
lãnh địa mới, do các vương tôn hoặc sĩ quan gốc Seljuq lập nên và ngày càng
có thêm những vùng đất như thế do các thủ lãnh các bộ lạc người Thổ du mục
từ miền Trung Á tiến vào vùng Trung đông qua nhiều đợt di cư liên tiếp. Lúc
này sự bành trướng của người Thổ về mặt lãnh thổ đã đến giới hạn ; cơ cấu đế
quốc của người Thổ của dòng Seljuq đang suy tàn - nhưng sự xâm nhập và chiếm
thuộc địa vẫn tiếp tục, bám rễ và củng cố những thành quả đạt được từ công
cuộc chinh phục. Những thay đổi về chế độ đã không mang lại những thay đổi
về bản chất ; các vương hầu kế tục nhận ra rằng tốt hơn hết nên duy trì
những thủ tục chính trị, quân sự và hành chính của triều Seljuq, kể cả việc
dựa vào tính chính thống tôn giáo. Đó đây, nơi nào người Thổ thưa thớt, thì
những nhóm dân địa phương, gốc Ba tư, Kurd hoặc Ả-rập lại ngóc đầu lên, và
giành được ít nhiều độc lập - nhưng cái chính vẫn là những thủ lãnh người
Thổ, dù bị chia rẻ bởi phe nhóm chính trị, nhưng vẫn cứ theo đuổi một mục
đích chung là bứng gốc và thay thế các quí tộc cũ tại địa phương. Về mặt này
họ đã đạt được nhiều thành công. Vào cuối thế kỷ 12, có 1 lực lượng mới trổi dậy tại phương Đông. Nằm về phía
nam Lý hải và đất của người Khorazm, cái nôi của 1 nền văn minh cổ, trù phú,
có sa mạc bao quanh bảo vệ khỏi những chấn động làm rung chuyển các nước
láng giềng. Cũng giống như phần lớn các nước vùng Trung Á, họ đã từng bị
người Thổ chiếm làm thuộc địa ; triều đại đang cai trị vốn có nguồn gốc từ 1
nô lệ người Thổ được Đại Sultan Malishak dòng Seljuq cử đến làm thủ hiến.
Những thủ lãnh này đã xây dựng cơ nghiệp, và hòa nhập vào bản sắc của địa
phương mà họ cai trị khi nhận tước hiệu địa phương cũ là Khorazmshah, tức là
Shah (vua) của vùng Khorazm - lúc đầu chỉ là chư hầu của các nước lớn, về
sau là các thủ lãnh độc lập. Lọt thỏm vào cái cảnh hỗn độn chung, thì vương
triều Khorazm phồn vinh và được vũ trang tốt quả là 1 nơi ẩn náu an tòan ;
và chẳng bao lâu sau, nhà vua cảm thấy cần phải mở rộng những phúc lợi từ
nền cai trị của mình sang các vùng đất và các dân tộc khác. Vào khỏang năm
1190, Vua Shah xứ Khorazm là Tekish chiếm lấy Khurasan, và trở thành chủ
nhân của vùng đông Ba-tư, và là 1 thế lực chính trong thế giới Hồi giáo. Vị
Caliph ở Baghdad là al-Nasir, bị Tughrul III - vua cuối cùng của dòng
Seljuq ở Iran, áp bức quá chịu hết thấu, mới nhờ Tekish giúp đỡ và thế là
tạo cơ hội cho quân đội Khorazm tiến về hướng tây chiếm lấy Rayy và Hamadan.
Chính tại Rayy, vào năm 1194, vị vua cuối cùng của dòng Seljuq đại bại và bị
giết. Trong suốt 1 thế kỷ rưỡi kể từ khi người Seljuq xuất hiện, chế độ Đại Sultan
mà họ thiết lập đã được thế giới Hồi giáo thừa nhận là 1 phần của cung cách
cai trị. Cái chết của vị vua Seljuq cuối cùng đã tạo nên 1 khỏang trống – và
vua Shah xứ Khorazm chiến thắng rõ ràng là người phù hợp cho chỗ trống đó.
Lúc này, Tekish gởi 1 thông điệp cho Caliph al –Nasir, yêu cầu ông
này công nhận ông ta là Sultan tại Baghdad. Tuy thế, al-Nasir lại có ý khác
– và Tekish, người từng hy vọng được chuyển vai trò từ đồng minh sang người
bảo vệ Caliph, giờ đây lại coi Caliph là kẻ thù. Kể từ khi al-Nasir lên nắm quyền vào năm 1180, chế độ Caliph của dòng
Abbasd đã hồi phục đáng kể. Trong hơn 3 thế kỷ, các Caliph chỉ là
những bù nhìn không hơn không kém - tuy là người đứng đầu danh nghĩa của Hồi
giáo phái Sunni, nhưng trên thực tế lại nằm dưới tay của các thủ lãnh
quân sự, các tiểu vương và cuối cùng là các Sultan. Sự sa sút quyền lực của
dòng Seljuq tại Iraq là cơ hội để cho al-Nazir nhanh tay nắm bắt. Ông ta bắn
một mũi tên nhằm 2 đích ; một là để phục hồi sự thống nhất đạo Hồi về mặt
tôn giáo và thẩm quyền đạo đức của Caliph với tư cách là người đứng
đầu, và hai là để thiết lập chế độ lãnh địa Caliph tại Iraq dưới sự
cai trị thực quyền của Caliph - một hình thức nhà nước của giáo hội,
không chịu sự kiểm sóat hoặc ảnh hưởng của bên ngòai, lấy đó làm cơ sở để
phục vụ các chính sách về tôn giáo của Caliph. Cái mục đích hạn hẹp
thứ 2, được ông ta theo đuổi bằng hành động quân sự và chính trị, nhằm chống
lại Tughrul và sau này là Tekish ; còn mục tiêu thứ 1 – có lẽ là mục tiêu
chính - là sự phục hưng Hồi giáo được đẩy mạnh bởi một lọat các sáng kiến
tôn giáo, xã hội và giáo dục, kể cả cách tiếp cận với cả 2 nhánh- phái Shi’a
thờ 12 Imam và phái Ismaili. Với phái Ismaili, ông ta
đã đạt được thành công đáng kinh ngạc. Vào ngày 1 tháng 9 năm 1210, Muhammad II- chúa công của lâu đài Alamut -
chết, có lẽ do bị đầu độc và con trai là Jalal al-Din Hasan kế vị. Ngay
trong lúc người cha còn sống, Hasan đã có những biểu hiện không hài lòng với
các giáo lý và thực hành trong qiyama (sự sống lại) và mong muốn có được một
tình huynh đệ lớn hơn trong thế giới Hồi giáo. Juvayni kể lại :’ ông ta được
người cha chỉ định làm thừa kế từ khi còn là đứa trẻ. Lớn lên, có trí khôn,
ông ta bác bỏ quan điểm của người cha, và cảm thấy chán ghét những lề thói
dị giáo và tính phóng đãng. Người cha đóan được những cảm nghĩ của người
con, và giữa họ nẩy sinh một kiểu hục hặc, ngừời này e dè và ngờ vực người
kia … Còn bây giờ thì Jalal al-Din Hasan, có thể vì tin vào tính chính thống
hoặc do chống với cha mình, cho nên âm mưu chống lại Muhammad và bí mật cử
người đến gặp Caliph ở Baghdad cùng các Sultan và thủ lãnh của các
địa phương khác, bảo với họ rằng, về đức tin ta là 1 người Hồi giáo, khác
với cha mình và khi nắm được quyền, ông ta sẽ triệt bỏ Dị giáo và quay trở
lại với sự tuân phục Hồi giáo. Khi cầm quyền, Jalal al-Din tuyên bố ngay là
theo Hồi giáo, và quở trách nặng nề đám bộ hạ gia nhập đám Dị giáo, và cấm
tuyệt không cho họ tiếp tục, buộc họ phải chấp nhận Hồi giáo và tuân thủ các
nghi thức ghi trong luật Shari’a. Ông ta phái sứ giả đến gặp Caliph
tại Baghdad, Muhammad vua Khorazmshah, các malik và các tiểu vương ở Iraq và
nhiều nơi khác để báo cho họ biết những thay đổi này ; do ông ta đã chuẩn bị
đường lối từ khi người cha còn sống, cho nên lúc tuyên bố địa vị của mình
cho họ biết, họ thảy đều tin vào lời ông ta, nhất là tại Baghdad, đã phát ra
1 chỉ dụ xác định sự trở lại đạo Hồi của ông ta, và ông ta nhận được mọi ưu
ái : rộng mở các mối giao lưu và dành nhiều tước hiệu tôn quí.. Ông ta được
gọi là Jalal al-Din, tín đồ Hồi giáo mới và các giáo đồ của ông đều được gọi
là tín đồ Hồi giáo mới trong thời ông ta cai trị. Các nhà tâm lý học cũng có
thể ghi nhận là trong khi khác hẵn với người cha về tính cách, Hasan dường
như gắn bó nhiều với người mẹ vốn là tín đồ mộ đạo phái Sunni. Còn tại Qazvin, dân chúng đương nhiên là có chút ít nghi ngờ về tính chân
thực của sự cải đạo này đã xảy ra với kẻ láng giềng thù nghịch cũ, và Jalal
al-Din đã phải bỏ nhiều công sức nhằm thuyết phục họ về sự thành thật của
mình. Ông ta trực tiếp gặp các nhân sĩ trong thành, và gợi ý họ gởi 1 phái
đòan đến lâu đài Alamut, rà sóat thư viện và bỏ đi những tác phẩm nào mà họ
không vừa ý kể cả những trứ tác của Hasan-i Sabbah và của tổ tiên cùng các
bậc tiền bối của Jalal al-Din Hasan. Juvayni kể lại : ’ theo ý của người
Qazvin, Jalal al-Din ra lệnh đem đốt những sách vở này ngay trước mặt họ ;
rồi ông ta xỉ vả và nguyền rủa các bậc cha ông nhà mình và những người đưa
ra tuyên truyền này. Chính tôi cũng được xem 1 lá thư do các nhân sĩ và vị
qadi của thành Qazvin đưa ra, viết theo lệnh của chính Jalal al-Din trong đó
ông ta công nhận đạo Hồi và chấp nhận những nghi thức của luật Shari’a và
cởi bỏ sự ràng buộc dị giáo và tín ngưỡng của các bậc tiền bối và tổ tiên
của mình. Và Jalal al-Din đã tự tay viết vài dòng lên trang đầu của bức thư
này và khi nhắc tới sự cởi bỏ khỏi tôn giáo của họ, chỗ nào gặp phải tên cha
và tổ tiên của mình, ông viết thêm lời nguyền rủa :’ cầu Trời đổ lửa xuống
mộ của họ ‘. Mẹ của Jalal al-Din đi hành hương vào năm 609 (tức là năm 1212-13 AD), tại
Baghdad bà ta được tiếp đãi hết sức trọng vọng. Rủi là chuyến đi đến Mecca
của bà ta lại trùng với vụ mưu sát người anh em chú bác của Sharif. Vị
Sharif, có bề ngoài rất giống với người anh em của mình, tin chắc rằng mình
mới là đối tượng ám sát, và cho rằng sát thủ là do chính vị Caliph
phái tới. Hết sức tức giận, ông ta tấn công và cướp bóc các khách hành hương
người Iraq, bắt họ phải nộp phạt rất nặng,nhưng phần lớn tiền phạt này là do
mẹ của Jalal của lâu đài Alamut bỏ ra. Mặc dù gặp chuyện không may này,
Jalal al-Din vẫn duy trì sự liên minh với các đồng đạo Hồi giáo ; ông ta trở
nên rất thân thiện với các thủ lãnh tại Arran và Azerbayjan, trao đổi tặng
vật và giúp đỡ nhau nhiều việc và liên kết lực lượng để chống kẻ thù chung
là thủ lãnh tại miền tây Ba tư. Vị Caliph còn giúp đỡ một việc khác nữa. ‘ sau khi lưu trú khỏang 1
năm tại Iraq, Arran và Azerbayjan, giờ đây Jalal al-Din quay về Alamut.
Trong các chuyến đi và khi lưu trú tại các nước này, ông ta đều xưng danh là
1 người Hồi giáo cho nên ông ta được nhiều người thừa nhận và người Hồi giáo
giờ đây quan hệ với ông ta tự do hơn. Ông ta hỏi cưới con gái của các vị
tiểu vương ở Gilan. Cũng dễ hiểu là các vị tiểu vương ngần ngừ không biết
nên chấp thuận hay từ chối những lời cầu hôn từ một chàng rể đáng gờm như
thế, cho nên họ thỏa thuận là chỉ đồng ý khi có phép của Caliph. Một
sứ giả từ Alamut được phái ngay đến Baghdad, và vị Caliph gởi một bức
thư ra lệnh cho các tiểu vương phải gả con gái cho Jalal al-Din " để cho phù
hợp với các luật lệ Hồi giáo ‘. Nhờ bức thư này, ông ta lấy luôn 4 công
nương xứ Gilan làm vợ, một người trong bọn họ có đặc ân là mang thai vị
Imam tương lai. Những phiêu lưu về mặt tôn giáo, quân sự và hôn ước của Jalal al-Din đã cho
thấy ông ta đạt được vị thế khá mạnh. Bằng cách ra 1 sắc chỉ cũng không kém
phần bất ngờ và đại khái hơn là sắc chỉ cho ra đời sự Sống lại, ông ta hủy
bỏ sắc chỉ này và phục hồi sự cai trị bằng lụât - và lại được chấp nhận tại
Quhistan và Syria cũng như tại Rudbar. Khi tham gia các chiến dịch quân sự,
ông ta rời Alamut, đó là điều mà các bậc tiền nhiệm chưa hề làm, và trong 1
năm rưỡi sống xa lâu đài đã không có rủi ro gì xảy ra. Thay vì phái các sát
thủ đi giết các quan chức và các nhà thần học, việc ông ta cử binh để chinh
phục các thành phố, các vùng đất và bỏ công xây dựng đền thờ, xây nhà tắm
tại các làng mạc và đã hòan tất việc chuyển đổi cứ địa của ông ta từ 1 hang
ổ các sát thủ thành 1 lãnh thổ đáng kính nễ, được nối kết bằng các liên minh
qua hôn nhân với các xứ láng giềng. Cũng giống như các chúa đất, Jalal al-Din hết lượt liên kết rồi cắt đứt liên
minh. Lúc đầu dường như ông ta giúp đỡ cho Khorazmshah và thậm chí đưa ra
bài kinh nguyện nhân danh ông này tại Rudbar. Sau đó ông ta chuyển sự trung
thành của mình sang Caliph, và giúp cho vị này nhiều việc, kể cả phá
vụ mưu sát do một tiểu vương nổi lọan, tìm cách chui vào hàng ngũ phục vụ
Khorazmshah, vụ mưu sát của Sharif tại Mecca. Về sau, ông ta nhanh chóng ra
tay và kết thân với một lực lượng đầy khủng khiếp mới đang trổi dậy tại
phương Đông. ‘ Họ (nhóm Ismaili) cho rằng khi Đại hãn Thành cát tư
hãn phát xuất từ Turkestan, trước khi đặt chân đến đất nước người đạo Hồi,
Jalal al-Din đã bí mật gởi sứ giả tìm đến yết kiến và dâng thư xin qui phục
và trung thành. Điều này do nhóm Dị giáo tố cáo, tuy thật hư chưa rõ, nhưng
việc sau đây thì rõ ràng hơn nhiều, đó là khi quân đội của Thành cát tư hãn
tiến vào đất nước người đạo Hồi, Jalal al-Din là thủ lãnh đầu tiên ở bờ bên
kia sông Oxus mau mắn gởi sứ giả và cống nạp để tỏ rõ lòng trung thành. Vào tháng 11 năm 1221, sau khi nắm quyền chỉ vỏn vẹn có 10 năm, Jalal al-Din
chết. "Jalal al-Din chết vì bệnh kiết lỵ, và người ta nghi ngờ rằng ông ta
bị mấy bà vợ của mình đánh thuốc độc với sự tiếp tay của bà chị và một số
người bà con của ông ta. Theo di chúc để lại, quyền quản lý lãnh địa và giám
hộ cho người con của ông ta là Ala al-Din được giao cho vizier. Ông này nghi
ngờ việc đầu độc cho nên đã đem giết nhiều bà con, người chị, các bà vợ và
kẻ thân cận của Jalal ‘. Sự phục hồi các qui định nghi thức và những hòa giải với nhóm chính thống và
với Caliph của Jalal al-Din đã được diễn giải theo nhiều cách khác
nhau. Theo Juvayni và các sử gia dòng Sunni tại Ba tư, đó là sự biểu
hiện của việc cải cải tà qui chính thực sự về tôn giáo - là lòng mong muốn
từ bỏ những niềm tin và đường lối xấu của các bậc tiền nhiệm, và đưa tín đồ
trở lại con đường chân chính đạo Hồi, con đường mà họ đã chệch hướng quá xa.
Bản thân vị Caliph dường như cũng cảm thấy hài lòng với đức tin tốt
đẹp của Hasan, và khi can thiệp để giúp cho ông ta cưới các công nương xứ
Gilan và dành cho bà mẹ ông này vị trí danh dự trong đoàn hành hương, cho
thấy những ưu ái trên mức cần có của 1 liên minh. Ngay cả những kẻ lắm ngờ
vực tại Qazvin cũng phải tin vào lòng chân thành của Jalal al-Din. 6 thế kỷ
sau dưới thời của Tể tướng Metternich ở Vienna, học giả Joseph von Hammer
lại có quan điểm khác vì ông ta không dễ tin như thế : " Vì vậy, gần như
chắc chắn, là sự cải tà qui chánh từ phái Ismaili sang Hồi giáo của
Jeladdin, được tuyên cáo ầm ĩ ở bên ngòai, và việc bội đạo công khai của ông
ta, chẳng qua chỉ là tính đạo đức giả và là 1 sách lược được chuẩn bị kỹ
càng, nhằm lấy lại lòng tin của dòng này, vốn đã bị các giáo sĩ nguyền rủa,
bị các vương hầu cấm đóan, vì các giáo thuyết của họ được công bố một cách
khinh suất, và nhằm chiếm cho cá nhân tước hiệu vương thân, tức là cao hơn
chức vụ một đại pháp sư. Cũng giống như các thầy tu dòng Tên khi bị nghị
viện doạ trục xuất, và giải tán theo sắc chỉ của Giáo hòang tại Vatican –
trước nguy cơ khắp nơi, các chính phủ, các nội các lên tiếng phản đối những
nguyên tắc về đạo đức và chính sách của họ - thì họ liền từ bỏ cái giáo
thuyết về việc giết vua và khởi lọan hợp pháp của họ mà đám biện sĩ cuả họ
thuận miệng nhắc tới, và công khai tố cáo các tín điều mà giữa họ với nhau
được coi là các luật lệ đích thực của dòng tu ‘. Đối với nhóm Ismaili cũng vậy, những thay đổi này cần được giải
thích. Nói cho cùng, họ không chỉ là 1 lãnh địa phải phục tùng thủ lãnh địa
phương, mặc dù đối với thế giới bên ngòai họ là như thế, họ lại càng không
phải là 1 băng đảng chỉ gồm những kẻ âm mưu và giết người. Họ là những giáo
đồ nhiệt thành của 1 tôn giáo, có 1 quá khứ đầy tự hào và một nhiệm vụ to
lớn – và cũng giống như mọi tín đồ chân chính khác, họ đều cảm thấy cần phải
bảo vệ nguyên vẹn tính chân chính những gì họ tin tưởng. Điều này đòi hỏi là
tất cả những thay đổi - từ luật đạo cho tới sự Sống lại, từ sự Sống lại cho
đến sự giả vờ theo hình thức Sunni, và cuối cùng quay trở lại phái
Ismaili nằm trong vòng luật giáo - tất cả đều phải có giá trị và ý nghĩa
tôn giáo. Người ta tìm ra được câu trả lời trong 2 nguyên tắc- trong giáo thuyết
Taqiya, sự che dấu của những niềm tin thực sự của một người khi gặp nguy
hiểm, và theo một quan niệm cũ của phái Ismaili về các thời kỳ đan
xen giữa che dấu và biểu lộ. Những nguyên tắc này tương ứng với các giai
đoạn đối phó với giáo luật bên ngòai và chân lý bên trong, mỗi thời kỳ như
thế được 1 Imam khai cơ mang đến 1 sứ mệnh mới. 1 tài liệu Ismaili
vào thế kỷ 13 cho biết:’ Thời kỳ của mỗi tiên tri rao giảng những hình thức
bên ngòai của luật thánh đươc gọi là thời kỳ che dấu, và thời kỳ của mỗi
Qa’im, người sở hữu những chân lý bên trong các giáo luật của các đấng tiên
tri, thì được gọi là qiyama (sự Sống lại) ‘. Một giai đọan che dấu mới bắt
đầu vào năm 1210, khi Jalal al-Din Hasan lên cầm quyền. Lần này không phải
chính các vị Imam ẩn thân như trong các giai đoạn che dấu trước, mà
chính là họ che dấu nhiệm vụ thực sự của họ. Khi chân lý bên trong bị che
dấu, thì sự chấp nhận hình thức tuân thủ giáo luật bên ngòai như thế nào
cũng không hề quan trọng. Khi Jalal al-Din chết, người con trai độc nhất mới 9 tuổi tên là Ala al-Din
Muhammad kế vị. Trong một thời gian khá dài vị vizier của Jalal al-Din là
thủ lãnh thực tế của lâu đài Alamut, và dường như ông này duy trì một đường
lối hòa hõan với thế giới Sunni. Tuy nhiên, có 1 phản ứng đang bắt
đầu nhen nhúm. Tại các lãnh địa Ismaili, luật thánh không còn được
tôn trọng, và thậm chí còn có báo cáo cho biết là bị ngăn cản cố ý. Juvayni
và các sử gia người Ba- tư cho rằng vị Imam mới tạo nên những thay
đổi trên :’ Hiện giờ, Ala al-Din chỉ là một đứa trẻ, không chút học vấn, bởi
vì theo niềm tin sai lạc của họ, …thì Imam về cơ bản là Imam,
dù có là 1 đứa trẻ nằm trong nôi, hoặc một thanh niên, hoặc 1 người lớn, và
bất cứ cái gì vị này nói hay làm …., thảy đều đúng cả. … Cho nên, bất cứ
đường lối nào mà Ala al-Din chọn, không phàm nhân nào được phép phản đối, và
… việc quản lý công việc lại do đàn bà quyết định, các nền móng mà người cha
ra công xây đắp giờ bị đạp đổ … nhưng ai đã từng chấp nhận luật Shari’a và
Hồi giáo do sợ người cha nhưng trong lòng dạ xấu xa và đầu óc đen tối của họ
vẫn còn tin tưởng vào tín điều độc ác của ông nội ông ta … khi thấy rằng
không ai ngăn trở họ phạm vào những tội lỗi bị cấm … họ lại quay về với cái
Dị giáo … và …khôi phục quyền lực …Những người còn lại…, những người chấp
nhận Hồi giáo vì lòng tin … lấy làm hỏang sợ … và … lại phải che dấu sự thực
họ là các giáo đồ Hồi giáo. … Sau khi cậu bé này cầm quyền được 5 hoặc 6 năm … thì mắc bệnh trầm uất. …
Không ai dám làm trái ý … người ta dấu đi tất cả các báo cáo trong và ngòai
lãnh địa...không có một cố vấn nào dám thốt 1 lời trước mặt cậu ta…. Cậu ta
để mặc cho việc trộm cắp, trấn lột và cướp bóc xảy ra hàng ngày trong lãnh
địa của mình ; và cho rằng mình có thể bỏ qua cho cách hành xử này bằng
những lời giả dối và ban tặng tiền bạc. Và khi tất cả sự việc vượt quá giới
hạn, thì cả cuộc đời, vợ con, nhà cửa, lãnh địa và tài sản đều bị cuốn hút
vào cơn điên lọan và mất trí này … Mặc dù với những khó khăn trên, vẫn còn các thủ lãnh có năng lực để lèo lái
công việc của giáo phái, và trong thời gian Ala al-Din cầm quyền có nhiều
hoạt động trí thức và chính trị. Một trong những nhiệm vụ - và vinh quang -
được thừa nhận của 1 thủ lãnh Hồi giáo là vai trò bảo trợ khoa học và học
thuật, và các Imam phái Ismaili không hề lạc hậu chút nào về
mặt này. Thư viện của lâu đài Alamut nổi danh - ngay cả Juvayni là người đố
kỵ mạnh cũng phải thừa nhận là mình có quan tâm đến thư viện này – và trong
giai đoạn đó, thư viện cũng lôi cuốn được một số học giả từ bên ngoài. Đứng
đầu trong nhóm là Nasir al-Din Tusi (1201-74) - triết gia, nhà thần học và
chiêm tinh gia - đã từng lưu lại ở đây nhiều năm trời. Vào thời gian đó, ông
theo nhóm Ismaili và thực tế đã viết ra một số tác phẩm mà đến nay
vẫn còn được coi là cặn kẻ về phái Ismaili. Về sau, ông ta xưng mình
thuộc phái thờ 12 Imam, tức là phái có chút ít sự gắn kết với phái
Ismaili. Vẫn còn chưa rõ phái nào có liên quan đến taqiyya (sự che dấu),
phái mà ông ta trung thành, hoặc cả 2. Trong những năm đầu dưới sự cai trị của Ala al-Din, tình hình tại Iran thuận
lợi cho sự bành trướng của nhóm Ismaili. Đế quốc Khorazm đã bị xé nát
khi quân Mông cổ xâm lăng, và trong lúc vị vua cuối cùng của đế quốc này,
Sultan Jahal al-Din, cố gắng vô vọng nhằm phục hưng đất nước tơi tả của
mình, thì người Ismaili đã thành công trong việc mở rộng lãnh thổ của
họ. Cũng trong khoảng thời gian này, họ chiếm lấy thành phố Damghan, gần
pháo đài Girdkuh, và công khai muốn chiếm lấy thành Rayy, nơi mà người
Khorazm đã ra lệnh tàn sát các da’i phái Ismaili vào năm 1222. Năm 1227, Sultan Jalal al -Din buộc nhóm Ismaili phải chấp nhận 1
cuộc hưu binh và đem cống nạp thành phố Damghan. Trước đó không lâu, một sĩ
quan Khorazm là Orkhan đã bị họ ám sát để trả đủa cho cuộc đột kích vào
trang trại của người Ismaili tại Quhistan ; Nasawi, người chép tiểu
sử của Jalal al –Din, vua Shah xứ Khorazm, vẽ ra 1 bức tranh sinh động như
thế này : " 3 tên fida’i xông vào tấn công Orkhan và giết ông này ở ngoại
thành. Sau đó chúng tiến vào thành phố, tay cầm dao, lớn tiếng hô tên Ala
al-Din, cho tới khi chúng đến cổng dinh của vị vizier Sharaf al- Mulk. Họ
xộc vào phủ thư ký, nhưng không tìm thấy ông này, bởi vì đúng lúc đó ông ta
đang ở tại lâu đài của Sultan. Họ làm bị thương 1 lao công rồi chạy vụt ra
ngoài, hô hào tập hợp và khoe khoang thắng lợi. Từ trên các mái nhà, dân
chúng hè nhau ném đá giết chết bọn họ. Còn chút hơi tàn, họ gắng hô to:’
Chúng ta xả thân vì chúa công Ala al-Din.” Chính vào thời điểm này, Badr al-Din Ahmad, đặc sứ của Alamut, đang trên
đường đi gặp Sultan. Khi nghe được những sự cố, đương nhiên là ông ta có
phần nào e ngại về buổi tiếp kiến, cho nên ông ta viết thư cho vị vizier xin
ý kiến là có nên tiếp tục chuyến đi họăc quay về. Vị vizier, do sợ bản thân
của mình bị liên luỵ, nên hồ hởi tiếp đặc sứ của nhóm Ismaili, hy
vọng rằng sự có mặt của ông này sẽ ‘ bảo đảm cho mình khỏi phải chịu cái số
phận đáng sợ và các chết kinh hãi đã xảy ra cho Orkhan’. Vì thế, ông ta dục
viên đặc sứ đến gặp mình và hứa làm tất cả để giúp hoàn thành sứ mạng. Rồi 2 người đi cùng nhau, vị vizier cố hết sức để lấy lòng ông khách đáng
gờm này. Tuy nhiên, tình bạn của họ bị ngăn trở vì 1 sự cố không may. ‘ Khi
đến đồng bằng Serat, trong 1 giây phút buông thả do say vì uống nhiều, Badr
al-Din nói : ’Ngay tại nơi này, trong đám lính tráng của ngài cũng có fida’i
của chúng tôi, từ lâu họ đã chui vào hàng ngũ của ngài, người thì giữ ngựa,
người thì phục vụ cho viên thị quan chính (pursuivant) của Sultan. Sharaf
al- Mulk cố nài đưa họ ra mắt và tặng ông này 1 chiếc khăn coi như dấu hiệu
bảo đảm an toàn (safe-conduct). Thế là, Badr al-Din Ahmad gọi 5 tên fida’i
tới, và khi đến, 1 tên người Ấn trong bọn nói với Sharaf al- Mulk một cách
xất xược :” Đúng ra là tôi đã giết ngài vào ngày giờ này tại chỗ này chỗ này
; nhưng tôi không làm vì chưa nhận lệnh phải xủ trí ngài”. Khi Sharaf al
-Mulk nghe những lời trên, ông ta cởi phắt áo choàng ra, chỉ mặc áo sơ mi,
rồi ngồi ngay trước mặt họ và nói :” Vì cớ gì ?. Ala al-Din muốn gì ở ta ?
Ta có tội lỗi hoặc thiếu sót gì mà ông ta muốn uống máu ta ? Ta chỉ là nô lệ
của Ala al –Din, là nô lệ của Sultan, đang ở trước mặt các ngươi đây. Muốn
làm gì ta thì cứ làm ". Sultan rất lấy làm tức giận khi biết được tình cảnh
khốn khó của Sharaf al -Mulk, lập tức truyền lệnh cho ông ta phải đem 5 tên
fida’i ra thiêu sống. Vị vizier xin tha cho chúng, nhưng vô ích, đành phải
thực hiện lệnh của Sultan :’ Ngay ở cửa lều một đống lửa to được nhóm lên,
và 5 tên kia bị quăng vào lửa. Khi bị thiêu, chúng cứ gào : ’ Bọn ta xả thân
vì chúa công Ala al-Din ", cho tới chết hẳn, xác cháy thành tro, bay tung
theo gió.’ Để chắc ăn, Sultan xử tử luôn viên thị quan chính vì tội tắc
trách. Chính mắt Nasawi chứng kiến kết cuộc.’ Một ngày nọ, khi tôi đang ở chỗ
Sharaf al- Mulk tại Bardha’a, có 1 đặc sứ tên là Salah al-Din từ Alamut tìm
đến và nói:” Ngài đã thiêu chết 5 fida’i của chúng tôi. Nếu muốn yên ổn,
ngài phải trả món nợ máu 10.000 đồng dinar cho mỗi người.”. Những lời này
làm cho Sharaf al- Mulk kinh hãi đến mức tê liệt suy nghĩ và hành động. Ông
ta tiếp đãi viên đặc sứ trọng hậu, biếu nhiều quà tặng và chiêu đãi tươm
tất, rồi lệnh cho tôi viết một công văn, trong đó xin giảm từ 10.000 dinar
mỗi người xuống còn 30.000 dinar là khoản cống nạp hàng năm mà họ có nhiệm
vụ nộp vào kho của Sultan. Sharaf al- Mulk đóng ấn vào văn kiện. Thỏa hiệp giữa Khorazmmshah và nhóm Ismaili tỏ ra không mấy tác dụng.
Những vụ cải cọ linh tinh với Sultan Jalal al-Din vẫn tiếp tục xảy ra, trong
khi đó nhóm Ismaili cứ quan hệ thân thiện với 2 kẻ thù chính của
người Khorazm – đó là Caliph ở phía Tây và bọn Mông cổ ở phía Đông.
Vào năm 1228, nhà ngọai giao Ismaili là Nadr al-Din vượt sông Oxus đi
về hướng đông tới triều đình Mông- cổ ; 1 thương đòan người Ismaili
trẩy hướng tây gồm 70 người bị người Khorazm chặn lại và tàn sát vì có 1 đặc
sứ Mông cổ cùng đi với họ để đến Anatolia. Sự hục hặc giữa nhóm Ismaili
và người Khorazm còn tiếp tục trong nhiều năm, có lúc được thổi bùng lên qua
các vụ giao tranh, ám sát hoặc thương thuyết. Nasawi có lần được cử theo 1 sứ đoàn đến Alamut để đòi thanh tóan đủ số cống
nạp phải nộp cho Damghan.Ông này mô tả nhiệm vụ của mình với đôi chút hài
lòng: ’ Ala al-Din biệt đãi tôi so với những đặc sứ khác của Sultan, tiếp
đãi hết sức trọng thị và hào phóng. Ngài đối xử tử tế, và 2 lần tặng tôi quà
và áo bào. Ngài bảo :’ Ngươi là người đáng kính. Rộng rãi với 1 con người
như thế không bao giờ phí phạm ". Giá trị của những thứ ban cho tôi, tính
bằng tiền mặt và hàng hóa, gần đến 3000 đồng dinar, ‘ gồm có 2 áo bào, 1
chíếc là áo chòang satanh, 1 mũ trùm đầu, một mũ dạ và áo chòang không tay,
một chiếc áo có lót satanh và chiếc kia lót nhiễu Trung quốc ; 2 thắt lưng
giá 200 đồng dinar, 70 mảnh vải ; 2 con ngựa với yên cương và núm yên ngựa ;
1000 đồng dinar vàng, 4 con ngựa có tấm phủ lưng ; một đàn lạc đà xứ Bactria
; và 30 áo bào cho đám tùy tùng. Nói không ngoa, rõ ràng là chúa công Alamut
đã được thế giới này cống nạp khá nhiều món ngon vật tốt. Việc tranh chấp với Khorazmshah không phải là điều quan tâm duy nhất của
nhóm Ismaili. Ở gần thì họ giở trò đánh đấm với các thủ lãnh ở Gilan,
nơi mà không thể nào cải thiện được mối quan hệ vì đã giết vô cớ mấy công
nương xứ Gilan sau cái chết của Jalal al-Din Hasan ; có lúc nhóm Ismaili
chiếm thêm một số đất đai của xứ Gilan, gần Tarim. Ngược lại, mối giao hảo
với các cựu thù tại Qazvin lại tương đối êm ắng. Có một chuyện khá ngạc
nhiên là Ala al-Din Muhammad, lại là 1 đệ tử thuần thành của 1 vị Shayk tại
Qazvin ; mỗi năm tặng cho ông này 1 khoản gồm 500 đồng dinar vàng để cho vị
này chi dụng thức ăn, thức uống. Khi người dân Qazvin trách cứ vị Shayk đã
sống bằng tiền của kẻ dị giáo, ông này trả lời: " Nếu Đấng Imam cho
rằng hợp pháp khi lấy máu và tiền của bọn dị giáo ; thì lại càng hợp pháp
gấp đôi khi bọn chúng tự nguyện cống nạp ". Ala al-Din cho dân chúng thành
Qazvin biết sở dĩ ông ta không đụng đến thành này là vì có vị Shaykh ở đó. "
Nếu không vì vị, ta sẽ biến Qazvin thành tro bụi rồi bỏ vào thúng để mang về
Alamut”. Tuy đứng ra gây chiến tranh, đột kích, ám sát, nhưng nhóm Ismaili
không quên mục đích hàng đầu của họ là giảng đạo và cải đạo, và cũng vào
thời điểm đó họ đạt được một trong những thành công quan trọng khi cấy được
tín ngưỡng của họ vào vùng đất Ấn độ. Nhiều thế hệ qua, giáo lý cũ của nhóm
Ismaili theo Musta’l đã cắm chắc rễ tại Ấn độ nhất là vùng bờ biển
Gujerati ; giờ đây một phái bộ truyền giáo từ Iran triển khai " giáo lý mới
" của phái Nizari vào tiểu lục địa Ấn độ, nơi sẽ trở thành 1 trung tâm chính
của phái này. Juvayni và các sử gia dòng Sunni Ba tư khác đã đưa ra 1 bức tranh rất
thù nghịch về Ala al-Din Muhammad, dưới hình ảnh một người nát rượu dễ bị
những cơn sầu chán và giận dữ. Trong những năm cuối đời, ông ta lại hục hặc
với người con cả là Rukn al-Din Khurshah, vốn đã được ông ta chỉ định làm
Imam từ khi còn rất bé. Về sau, ông ta tìm cách huỷ bỏ sự chỉ định này
và cử một người con trai khác, nhưng nhóm Ismaili " dựa theo giáo lý,
từ chối công nhận điều này và cho rằng chỉ có lần chỉ định đầu tiên mới có
giá trị ". Sự hục hặc giữa cha và con đưa đến cảnh khủng hoảng vào năm 1255. Vào năm
này, cơn điên của Ala al-Din trở nên nặng hơn và… căm ghét đối với Rukn al
–Din nhiều hơn … Rukn al –Din cảm thấy mạng sống của mình không an toàn … và
vì vậy ông ta tính chuyện bỏ trốn, chạy đến các lâu đài ở Syria, tìm cách
chiếm lấy một cái, nếu không được thì chiếm lấy Alamut, Maymundiz và một vài
lâu đài khác tại Rudbar, nơi có nhiều kho tàng và đá quí … rồi khởi loạn …
Phần lớn các quan chức thuộc lãnh địa của Ala al-Din đều ái ngại cho người
con, bởi vì không biết điều gì sẽ xảy ra cho cái mạng của người này. Ruhn al-Din đưa ra 1 lập luận như sau để thăm dò. Ông ta cho rằng " do tính
tình hiểm ác của cha ta nên quân đội Mông cổ mới có ý tấn công lãnh địa, còn
cha ta thì chẳng quan tâm đến cái gì cả. Ta sẽ li khai và cử sứ giả gặp
Hoàng đế trên mặt đất (Hãn Mông cổ) và đến yết kiến tại triều đình để xin
thần phục và bày tỏ lòng trung thành. Và từ rày về sau, ta sẽ không cho phép
bất cứ kẻ nào trong lãnh địa của ta được phạm 1 hành động sai trái [ và để
bảo đảm ] cho dân chúng trong vùng sống sót yên ổn ”. Với khẳng định này, các thủ lãnh Ismaili nhất trí ủng hộ Ruhn al-Din,
thậm chí còn chống lại người của cha ông này ; nhưng có một điều mà họ chưa
làm là không ra mặt chống đối đích danh Ala al-Din. Vị Imam, ngay cả
khi điên loạn, vẫn còn mang tính thiêng liêng, đụng tới ông ta tức là báng
bổ, là phản bội. Thật là may mắn cho nhóm Ismaili - hoặc cho một số ít người trong bọn
họ - là không cần phải đi đến 1 lựa chọn khủng khiếp như thế. Khoảng 1 tháng
sau thoả hiệp đó, Ruhn al-Din đổ bệnh và thoi thóp trên giường bệnh. Khi
Ruhn nằm liệt giường, thì người cha, Ala al –Din, theo Juvayni, đã bị 1 kẻ
không rõ danh tính ám sát trong khi ngủ mê mệt vì say bí tỉ.. Việc này xảy
ra vào ngày 1 tháng chạp năm 1255. Việc ám sát một thủ lãnh của nhóm sát thủ
ngay tại hang ổ của ông ta đã dấy lên nhiều điều nghi ngờ và cáo buộc. Một
số người hầu của vị Imam quá cố bị bắt gặp gần nơi án mạng đều bị đem
ra giết và người ta còn cho rằng 1 nhóm các kẻ thân tín đã âm mưu chống lại
Ala và đã đưa người bên ngoài từ Qazvin đến Alamut để thực hiện âm mưu này.
Cuối cùng, họ nhất trí về thủ phạm như sau :’ Qua một tuần, căn cứ các dấu
hiệu và chỉ điểm rõ ràng, tất cả nhất trí là Hasan của xứ Mazandaran, là kẻ
kề cận sủng ái ngày đêm không hề xa lìa một bước, người giữ tất cả những bí
mật của Ala al-Din, đã ra tay hạ sát Ala. Có người cho rằng vợ của Hasan,
vốn là nhân tình của Ala al-Din, đã báo cho Ruhn al-Din các bí mật liên quan
đến ám sát mà Hasan thổ lộ cho vợ biết. Rồi điều phải đến đã đến 1 tuần sau
đó, Hasan bị kết tội chết, xác bị đốt, con cái, gồm 2 gái và 1 trai, cũng bị
đốt ; và Ruhn al –Din thay mặt cha cai trị lâu đài ". Trong những năm cuối của triều đại Ala al-Din, nhóm Ismaili ngày càng
phải đối đầu với kẻ thù khủng khiếp nhất trong tất cả các kẻ thù của họ -
giặc Mông cổ. Vào năm 1218, các đội quân của Thành Cát Tư Hãn, thủ lãnh của
1 Đế quốc mới đang hình thành tại phía Đông châu Á, đã tiến đến bờ sông
Jaxartes, kế cận với vùng Khorazmshah.Chẳng bao lâu, một vụ việc xung đột
biên giới được coi là cái cớ để đưa quân tiến về hướng tây. Vào năm 1219,
Thành Cát Tư Hãn dẫn quân vượt sông Jaxartes tiến vào vùng đất của người
Hồi. Năm 1220, ông ta đánh chiếm các thành phố Hồi giáo cổ như Samarqand và
Bukhara,và tiến về phía sông Oxus ; và năm sau, vượt sông Oxus, chiếm lấy
thành Balkh, Merv và Nishapur, và thống lãnh toàn bộ miền đông Iran. Cái
chết của Thành Cát Tư Hãn vào năm 1227 chỉ làm chậm bước tiến trong một thời
gian ngắn. Vào năm 1230 người kế vị tung ra 1 đợt tấn công mới vào xứ
Khorazmshah rệu rã ; và vào năm 1240, quân Mông cổ đã tràn qua miền tây
Iran, tấn công Gruzia, Armenia và phía bắc vùng Lưỡng hà. Đợt tấn công cuối cùng xảy ra vào giữa thế kỷ 13. Từ Mông cổ, Đại Hãn sai
người em là Hulegu -tức là cháu nội Thành Cát Tư Hãn -, chỉ huy một đợt viễn
chinh mới với mệnh lệnh là chiếm lấy tất cả các vùng đất Hồi giáo đến tận Ai
cập. Chỉ trong vòng vài tháng, các kỵ sĩ tóc dài người Mông cổ đã dẫm nát
Iran, phá tan mọi chướng ngại và vào tháng giêng năm 1258, tất cả các mũi
giáp công vào thành Baghdad. Vị Caliph cuối cùng sau một hồi cố gắng
chống trả vô vọng, đành phải cố xin được miễn tội chết. Các chiến binh Mông
cổ tràn vào thành, tha hồ cướp bóc, đốt phá và vào ngày 20 tháng 2,Vị
Caliph bị giết cùng với tất cả gia đình. Sau 500 năm là thủ lãnh danh
nghĩa của phái Hồi giáo Sunni, dòng Abbas đến đây là chấm dứt. Các Imam của lâu đài Alamut, cũng giống như các thủ lãnh Hồi giáo
cùng thời, không hề ngờ nghệt khi đối đầu với đám ngoại đạo Mông cổ tấn công
vào Hồi giáo. Vì đang tranh chấp với Khorazmshah, cho nên Vị Caliph
al – Nasir không thấy bực mình chút nào với sự xuất hiện của 1 kẻ thù mới,
đầy nguy hiểm lấp ló từ phía xa của đế quốc Khorazm - và đồng minh của ông
ta, Imam Jalal al-Din Hasan, là một trong những người đầu tiên gởi
thư tỏ bày thiện chí đối với Đại Hãn. Thật ra, có lúc nhóm Ismaili
cũng tỏ vẻ đoàn kết với các láng giềng Sunni để chống lại mối đe doạ
mới. Khi Thành Cát Tư Hãn chinh phục miền đông Iran, thủ lãnh Ismaili
tại Quhistan niềm nở cho nhóm dân Sunni vào tị nạn tại các pháo đài
trên núi của ông ta. Khi nói về thủ lãnh Ismaili tại Quhistan, một du
khách Hồi giáo kể lại :’ Tôi thấy ông ta là một người có học vấn sâu rộng …
khôn ngoan, rành về khoa học, triết học ; ở cái xứ Khurasan này không có mấy
người như ông ta xét về mặt triết gia và hiền nhân. Ông ta thưòng cưu mang
các lữ khách, người phương xa nghèo khó ; và người Hồi giáo nào ở Khurasan
có dịp kề cận đều được ông ta che chở. Vì thế, ông ta tập hợp được một số
học giả Hồi giáo xuất sắc nhất tại Khurasan … ông ta đối đãi họ trọng thị và
tỏ ra rất tử tế. Về mặt này, họ cho biết là trong 2 hoặc 3 năm đầu của thời
kỳ hỗn loạn tại Khurasan, các học giả và khách qua đường đã nhận được một
ngàn bộ quần áo, 700 con ngựa có đủ yên cương lấy từ kho lẫm của thủ lãnh.
Làm được như thế cho thấy các tụ điểm Ismaili chưa bị quân Mông cổ
tấn công, và chẳng bao lâu Alamut nghe được lời than phiền của dân chúng về
tính hào phóng của ông ta, những người này đòi hỏi – và được giải quyết - là
1 người quản trị không nên phung phí tiền bạc của nhóm Ismaili cho
người ngoài. Sử gia Minhaj-i Siraj Juzjani, đã từng phục vụ cho các thủ lãnh
vùng Sistan, đã 3 lần viếng các tụ điểm của nhóm Ismaili tại Quhistan
- trong những lần công cán ngoại giao nhằm mở lại các con đường giao dịch và
1 lần đi mua sắm, để mua " quần áo và những thứ cần dùng khác ", những thứ
đã bắt đầu hiếm tại miền đông Iran " vì sự tấn công của quân ngoại đạo ". Rõ
ràng là nhóm Ismaili tại Quhistan có lợi thế vì chưa bị tấn công. Bất cứ sự thoả thuận nào giữa nhóm Ismaili và quân Mông cổ, nếu có,
đều không lâu bền. Các ông chủ mới của châu Á không thể chịu được tình trạng
cứ mãi độc lập của đám tín đồ đầy nguy hiểm và hiếu chiến này - và trong đám
chiến binh của họ cũng không thiếu những tín đồ Hồi giáo mộ đạo nhắc nhở cho
họ biết về mối nguy hiểm của đám Ismaili. Có người nói rằng, Vị Qadi
chính tại Qazvin khi diện kiến Đại Hãn phải mang 1 áo giáp, và giải thích
rằng phải làm như vậy vì lúc nào cũng có nguy cơ bị ám sát. Lời cảnh báo không hề thừa. Sứ thần Ismaili đi dự Đại Hội tại Mông cổ
bị đuổi về, và viên tướng Mông cổ tại Iran báo cho Đại Hãn biết rằng 2 kẻ
thù cứng cổ nhất của Ngài là Caliph và nhóm Ismaili. Tại
Karalorum, các biện pháp được triển khai để bảo vệ Đại Hãn tránh khỏi những
cuộc tấn công do các đặc nhiệm Ismaili. Khi Hulegu dẫn quân chinh
phạt đến Iran vào năm 1256, thì mục tiêu đầu tiên của ông ta là các lâu đài
của nhóm Ismaili. Thậm chí trước khi đến nơi, quân Mông cổ tại Iran, có sự tiếp tay của Hồi
giáo đã tung các cuộc tấn công vào các cứ điểm Ismaili tại Rudbar và
Quhistan, nhưng chỉ đạt được một số thành công hạn chế. Mũi tiến công vào
Quhistan bị đẩy lùi vì nhóm Ismaili phản công, còn vụ đột kích vào
pháo đài lớn tại Girdkhu thì thất bại hoàn toàn. Khi cố thủ trong lâu đài,
nhóm Ismaili có được lợi thế là có thể cầm cự lâu dài với các đợt tấn
công của quân Mông - nhưng vị Imam mới lại có quyết định khác. Một trong những vấn đề mà Ruhn al – Din Khurshah không cùng ý với cha mình
là chống lại hoặc cộng tác với quân Mông cổ. Khi lên nắm quyền, Ruhn ra sức
hoà hoãn với các nước Hồi giáo láng giềng ; ‘ không giống như người cha, ông
ta bắt đầu xây dựng nền móng thân hữu với những nước này. Ông ta cũng gởi sứ
giả đến khắp các tỉnh ra lệnh người dân phải hành sử đúng tư cách người Hồi
giáo và giữ cho giao thương thông suốt.” Sau khi bảo vệ được vị trí của mình
trong nước, ông ta gởi 1 sứ giả đến gặp chỉ huy quân Mông cổ tại Hamadan là
Yasa’ur Noyan, mang theo các chỉ thị là rằng khi cờ tới tay, ông ta sẽ hết
lòng tuân phục và sẽ cạo sạch lớp bụi bất mãn ra khỏi sắc mặt trung thành . Yasa’ur khuyên Ruhn al-Din đích thân đến thần phục Hulegu và vị Imam
phái Ismaili hoà hoãn bằng cách cử người em là Shahanshah đi thay.
Quân Mông cổ thử đưa quân vào Rudbar, nhưng lại bị nhóm Ismaili cố
thủ trong các vị trí hiểm yếu đẩy lùi, cho nên chúng chỉ đốt phá mùa màng
rồi rút lui. Trong khi đó, những cánh quân Mông khác lại tấn công vùng
Quhistan và chiếm được nhiều trung tâm Ismaili. Hài lòng vì gặp được Shahanshah, giờ đây Hulegu lại gởi đến 1 sứ điệp mới.
Chính bản thân Ruhk al -Din không mắc lỗi gì ; nếu ông ta phá bỏ các lâu
đài, đích thân đến xin thần phục, thì quân đội Mông cổ sẽ tha cho lãnh địa
của ông ta. Vị Imam kéo dài thời gian. Ông ta cho triệt hạ một số lâu
đài, nhưng với Alamut, Maymundiz và Lamasar, chỉ cho tháo dỡ tượng trưng, và
xin hoãn lại một năm sau mới đến chầu. Cùng lúc đó, ông ta gởi lệnh đến các
thủ hiến tại Girdkuh và Quhistan " đích thân đến trình diện trước nhà vua và
bày tỏ lòng trung thành và sự tuân phục của mình ‘. Điều này thì họ làm -
nhưng lâu đài ở Girdkuh vẫn nằm trong tay nhóm Ismaili. Hulegu lại
gởi 1 thông báo cho Ruhn al-Din yêu cầu phải đến chầu tại Damavand lập tức.
Nếu trong vòng 5 ngày mà chưa đến đó được, thì Ruhn phải gởi con mình đến đó
trước. Ruhn al-Din gởi đứa con trai đến - thằng bé mới 7 tuổi. Hulegu, có lẽ nghi
ngờ rằng đây không phải là đứa con thực sự của Ruhn, cho nên trả về với lý
do là cậu này còn bé quá, và gợi ý Ruhn nên cử 1 người anh em khác để thế
thân cho Shahanshah. Trong lúc quân Mông cổ tiến gần đến Rudbar, và khi sứ
giả của Rukn al –Din gặp được Hulegu, thì quân Mông phát hiện là Rukn chỉ
còn có 3 ngày để cất bước. Quân Mông cổ giáng 1 tối hậu thư :’ Nếu Rukn
al-Din phá bỏ lâu đài Maymundiz và đích thân đến chầu Hoàng đế, thì ông ta
sẽ được tiếp đãi tử tế và trân trọng phù hợp với đức khoan dung của người ;
còn nếu ông ta không nhận ra hậu quả hành động của mình, chỉ có trời mới
biết được việc gì sẽ xảy ra cho ông ta.’ Cùng lúc, quân Mông cổ vào được
Rudbar và chia quân bố trí chung quanh các lâu đài. Đích thân Hulegu chỉ đạo
vây hãm Myamundiz, nơi Rukn al-Din đang trú ngụ. Dường như trong nhóm Ismaili không thống nhất ý kiến, người thì cho
rằng khôn ngoan thì nên đầu hàng và cố gắng tranh thủ Hulegu được chừng nào
hay chừng nấy, người thì muốn chiến đấu đến cùng. Rukn al-Din rõ ràng là
chọn ý thứ nhất, và theo đuổi chính sách này hẳn nhiên là theo lời khuyên
của một số cố vấn như nhà chiêm tinh Nasir al- Din Tusi, người ôm hy vọng -
và cũng có lý do - là sau khi đầu hàng, mình sẽ có cơ hội kết thân với quân
Mông cổ và biết đâu sẽ vớ được chút ít sự nghiệp mới. Có người còn nói rằng
chính Tusi đã khuyên vị Imam đầu hàng vì các ngôi sao báo hiệu điềm
xấu – Tusi cũng là đặc sứ cuối cùng của Rukn al-Din rời lâu đài Maymundiz
đến doanh trại của quân hãm thành để thương thuyết việc đầu hàng. Hulegu
đồng ý tiếp nhận Rukn al-Din, gia đình, tuỳ tùng và tài sản. Như Juvayni ghi
nhận ;‘ ông ta… cống nạp tài sản để tỏ lòng trung thành. Tài sản này không
lớn như lời đồn, nhưng mà cũng gần như thế, tất cả đều được đem ra khỏi lâu
đài. Hoàng đế đem phần lớn tài sản này phân phát cho quân đội của mình ‘.
Rukn al-Din được Hulegu tiếp đãi tử tế, thậm chí còn chìu theo những sở
thích cá nhân của ông này nữa. Ông ta được tặng 100 lạc đà cái tốt vì bản
thân thích lạc đà xứ Bactria. Món quà này cũng chưa đủ ; Rukn al-Din còn
thích chọi lạc đà, và không chờ được đến khi chúng đẻ, ông ta đã sung công
trước 30 lạc đà đực. Một đặc ân khác đáng chú ý hơn là ông ta được phép cưới
1 cô gái Mông cổ, người mà ông ta đâm lòng yêu và úp mở tuyên bố sẵn lòng
nhường lại lãnh địa của mình. Hulegu có lý do để quan tâm đến Rukn. Nhóm Ismaili vẫn còn giữ một số
lâu đài, và có thể còn gây ra lắm phiền phức. Lời khuyên họ ra đầu hàng của
vị Imam của nhóm Ismaili là 1 món hàng đáng giá đối với triều
đình Mông cổ. Gia đình, đầy tớ tư trang và gia súc của vị này tất cả đều còn
ở tại Qazvin ( những lời nhận xét của dân thành Qazvin không được ghi lại),
và chính ông ta cũng tháp tùng Hulegu trong các cuộc chinh phạt sau này. Rukn al-Din cố giữ lấy thân. Theo lệnh ông ta, phần lớn các pháo đài tại
Rudbar, gần Girdkhh và tại Quhistan đều qui hàng, giúp cho quân Mông cổ khỏi
phải tốn những chí phí khổng lồ và những rủi ro khi bao vây và tiến công. Có
đến 100 pháo đài - chắc chắn là phóng đại. Có 2 pháo đài mà chỉ huy không
chịu đầu hàng, không theo lệnh của chính vị Imam - có lẽ do họ tin
rằng ông ta làm thế là vì bị ép. Đó là pháo đài Alamut và Lamasar, 2 căn cứ
lớn tại vùng Rudbar. Quân đội Mông cổ bao vây cả 2, và sau một vài ngày thì
chỉ huy pháo đài đổi ý. ‘ nhìn thấy những hậu quả của vấn đề và sự rủi may
của số phần, phía quân đội cử 1 sứ giả đến xin tha mạng và xin giảm tội.
Ruhn al –Din cũng lên tiếng xin dùm và Hòang đế sẳn lòng bỏ qua các lỗi lầm
của họ. Vào vào cuối tháng Dhu’l –Qa’da (bắt đầu vào tháng 12 năm 12561256),
tòan bộ phe đảng của cái đám vô luân và cái tổ của Satan ấy mang vác tất cả
các hàng hóa và của cải xuống núi. 3 ngày sau quân đội mới trèo lên lâu đài
và tịch thu tất cả những thứ sót lại do chúng không thể mang theo được. Họ
phóng tay đốt rụi nhiều tòa nhà, san bằng mọi thứ và biến tất cả thành bụi
bay trong gió . Lamasar cầm cự cho đến năm sau, và cuối cùng đến năm 1258
phải đầu hàng quân Mông cổ. Tại Girdkuh, nhóm Ismaili không thèm tuân
lệnh Rukn al-Din, cố giữ pháo đài, mãi đến mấy năm sau sau đó mới chịu khuất
phục. Do hầu hết các lâu đài chịu đầu hàng, cho nên Rukn al-Din không còn tác dụng
đối với quân Mông nữa ; việc các thành phố Lamasar và Girdkuh chống trả
chứng tỏ rằng ông ta chẳng còn ích lợi gì. Các sĩ quan Mông cổ tại Qazvin
nhận được lệnh phải giết cả gia đình và tùy tùng của Imam ; còn chính
vị Imam, theo lời đề nghị của ông ta, phải đi đến kinh đô Mông cổ tại
Karakorum để chầu, nhưng Đại Hãn lại không cho gặp. Đại hãn nói ”Không cần
phải dẫn ông ta đi quá xa như thế, bởi vì luật lệ của ta đã rõ.’ Hãy dẫn
Rukn al-Din quay lại, cho hắn thấy các lâu đài còn lại đều đầu hàng và bị
phá bỏ ; lúc ấy hắn mới được phép đầu hàng. Trên thực tế, ông ta không hề có
cơ hội ấy. Trên đường quay về Ba-tư, đến chân rặng núi Khangay, ông ta được
dẫn vào đường rẽ nói là để đi dự tiệc rồi bị giết.’ Ông ta và bọn tùy tùng
bị đá cho đến khi mềm như bún rồi bị băm nát bằng kiếm, sau đó mọi vết tích
bị thủ tiêu, và còn lại chăng chỉ là lời cuả người đời nhắc nhiều lần câu
chuyện của ông ta và đồng bọn mà thôi ‘. Việc tiêu diệt nhóm Ismaili tại Ba-tư không hòan tòan suôn sẻ như lời
Juvayni. Các đồng đảng cho rằng, khi Rukn al-Din chết, người con kế vị và
duy trì một chuỗi các Imam, mà cuối cùng là dòng họ Aga Khan xuất
hiện vào thế kỷ 19. Nhóm Ismaili vẫn còn họat động trong một thời
gian nữa, và thậm chí vào năm 1275 họ còn chiếm lại Alamut trong một thời
gian ngắn. Tuy nhiên, chính nghĩa của họ không còn, và kể từ đó trở đi họ
chỉ tồn tại như là 1 chi phái nhỏ tại các vùng nói tiếng Ba-tư, phân tán ở
miền đông Ba-tư, Afghanistan và phần Trung Á thuộc Liên xô cũ. Tại Rudbar,
họ không còn tăm dạng. Sự tàn phá Alamut, và kết cục nhục nhã của thế lực Ismaili, đã được
Juvayni mô tả một cách sống động.’ Trong hang ổ Alamut tại Rudbar của bọn tà
giáo, sào huyệt của lũ giáo đồ tội lỗi của Hasan-i Sabbah… không 1 viên đá
nào được giữ nguyên tại chỗ. Và tại nơi chưá chấp cái cải biến một thời phồn
thịnh này, Đấng Hóa công Vĩnh cữu đã dùng cây bút bạo lực viết lên từng cánh
cổng mỗi ngôi nhà câu thơ sau:” Trong những ngôi nhà vắng vẻ này chỉ toàn là
đổ nát trống rỗng " [ Qur’an, xxvii,53]. Và tại chốn mua bán trong lãnh địa
của những kẻ khốn khổ này, thầy tu báo giờ cầu nguyện (muezzin) có tên Định
mệnh lớn tiếng rao " Hãy tránh xa những kẻ độc ác !”. " [ Qur’an,
xxviii,43]. Đám phụ nữ bạc phước của họ, cũng giống như tôn giáo trống rỗng
của họ, đều bị giết sạch. Và vàng của những kẻ điên khùng, lừa bịp 2 mặt này
bên ngòai có vẻ như là vàng ròng nhưng thực ra chỉ là chì mà thôi. ‘ Ngày nay, nhờ cơ đồ rực rỡ của đức Hòang đế anh minh, nếu còn tên sát thủ
nào lảng vảng tại nơi hoang vu hẻo lánh, thì hắn chỉ chăm chú công việc của
đám đàn bà ; chỗ nào mà còn tên da’i tức là còn điềm chết chóc, và hãy bắt
hết bọn rafiq làm nô lệ. Những kẻ tuyên giảng giáo lý Ismaili sẽ đền
tội dưới lưỡi kiếm của Hồi giáo …Các bậc vua chúa người Hy lạp, người Frank,
đã từng hết vía sợ đám người đáng nguyền rũa này, cam chịu nhục khi cống nạp
cho họ, giờ đây có thể yên tâm kê gối cao mà ngủ. Và thảy các con dân của
thế giới này, nhất là các tín đồ mộ đạo, đã được giải thóat khỏi những mưu
toan xấu xa và những niềm tin uế tạp. Không những thế, tòan thể nhân lọai,
sang hèn, cao thấp, đều chia sẻ niềm vui này. Câu chuyện của Rustam con của
Dastan chỉ là một chuyện ngụ ngôn cổ tích khi đem so sánh với những việc
này’ ‘ Thế là thế giới từng bị ô uế bởi cái xấu nay đã được cạo rửa sạch sẻ.
Khách lữ hành từ giờ trở đi sẽ tha hồ đi lại mà không phải lo sợ, không phải
nộp tiền lộ phí, sẽ cầu nguyện cho công đức (còn tiếp tục) của đức vua nhân
từ người đã nhổ sạch gốc rễ bọn chúng. Thật vậy, hành động này là tiên đơn
chữa các vết thương đạo Hồi và chữa lành những hỗn lọan về đức tin. Hãy để
cho những kẻ hậu sinh biết được mối nguy hại mà bọn chúng đã gây ra, sự hỗn
loạn mà chhúng gieo vào lòng người. Ai đã từng hòa hõan với họ, dù là vua
chúa thời trước hoặc các nguyên thủ hiện thời, đều run sợ lo cho tính mạng
của mình và [những ai ] chống đối họ, ngày đêm phải sống trong sợ hãi vì đám
tay chân vô lại của chúng. Như ly nước bị đổ quá đầy thì phải tràn ; như thể
ngọn gió đã hết trớn.’ Đây là lời cảnh báo dành cho những ai hồi tâm [
Qur’an. vi,116] và xin Thượng đế cũng trừng trị như thế đối với tất cả những
kẻ bạo ngược !.’
|