Mục 24: Lí thuyết chỉnh thể luận
về thí nghiệm xã hội
Tư duy chỉnh thể luận là đặc biệt có hại trong ảnh
hưởng của nó lên lí thuyết lịch sử chủ nghĩa về các
thí nghiệm xã hội (được trình bày chi tiết ở mục 2 ở
trên). Mặc dù kĩ thuật viên cải biến từng phần sẽ
đồng ý với quan điểm chỉnh thể rằng: Các thí nghiệm
xã hội toàn diện hay chỉnh thể, nếu nói chung có
thể, là cực kì không thích hợp cho các mục đích khoa
học, anh ta sẽ dứt khoát phản đối giả thiết, chung
cho cả chủ nghĩa lịch sử và chủ nghĩa Không tưởng,
rằng các thí nghiệm xã hội, để trở nên thực tiễn,
phải mang tính chất của các nỗ lực Không tưởng khi
tổ chức lại toàn bộ xã hội. Tiện lợi để bắt đầu sự phê phán của chúng ta với
việc thảo luận một sự phản đối rất hiển nhiên đối
với chương trình Không tưởng, cụ thể là chúng ta
không có tri thức thực nghiệm cần thiết cho một
nhiệm vụ như vậy. Các bản thiết kế của kĩ sư vật lí
dựa trên kĩ thuật thực nghiệm; tất cả các nguyên lí
tạo cơ sở cho các hoạt động của anh ta được kiểm
chứng bằng các thực nghiệm. Nhưng các bản thiết kế
chỉnh thể luận của kĩ sư xã hội không dựa trên bất
kể kinh nghiệm thực tiễn nào có thể so sánh được.
Như vậy, sự tương tự được cho là có giữa kĩ thuật
vật lí và kĩ thuật cải biến xã hội chỉnh thể bị sụp
đổ; kế hoạch hoá chỉnh thể được coi một cách đúng
đắn là “Không tưởng”, vì các kế hoạch của nó, đơn
giản, chẳng hề có cơ sở khoa học. Đối mặt với sự phê phán này, kĩ sư Không tưởng chắc
có lẽ thừa nhận nhu cầu về kinh nghiệm thực tiễn, và
về kĩ thuật thí nghiệm. Nhưng anh ta sẽ cho là chúng
ta sẽ chẳng bao giờ biết bất kể thứ gì về những vấn
đề này, nếu chúng ta lưỡng lự làm các thí nghiệm xã
hội, hay kĩ thuật cải biến chỉnh thể, điều theo quan
điểm của anh ta, cũng thế. Chúng ta phải bắt đầu,
anh ta lí luận, sử dụng bất luận tri thức nào chúng
ta có, dù nhiều hay ít. Nếu chúng ta có tri thức nào
đó về việc thiết kế máy bay ngày nay, đó chỉ là vì
người đi tiên phong nào đó, người đã không có tri
thức này, đã dám thiết kế một máy bay và mang nó ra
thử. Như vậy, nhà Không tưởng thậm chí có thể cho
rằng: Phương pháp chỉnh thể luận mà anh ta chủ
trương chẳng là gì khác mà là phương pháp thực
nghiệm áp dụng cho xã hội. Vì anh ta, cũng như nhà
lịch sử chủ nghĩa, cho rằng các thí nghiệm quy mô
nhỏ, như một thí nghiệm trong chủ nghĩa xã hội thực
hiện ở một nhà máy hay ở một làng hay thậm chí ở một
quận huyện, sẽ là hoàn toàn không thuyết phục; “các
thí nghiệm Robinson-Crusoe” biệt lập như vậy không
nói cho chúng ta điều gì về đời sống xã hội hiện đại
trong “Xã hội Vĩ đại”. Họ thậm chí xứng đáng cái tên
nhạo “Không tưởng” - theo nghĩa (Marxist) trong đó,
từ này hàm ý bỏ qua các xu hướng lịch sử. (Ẩn ý
trong trường hợp này có thể là xu hướng tới một sự
phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng của đời sống xã
hội bị bỏ qua). Chúng ta thấy: Chủ nghĩa Không tưởng và chủ nghĩa
lịch sử thống nhất trong quan điểm là một thí
nghiệm xã hội (nếu có sự kiện như vậy) có thể có giá
trị, chỉ nếu khi được tiến hành ở một quy mô chỉnh
thể. Định kiến phổ biến rộng rãi này kéo theo
niềm tin, cho rằng chúng ta hiếm khi ở vị thế để
tiến hành “các thí nghiệm được kế hoạch hoá” trong
lĩnh vực xã hội, và rằng, để giải thích các kết quả
của “các thí nghiệm ngẫu nhiên” cho đến bây giờ đã
được tiến hành trong lĩnh vực này, chúng ta phải
quay về lịch sử.
[1]
Tôi có hai lí do để phản đối quan điểm này: (a)
rằng nó bỏ qua các thí nghiệm từng phần những
cái là cơ bản cho mọi tri thức xã hội, tiền-khoa học
cũng như khoa học; (b) rằng các thí nghiệm
chỉnh thể chắc có lẽ không đóng góp nhiều cho
tri thức thực nghiệm của chúng ta; và chúng có thể
được gọi là các “thí nghiệm” chỉ theo nghĩa: Trong
đó, từ này là đồng nghĩa với một hành động mà kết
quả của nó là không chắc chắn, nhưng không phải
theo nghĩa: Trong đó, từ này được dùng để chỉ một
phương tiện thâu nhận tri thức, bằng cách so sánh
các kết quả nhận được với các kết quả dự kiến.
Liên quan đến (a) có thể chỉ ra rằng: Quan
niệm chỉnh thể về các thí nghiệm xã hội bỏ mặc không
giải thích sự thực rằng: Chúng ta có rất nhiều tri
thức thực nghiệm về đời sống xã hội. Có sự khác biệt
giữa một một nhà doanh nghiệp, hay nhà tổ chức, hay
chính trị gia, hay tướng có kinh nghiệm và người
không có kinh nghiệm. Đó là một sự khác biệt về kinh
nghiệm xã hội của họ; và về kinh nghiệm nhận được
không chỉ qua quan sát, hay bằng suy ngẫm cái mà họ
đã quan sát, mà bằng nỗ lực để đạt được mục tiêu
thực tiễn nào đó. Phải thừa nhận rằng: Tri thức thu
nhận được bằng cách này thường là loại tiền-khoa
học, và vì thế, giống tri thức nhận được bằng sự
quan sát ngẫu nhiên hơn là tri thức nhận được bằng
các thí nghiệm khoa học được thiết kế cẩn thận;
nhưng đây không phải là lí do để từ chối, rằng tri
thức được nói đến dựa trên thí nghiệm hơn là chỉ
trên quan sát. Một người bán tạp phẩm mở một cửa
hiệu mới là tiến hành một thí nghiệm xã hội; và ngay
cả một người đứng xếp hàng trước một nhà hát nhận
được hiểu biết kĩ thuật thực nghiệm mà anh ta có thể
sử dụng bằng cách đặt vé trước vào lần sau, đây lại
là một thí nghiệm xã hội. Và chúng ta không được
quên rằng: Chỉ các thí nghiệm thực tiễn đã dạy những
người mua và những người bán bài học trên thị
trường, rằng giá chắc sẽ giảm với tăng cung, và lên
với tăng cầu. Các thí dụ về các thí nghiệm từng phần trên một quy
mô lớn hơn một chút có thể là quyết định của một nhà
độc quyền để thay đổi giá sản phẩm của mình; việc
một công ti bảo hiểm tư nhân hay công cộng đưa ra
một loại bảo hiểm y tế hay bảo hiểm việc làm mới;
hoặc việc đưa ra một loại thuế doanh thu mới, hay
một chính sách để chiến đấu với các chu kì thương
mại. Tất cả các thí nghiệm này đều được tiến hành
với các mục đích thực tiễn hơn là khoa học. Ngoài
ra, các thí nghiệm được một số hãng lớn hơn tiến
hành, với mục đích có tính toán để tăng hiểu biết
của họ về thị trường (tất nhiên, nhằm tăng lợi nhuận
ở các giai đoạn sau) hơn là với mục đích tăng lợi
nhuận của họ ngay lập tức.
[2]
Tình hình này rất giống tình trạng của kĩ sư vật lí
và các phương pháp tiền-khoa học mà theo đó, hiểu
biết kĩ thuật của chúng ta trong các vấn đề như xây
dựng tàu thuỷ hay nghệ thuật hàng hải thâu nhận được
đầu tiên. Dường như, chẳng có lí do vì sao các
phương pháp này lại không được cải thiện, và cuối
cùng, được thay thế bằng một công nghệ mang tính
khoa học hơn; tức là, bởi một cách tiếp cận có hệ
thống hơn theo cùng hướng, dựa trên tư duy phê phán
cũng như trên thí nghiệm. Theo quan điểm từng phần này, không có sự phân chia
rạch ròi giữa các cách tiếp cận thí nghiệm tiền-khoa
học và khoa học, dù là việc áp dụng có ý thức các
phương pháp ngày càng khoa học hơn, tức là, các
phương pháp phê phán là rất quan trọng. Cả hai cách
tiếp cận có thể được diễn tả, về cơ bản, như việc sử
dụng phương pháp thử và sai. Chúng ta thử, tức là,
chúng ta không chỉ ghi chép một sự quan sát, mà là
thực hiện các nỗ lực để giải quyết một số vấn đề ít
nhiều thực tiễn và xác định. Và chúng ta tiến bộ
nếu, và chỉ nếu, chúng ta sẵn sàng học từ sai lầm
của mình: Nhận ra các sai lầm của chúng ta và sử
dụng chúng một cách phê phán thay cho sự kiên trì
với chúng một cách giáo điều. Mặc dù phân tích này
có thể có vẻ tầm thường, nó mô tả, tôi tin, phương
pháp của tất cả các môn khoa học thực nghiệm. Chúng
ta sẵn sàng càng thoải mái hơn và có ý thức hơn để
gánh chịu rủi ro của thử nghiệm, và càng phê phán
hơn khi theo dõi các sai lầm mà chúng ta luôn mắc
phải, thì phương pháp này càng mang tính khoa học
hơn. Và công thức này bao phủ không chỉ phương pháp
thí nghiệm, mà cả mối quan hệ giữa lí thuyết và thí
nghiệm nữa. Mọi lí thuyết đều là sự thử nghiệm;
chúng là các giả thuyết mang tính thăm dò, thử để
xem chúng có hoạt động không; và mọi sự củng cố thực
nghiệm đều đơn giản là kết quả của các kiểm nghiệm
được tiến hành theo tinh thần phê phán, một nỗ lực
để tìm ra các lí thuyết của chúng ta sai ở đâu.
[3]
Đối với kĩ thuật viên hay kĩ sư cải biến từng phần,
các quan điểm này có nghĩa, nếu anh ta muốn đưa các
phương pháp khoa học vào việc nghiên cứu xã hội và
vào hoạt động chính trị, rằng cái cần đến nhất là
việc chấp nhận một thái độ phê phán, và sự thừa nhận
rằng: Không chỉ thử mà cả sai cũng là cần thiết. Và
anh ta phải học, không chỉ để chờ đợi các sai lầm,
mà phải tìm ra chúng một cách có ý thức. Tất cả
chúng ta đều có một điểm yếu phi khoa học là luôn
nghĩ mình là đúng, và nhược điểm này hình như đặc
biệt phổ biến giữa các chính trị gia chuyên nghiệp
và nghiệp dư. Nhưng cách duy nhất để áp dụng điều gì
đó giống phương pháp khoa học trong hoạt động chính
trị là tiến lên với giả thiết: Không thể có nước đi
chính trị nào lại không có những bất lợi, không có
các hệ quả không mong muốn. Coi chừng các sai lầm
này, tìm ra chúng, và đưa chúng ra công khai, phân
tích chúng, và học từ chúng, đấy là điều một chính
trị gia khoa học cũng như nhà khoa học chính trị
phải làm. Phương pháp khoa học trong hoạt động chính
trị có nghĩa: Nghệ thuật khéo léo về việc thuyết
phục bản thân chúng ta rằng: Chúng ta đã chẳng phạm
sai lầm nào khi bỏ qua chúng, khi che giấu chúng, và
khi đổ lỗi cho người khác vì chúng, được thay thế
bằng nghệ thuật tài ba về việc chấp nhận trách nhiệm
vì chúng, để thử học từ chúng, và để áp dụng tri
thức này sao cho chúng ta có thể tránh chúng trong
tương lai. Bây giờ, chúng ta quay sang điểm (b), phê
phán quan điểm là chúng ta có thể học từ các thí
nghiệm chỉnh thể, hay chính xác hơn, từ các biện
pháp được thực hiện ở quy mô gần tới mơ ước chỉnh
thể (vì các thí nghiệm chỉnh thể theo nghĩa triệt để
cho rằng chúng tổ chức lại “toàn bộ xã hội” là không
thể có được về mặt logic, như tôi đã chỉ ra ở mục
trước). Điểm chủ yếu của chúng ta rất đơn giản: Khá
khó để có khả năng tự phê phán các sai lầm riêng của
mình, nhưng đối với chúng ta, chắc hẳn gần như không
thể giữ một thái độ phê phán đối với các hành động
của chúng ta, các hành động dính dáng đến cuộc sống
của nhiều người. Nói cách khác, rất khó để học từ
các sai lầm rất lớn. Lí do của điều này gồm hai loại: Kĩ thuật cũng như
đạo đức. Vì quá nhiều việc xảy ra đồng thời, nên
không thể nói biện pháp cá biệt nào chịu trách nhiệm
về bất kể kết quả nào; hay đúng hơn, nếu chúng ta
quy một kết quả nào đó cho một biện pháp nào đấy,
thì chúng ta có thể làm vậy, chỉ trên cơ sở của sự
hiểu biết lí thuyết nào đó đã có từ trước, chứ không
từ thí nghiệm chỉnh thể được nói đến. Thí nghiệm này
không giúp chúng ta quy các kết quả cá biệt cho các
biện pháp cá biệt; tất cả điều chúng ta có thể làm
là quy “toàn bộ kết quả” cho nó; và điều này có thể
có nghĩa bất kể là gì, chắc chắn rất khó để đánh
giá. Ngay cả các nỗ lực lớn nhất để đảm bảo một
tuyên bố có nhiều thông tin, độc lập, và phê phán về
các kết quả này cũng không chắc thành công. Nhưng
xác suất để cho các nỗ lực như vậy được tiến hành là
nhỏ, có thể bỏ qua; ngược lại, rất có thể là sẽ
không được thảo luận tự do về kế hoạch chỉnh thể và
các hệ quả của nó. Lí do là mọi nỗ lực kế hoạch hoá
ở quy mô rất lớn đều là một nhiệm vụ, nói nhẹ đi,
chắc hẳn gây ra bất tiện đáng kể cho nhiều người, và
trong một thời gian khá dài. Do đó, luôn luôn có một
xu hướng phản đối kế hoạch, và than phiền về nó. Kĩ
sư Không tưởng phải để ngoài tai nhiều trong số
những phàn nàn này, nếu anh ta nói chung muốn đạt
tới chỗ nào đó; thực ra, sẽ là một phần công việc
của anh ta là đi chặn những sự phản đối phi lí.
Nhưng cùng với chúng, anh ta chắc hẳn cũng chặn cả
những phê phán hợp lí. Và đơn thuần sự thực là phải
kiềm chế sự bày tỏ bất mãn, làm giảm ngay cả sự bày
tỏ thoả mãn nhiệt tình nhất thành vô nghĩa. Như vậy,
sẽ khó để tìm hiểu chắc chắn các sự thực, tức là hậu
quả của kế hoạch lên mỗi công dân; và không có các
sự thực này, phê phán mang tính khoa học là không
thể có. Nhưng kết hợp kế hoạch hoá chỉnh thể và các phương
pháp khoa học còn gặp khó khăn cơ bản hơn so với
những điều đã được biểu lộ ra, cho đến đây. Nhà kế
hoạch chỉnh thể bỏ qua sự thực: Dễ tập trung quyền
lực nhưng không thể tập trung tất cả tri thức nằm
rải rác trong đầu của nhiều cá nhân, và sự tập trung
hoá chúng là cần thiết cho việc nắm quyền lực tập
trung một cách khôn khéo.
[4]
Nhưng sự thực này có các hệ quả sâu rộng. Không có
khả năng biết chắc có cái gì trong đầu của rất nhiều
cá nhân, anh ta hẳn phải cố đơn giản hoá các vấn đề
của mình bằng cách loại bỏ những sự khác biệt riêng:
Anh ta phải cố kiểm soát và rập khuôn các lợi ích và
niềm tin bằng giáo dục và tuyên truyền.
[5]
Nhưng nỗ lực này để sử dụng quyền lực trên tinh thần
phải phá huỷ khả năng cuối cùng của việc tìm ra điều
người dân thực sự suy nghĩ, vì nó rõ ràng không
tương hợp với sự biểu lộ tự do của tư duy, đặc biệt
của tư duy phê phán. Cuối cùng, nó phải phá huỷ tri
thức; và sự tăng thêm về quyền lực càng lớn bao
nhiêu, thì sự mất mát tri thức càng nhiều bấy nhiêu.
(Quyền lực chính trị và tri thức xã hội, như vậy có
thể được phát hiện ra là “bù” cho nhau, dùng từ theo
nghĩa của Bohr. Và thậm chí, hoá ra có thể là minh
hoạ rõ duy nhất của thuật ngữ khó hiểu nhưng thời
thượng này).
[6]
Tất cả những nhận xét này hạn chế ở vấn đề phương
pháp khoa học. Chúng ngầm thừa nhận giả thiết khổng
lồ rằng: Chúng ta chẳng cần nghi ngờ lòng nhân từ cơ
bản của kĩ sư Không tưởng kế hoạch hoá, người được
ban cho quyền lực chí ít gần bằng quyền lực độc tài.
Tawney kết thúc một thảo luận về Luther và thời đại
của ông với các từ sau: “Thời đại của Machiavelli và
Henry VIII, nghi ngờ về sự tồn tại của những con kì
lân và kì giông, đã tìm thấy thức ăn cho tính cả tin
của nó trong việc thờ phụng các con quái vật, Hoàng
tử sùng bái Trời, hiếm có đó”.
[7]
Ở đây thay các từ “những con kì lân và kì giông”
bằng “Hoàng tử sùng bái Trời”; thay hai tên bằng tên
của những thứ tương ứng hiện đại hiển nhiên hơn của
chúng, và thay “Hoàng tử sùng bái Trời” bằng “nhà
chức trách kế hoạch hoá nhân từ”: Và chúng ta có một
mô tả về tính cả tin của riêng thời đại chúng ta.
Tính cả tin này sẽ không bị tấn công ở đây; nhưng có
thể nhận xét rằng, giả thiết lòng nhân từ vô giới
hạn và không thay đổi của các nhà kế hoạch hùng
mạnh, phân tích của chúng ta vẫn chứng tỏ rằng có
thể chẳng bao giờ họ biết được, liệu các kết quả của
các biện pháp của họ có phù hợp với các ý định tốt
lành của họ hay không. Tôi không tin rằng có thể đưa ra bất kể phê phán
tương ứng nào chống phương pháp từng phần. Phương
pháp này có thể được dùng, cá biệt hơn, để tìm ra,
và đấu tranh chống lại, các tai hoạ lớn nhất và khẩn
cấp nhất của xã hội, hơn là để tìm ra, và đấu tranh
cho, cái tốt cuối cùng nào đó (như các nhà chỉnh thể
luận có thiên hướng làm). Nhưng một cuộc chiến có hệ
thống chống lại những cái xấu xác định, chống lại
các hình thức xác định của bất công hay bóc lột, và
sự đau khổ có thể tránh được như đói nghèo hay thất
nghiệp, là một việc rất khác với nỗ lực để thực hiện
một bản thiết kế lí tưởng xa vời về xã hội. Thành
công hay thất bại được đánh giá dễ hơn, và chẳng có
lí do cố hữu vì sao phương pháp này lại dẫn đến sự
tích tụ quyền lực, và đến đè nén phê phán. Hơn nữa,
một cuộc đấu tranh như vậy chống lại những cái xấu
xác định và các mối nguy hiểm cụ thể chắc có nhiều
khả năng tìm được sự ủng hộ của đại đa số hơn là một
cuộc chiến đấu cho sự thiết lập một điều Không
tưởng, dù lí tưởng như có thể tỏ ra với các nhà kế
hoạch. Điều này có lẽ có thể soi một ánh sáng nào đó
lên sự thực, là trong các nước dân chủ tự bảo vệ
chống lại sự xâm lược, có thể nhận được sự ủng hộ
thích đáng cho các biện pháp sâu rộng cần thiết
(chúng thậm chí có thể mang tính chất của kế hoạch
hoá chỉnh thể) mà không cấm phê phán công khai,
trong khi ở các nước chuẩn bị cho một cuộc tấn công
hay tiến hành chiến tranh xâm lược, như một quy tắc,
phê phán công khai phải bị cấm, nhằm huy động sự ủng
hộ công khai bằng cách bày tỏ sự xâm lược như sự
phòng thủ. Bây giờ, chúng ta có thể quay lại đòi hỏi của nhà
Không tưởng, cho rằng phương pháp của anh ta là
phương pháp thí nghiệm thật sự áp dụng cho lĩnh vực
xã hội học. Tôi nghĩ, phê phán của chúng ta đã xua
tan đòi hỏi này. Điều này có thể được minh hoạ thêm
bởi sự tương tự giữa kĩ thuật vật lí và kĩ thuật cải
biến chỉnh thể. Có thể thừa nhận rằng: Các máy móc
vật lí có thể được lập kế hoạch thành công theo các
bản thiết kế, và với chúng, ngay cả toàn bộ một nhà
máy để sản xuất ra chúng, v.v. Nhưng tất cả điều này
là có thể chỉ vì nhiều thí nghiệm từng phần đã được
tiến hành từ trước rồi. Mỗi chiếc máy là kết quả của
rất nhiều cải tiến nhỏ. Mỗi model phải được
“phát triển” bởi phương pháp thử và sai, bởi vô số
điều chỉnh nhỏ. Cũng đúng thế với việc lập kế hoạch
cho một nhà máy sản xuất. Kế hoạch dường như là
chỉnh thể, có thể thành công chỉ vì chúng ta đã vấp
phải mọi loại sai lầm nhỏ rồi; nếu khác đi, có mọi
lí do là nó có thể dẫn đến các sai lầm lớn. Như vậy, sự tương tự giữa kĩ thuật vật lí và kĩ
thuật xã hội, nếu xét kĩ lưỡng hơn, quay ra chống kĩ
sư chỉnh thể và ủng hộ kĩ sư cải biến xã hội từng
phần. Thành ngữ “kĩ thuật xã hội - social
engineering”, ám chỉ đến sự tương tự này, đã bị
nhà Không tưởng chiếm đoạt, mà thật ra, ông ta không
có một chút quyền hành nào. Với điểm này, tôi kết thúc các nhận xét phê phán của
mình về chủ nghĩa Không tưởng, và bây giờ, tập trung
vào việc tấn công đồng minh của nó, chủ nghĩa lịch
sử. Tôi tin là mình đã cho một câu trả lời đủ đối
với luận điểm lịch sử chủ nghĩa liên quan đến các
thí nghiệm xã hội, trừ lí lẽ cho rằng: Các thí
nghiệm xã hội là vô dụng, vì việc lặp lại chúng dưới
các điều kiện giống hệt là không thể thực hiện được.
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét lí lẽ này.
Mục 25: Tính hay thay đổi của các điều kiện thí
nghiệm
Nhà lịch sử chủ nghĩa cho rằng: Phương pháp thí
nghiệm không thể áp dụng được cho các môn khoa học
xã hội vì chúng ta không thể, trong lĩnh vực xã hội,
tái tạo tuỳ ý một cách chính xác các điều kiện thí
nghiệm giống nhau. Điều này đưa chúng ta đến gần tâm
của lập trường lịch sử chủ nghĩa. Tôi thừa nhận, có
thể có điều gì đó trong luận điểm này: Không nghi
ngờ gì, ở đây có một số khác biệt giữa các phương
pháp vật lí và xã hội học. Tuy nhiên, tôi khẳng định
rằng: Luận điểm lịch sử chủ nghĩa dựa trên một sự
hiểu lầm thô thiển về các phương pháp thí nghiệm của
vật lí học. Đầu tiên, hãy xem xét các phương pháp này. Mọi nhà
vật lí thực nghiệm đều biết: Những thứ rất không
giống nhau có thể xảy ra dưới cái dường như là các
điều kiện hoàn toàn giống nhau. Thoạt nhìn, hai dây
điện có thể trông giống hệt nhau, nhưng nếu một dây
được đổi cho dây kia trong một cái máy điện, sự khác
biệt nảy sinh có thể là rất lớn. Xem xét kĩ lưỡng
hơn (thí dụ, qua một kính hiển vi), chúng ta có thể
thấy: Chúng không giống nhau như thoạt đầu chúng có
vẻ. Nhưng thường thật rất khó để tìm ra một sự khác
biệt về điều kiện của hai thí nghiệm dẫn đến các kết
quả khác nhau. Nghiên cứu lâu dài về thực nghiệm
cũng như về lí thuyết, có thể là cần thiết, nhằm tìm
ra tính giống nhau nào là quan trọng, và mức độ
giống nhau nào là đủ. Việc nghiên cứu này có thể
phải được tiến hành trước khi chúng ta có khả năng
đảm bảo các điều kiện giống nhau cho các thí nghiệm
của mình, và trước khi chúng ta thậm chí biết “các
điều kiện giống nhau” trong trường hợp này nghĩa là
gì. Thế mà, phương pháp thực nghiệm được áp dụng
luôn luôn. Như vậy, chúng ta có thể nói rằng: Câu hỏi về điều
gì được coi là “các điều kiện giống nhau” phụ thuộc
vào loại thí nghiệm, và có thể được trả lời chỉ bằng
việc sử dụng các thí nghiệm. Quyết định a priori
[trước] về bất kể sự khác biệt hay sự giống nhau
được quan sát, dẫu cho chúng nổi bật đến đâu, liệu
chúng có quan trọng hay không cho mục đích tái lập
một thí nghiệm, là việc không thể làm được. Cho nên,
chúng ta phải để phương pháp thí nghiệm tự lo lấy
cho mình. Những cân nhắc tương tự cũng hoàn toàn
đúng cho vấn đề được tranh luận nhiều về cách li
nhân tạo các thí nghiệm khỏi các tác động quấy rầy.
Rõ ràng, chúng ta không thể cách li một thiết bị
chống lại mọi tác động; thí dụ, chúng ta
không thể biết a priori liệu ảnh hưởng của vị
trí của các hành tinh hay của mặt trăng lên một thí
nghiệm vật lí là đáng kể hay có thể bỏ qua. Loại
cách li nhân tạo nào, nếu có, là cần thiết, chúng ta
có thể học chỉ từ kết quả của các thí nghiệm, hay từ
các lí thuyết mà, đến lượt chúng, lại được kiểm
chứng bằng các thí nghiệm. Dưới ánh sáng của những cân nhắc như vậy, lí lẽ lịch
sử chủ nghĩa cho rằng: Ðúng là tai hoạ khi các thí
nghiệm xã hội bị cản trở bởi tính hay thay đổi của
các điều kiện xã hội, và đặc biệt bởi những thay đổi
do sự phát triển lịch sử, đã làm mất hiệu lực của
các thí nghiệm xã hội. Những khác biệt nổi bật, mà
nhà lịch sử chủ nghĩa bận tâm với chúng nhiều đến
vậy, tức là, những khác biệt giữa các điều kiện
thịnh hành trong các thời kì lịch sử khác nhau,
không nhất thiết gây ra bất kể khó khăn khác thường
nào cho khoa học xã hội. Có thể thú nhận rằng: Nếu
giả như chúng ta đột nhiên được chuyển vào một thời
kì lịch sử khác, có lẽ chúng ta thấy rằng, nhiều kì
vọng xã hội của chúng ta, được hình thành trên cơ sở
các thí nghiệm từng phần được thực hiện trong xã hội
của chúng ta, gây thất vọng. Nói cách khác, các thí
nghiệm có thể dẫn đến những kết quả không lường
trước được. Nhưng chính các thí nghiệm dẫn
chúng ta đến việc khám phá ra sự thay đổi về các
điều kiện xã hội; các thí nghiệm dạy chúng ta rằng:
Các điều kiện xã hội nào đó thay đổi với thời kì
lịch sử; hệt như các thí nghiệm đã dạy nhà vật
lí rằng: Nhiệt độ sôi của nước có thể thay đổi theo
vị trí địa lí.
[8]
Nói cách khác, thuyết về sự khác biệt giữa các thời
kì lịch sử, còn xa mới làm cho các thí nghiệm xã hội
là không thể, nó đơn thuần chỉ là sự phát biểu của
giả thiết cho rằng: Nếu chuyển sang một thời kì
khác, chúng ta phải tiếp tục thực hiện các thí
nghiệm từng phần của mình, nhưng phải tính đến các
kết quả gây ngạc nhiên hay thất vọng. Thực ra, nếu
chúng ta biết mọi thứ về các thái độ trong các thời
kì lịch sử khác nhau, thì chính từ các thí nghiệm
được thực hiện trong trí tưởng tượng của chúng ta.
Các nhà sử học có thể gặp khó khăn về cách diễn giải
các ghi chép nào đó, hoặc họ phát hiện ra các sự
thực, chứng tỏ rằng một vài tiền bối của họ đã diễn
giải sai bằng chứng lịch sử nào đó. Những khó khăn
này về diễn giải lịch sử là bằng chứng duy nhất của
chúng ta về loại biến đổi lịch sử mà nhà lịch sử chủ
nghĩa nghĩ đến; nhưng chúng chẳng là gì mà là sự
khác nhau giữa các kết quả kì vọng và thực tế của
các thí nghiệm tưởng tượng [trong tư duy] của chúng
ta. Những ngạc nhiên và thất vọng này là những sự
kiện, bằng phương pháp thử và sai, đã dẫn đến những
cải thiện về khả năng của chúng ta để diễn giải các
điều kiện xã hội lạ thường. Và điều mà chúng ta đạt
được bằng thí nghiệm tưởng tượng trong trường hợp
diễn giải lịch sử, là điều các nhà nhân loại học đạt
được trong công việc thực tiễn trên thực địa. Các
nhà khảo sát hiện đại, những người đã thành công
trong việc điều chỉnh các kì vọng của mình với các
điều kiện có lẽ không kém xa lạ so với điều kiện của
Thời Đồ Đá, có thành công là cũng nhờ các thí nghiệm
từng phần. Một số nhà lịch sử chủ nghĩa nghi ngờ khả năng của
những điều chỉnh thành công như vậy; và thậm chí, họ
bảo vệ thuyết của mình về tính vô dụng của các thí
nghiệm xã hội bằng lí luận: Nếu được dịch chuyển vào
các thời kì lịch sử xa xôi, quá nhiều thử nghiệm xã
hội của chúng ta dẫn đến thất vọng. Họ khẳng định
rằng: Chúng ta không có khả năng để điều chỉnh các
tập quán tư duy của mình, và đặc biệt các tập quán
của mình về việc phân tích các sự kiện xã hội, theo
các điều kiện gây hoang mang này. Những nỗi sợ hãi
như vậy, đối với tôi, có vẻ là một phần của chứng
cuồng loạn lịch sử chủ nghĩa - nỗi ám ảnh về tầm
quan trọng của biến đổi lịch sử; nhưng tôi phải thú
nhận là khó để xua tan các nỗi sợ hãi đó trên cơ sở
a priori. Rốt cuộc, khả năng để điều chỉnh
mình với môi trường mới, thay đổi từ người này sang
người khác, và dường như chẳng có lí do vì sao chúng
ta lại chờ đợi điều này ở một nhà lịch sử chủ nghĩa
(người có các quan điểm chủ bại như vậy): rằng đầu
óc anh ta sẽ có khả năng thích nghi một cách thành
công với các thay đổi của môi trường xã hội. Hơn
nữa, vấn đề còn phụ thuộc vào tính chất của môi
trường mới. Khả năng để một nhà nghiên cứu xã hội có
thể thấy mình bị ăn thịt trước khi anh ta thành công
trong việc thích nghi bản thân, bằng thử và sai, với
các tập quán ăn thịt người, không thể bị loại trừ
nhiều hơn khả năng: Trong một xã hội “kế hoạch” nào
đó, nghiên cứu của anh ta có thể kết thúc trong một
trại tập trung. Các nhận xét tương tự, tuy vậy, cũng
đúng trong lĩnh vực vật lí học. Trên thế giới, có
nhiều nơi mà các điều kiện vật chất thịnh hành ít
cho nhà vật lí có cơ hội sống sót, hoặc có cơ hội
điều chỉnh mình theo các điều kiện này bằng thử và
sai. Tóm lại, dường như không có cơ sở nào có vẻ hợp lí
hơn khẳng định lịch sử chủ nghĩa sau đây: Tính hay
thay đổi của các điều kiện lịch sử làm cho phương
pháp thực nghiệm không thể sử dụng được cho các vấn
đề của xã hội, hoặc cho khẳng định, ở điểm này, rằng
nghiên cứu xã hội là về cơ bản khác nghiên cứu tự
nhiên. Là chuyện hoàn toàn khác, nếu chúng ta thừa
nhận, trong thực tiễn, rằng thường rất khó cho nhà
khoa học xã hội để chọn và thay đổi tuỳ ý các điều
kiện thí nghiệm của mình. Nhà vật lí ở vị trí tốt
hơn, mặc dù đôi khi anh ta cũng đối mặt với các khó
khăn tương tự. Như khả năng thực hiện các thí nghiệm
trong các trường hấp dẫn biến đổi, hay dưới các điều
kiện nhiệt độ cực đoan, là rất hạn chế. Nhưng chúng
ta không được quên rằng, nhiều khả năng mở ra cho
nhà vật lí ngày nay đã là không thực tiễn trước đây
không lâu, không phải vì những khó khăn vật lí mà vì
khó khăn xã hội, tức là: Vì chúng ta đã không sẵn
sàng chịu rủi ro chi tiền cần thiết cho nghiên cứu.
Tuy vậy, sự thực rằng nhiều khảo sát vật lí bây giờ
có thể được tiến hành dưới các điều kiện thực nghiệm
đáng khen, trong khi nhà khoa học xã hội lại ở vị
thế rất khác. Nhiều thí nghiệm rất đáng mong mỏi sẽ
vẫn chỉ là các ước mơ cho thời gian dài trước mắt,
bất chấp việc chúng không mang tính Không tưởng mà
mang tính từng phần. Trong thực tiễn, anh ta thường
phải dựa quá nhiều vào các thí nghiệm thực hiện
trong óc, và vào việc phân tích các biện pháp chính
trị được thực hiện dưới các điều kiện, và theo một
cách, rất đáng chê trách khi nhìn từ quan điểm khoa
học.
Mục 26: Khái quát hoá bị hạn chế ở các thời kỳ?
Thực ra, tôi đã thảo luận vấn đề về các thí nghiệm
xã hội trước thảo luận nói chung vấn đề về các quy
luật, hay lí thuyết, hay giả thuyết, hay “khái quát
hoá” xã hội học, không có nghĩa là tôi nghĩ rằng các
quan sát và thí nghiệm theo cách này hay cách khác
đứng ưu tiên về mặt logic hơn các lí thuyết. Ngược
lại, tôi tin rằng: Các lí thuyết là đi trước đối với
các quan sát và thí nghiệm, theo nghĩa những cái sau
là quan trọng chỉ trong quan hệ tới các vấn đề lí
thuyết. Hơn nữa, chúng ta phải có câu hỏi trước khi
chúng ta có thể hi vọng rằng quan sát hay thí
nghiệm, có thể bằng cách nào đó, giúp chúng ta đưa
ra một câu trả lời. Hoặc diễn đạt theo phương pháp
thử và sai, thử phải đi trước sai; và như chúng ta
đã thấy (ở mục 24), lí thuyết hay giả thuyết luôn
mang tính thăm dò và là một phần của thử, trong khi
quan sát và thí nghiệm giúp chúng ta gạt bỏ các lí
thuyết bằng cách chứng tỏ rằng chúng sai. Vì vậy,
tôi không tin vào “phương pháp khái quát hoá”, tức
là, vào quan điểm cho rằng: Khoa học bắt đầu với
những quan sát, từ đó nó dẫn ra các lí thuyết bằng
quá trình khái quát hoá hay quy nạp nào đó. Đúng
hơn, tôi tin rằng chức năng của quan sát và thí
nghiệm là khiêm tốn hơn để giúp chúng ta kiểm tra
các lí thuyết của mình và loại bỏ các lí thuyết
không qua được kiểm chứng; cho dù phải thừa nhận
rằng quá trình gạt bỏ này không chỉ kiểm tra suy
đoán lí thuyết, mà cũng kích thích nó thử lại nữa -
và thường lại sai, và lại bị bác, bằng những quan
sát và thí nghiệm mới. Trong mục này, tôi sẽ phê phán luận điểm lịch sử chủ
nghĩa (xem mục 1) cho rằng: Trong các môn khoa học
xã hội, tính hợp lệ của mọi khái quát hoá, hay chí
ít của các khái quát hoá quan trọng nhất, bị giới
hạn ở thời kì lịch sử cụ thể, trong đó những quan
sát liên quan được thực hiện. Tôi sẽ phê phán luận
điểm này mà không đi thảo luận trước vấn đề: liệu
cái gọi là “phương pháp khái quát hoá” có bảo vệ
được hay không, bất chấp niềm tin chắc chắn của tôi
là: Không; vì tôi nghĩ rằng, luận điểm lịch sử chủ
nghĩa có thể bị bác mà không cần chứng tỏ rằng
phương pháp này là không có hiệu lực. Việc thảo luận
các quan điểm của tôi về phương pháp này, và về các
quan hệ giữa lí thuyết và thí nghiệm nói chung, vì
vậy, có thể được hoãn lại. Nó sẽ được đề cập lại ở
mục 28. Tôi bắt đầu phê phán của mình về luận điểm lịch sử
chủ nghĩa với thú nhận: Hầu hết người dân sống trong
một thời kì lịch sử nào đó sẽ có thiên hướng tới
niềm tin sai, rằng những sự đều đặn mà họ quan sát
thấy quanh mình là các quy luật phổ quát của đời
sống xã hội, đúng với mọi xã hội. Thật vậy, đôi khi
chúng ta chỉ nhận ra rằng: Bản thân chúng ta nâng
niu các niềm tin như vậy khi, ở một nước khác, chúng
ta thấy rằng các tập quán về ăn uống, về xưng hô,
v.v. của chúng ta chẳng được chấp nhận như chúng ta
giả thiết một cách ấu trĩ. Suy ra khá hiển nhiên là
nhiều trong số các khái quát hoá khác của chúng ta,
bất luận có ý thức hay không, có thể thuộc cùng
loại, mặc dù chúng vẫn không bị thách thức vì chúng
ta không thể du hành vào một thời kì lịch sử khác.
(Kết luận này được, thí dụ, Hesiod
[9]
rút ra). Nói cách khác, phải thú nhận rằng: Có thể
có nhiều sự đều đặn trong đời sống xã hội của chúng
ta chỉ đặc trưng cho thời kì riêng của chúng ta, và
chúng ta có thiên hướng coi nhẹ hay bỏ qua hạn chế
này. Đến mức (đặc biệt trong thời kì biến động xã
hội nhanh) chúng ta có thể biết được, với nỗi đau
buồn, rằng chúng ta đã dựa vào các quy luật đã mất
hiệu lực.
[10]
Nếu các luận điểm lịch sử chủ nghĩa chỉ dừng lại ở
đây, thì chúng ta chỉ có thể lên án anh ta làm mất
thời gian vì một điểm khá tầm thường. Nhưng đáng
tiếc, anh ta khẳng định nhiều hơn. Anh ta khăng
khăng cho rằng tình hình tạo ra những khó khăn không
xuất hiện đối với các môn khoa học tự nhiên, còn
trong các môn khoa học xã hội, chúng ta chẳng bao
giờ được giả thiết rằng: Chúng ta đã khám phá ra một
quy luật phổ quát thật sự, vì chúng ta chẳng bao giờ
biết liệu nó có luôn đúng trong quá khứ hay không
(vì các ghi chép của chúng ta có thể không đủ) hoặc
có đúng trong tương lai hay không. Chống lại những đòi hỏi như vậy, tôi không chấp nhận
rằng, tình hình được mô tả theo cách nào đó là riêng
cho các môn khoa học xã hội, hoặc nó gây ra bất kỳ
một khó khăn riêng nào. Ngược lại, hiển nhiên là một
sự thay đổi về môi trường vật lí của chúng ta có thể
làm nảy sinh các kinh nghiệm khá giống những kinh
nghiệm nảy sinh từ một sự thay đổi về môi trường xã
hội hay lịch sử của chúng ta. Liệu có sự đều đặn
hiển nhiên nào hơn, và ai cũng biết, là sự kế tiếp
nhau của ngày và đêm? Thế mà nó sụp đổ khi ta bước
qua vòng cực. Có lẽ rất khó để so sánh các kinh
nghiệm vật lí với kinh nghiệm xã hội, nhưng tôi nghĩ
rằng: Một sự tan vỡ như vậy có thể đúng là gây ngạc
nhiên như bất kể sự tương tự nào xảy ra trong lĩnh
vực xã hội. Lấy một thí dụ khác, các môi trường lịch
sử hay xã hội của xứ Crete năm 1990 và của Crete ba
ngàn năm trước khó có thể nói là khác nhiều hơn các
môi trường địa chất hay vật lí của Crete và của
Greenland [Băng đảo]. Một sự di chuyển đột ngột
không được chuẩn bị từ một môi trường vật lí này
sang môi trường khác, tôi nghĩ, có thể có nhiều khả
năng tạo ra các kết quả tai hại hơn là một sự thay
đổi tương ứng về môi trường xã hội. Ðối với tôi, dường như rõ: Nhà lịch sử chủ nghĩa
đánh giá quá cao tầm quan trọng của những khác biệt
hơi dễ thấy giữa các thời kì lịch sử khác nhau, và
anh ta đánh giá thấp các khả năng của tài khéo léo
khoa học. Đúng là các quy luật do Kepler khám phá ra
chỉ có hiệu lực đối với các hệ thống hành tinh,
nhưng hiệu lực của nó không giới hạn ở hệ thống Mặt
trời nơi ông đã sống và hệ thống được ông quan sát.
[11]
Newton đã không phải lui về một xó của vũ trụ, nơi
ông có thể quan sát các vật thể chuyển động mà không
bị ảnh hưởng của các lực hấp dẫn và các lực khác để
thấy tầm quan trọng của quy luật quán tính. Mặt
khác, quy luật này, cho dù chẳng vật nào trong hệ
thống này chuyển động phù hợp với nó, không mất tầm
quan trọng của nó trong hệ thống Mặt trời. Tương tự,
dường như chẳng có lí do vì sao chúng ta lại không
có khả năng tạo ra các lí thuyết xã hội học, những
lí thuyết có tầm quan trọng cho mọi giai đoạn xã
hội. Những sự khác biệt ngoạn mục giữa các giai đoạn
này hoàn toàn không phải là dấu hiệu cho rằng các
quy luật như vậy là không thể tìm thấy, chẳng hơn
những sự khác biệt ngoạn mục giữa Crete và
Greenland, có thể chứng tỏ rằng: Không có quy luật
vật lí nào đúng cho cả hai khu vực. Ngược lại, những
sự khác biệt này dường như, chí ít trong một vài
trường hợp, có tính tương đối hời hợt (như những
khác biệt về tập quán, xưng hô, nghi lễ, v.v.), và
ít nhiều cũng đúng thế với những sự đều đặn được cho
là đặc trưng của một thời kì lịch sử nào đó hay của
một xã hội nào đó (và bây giờ chúng được một số nhà
xã hội học gọi là principia media).
[12] Đối với điểm này, nhà lịch sử chủ nghĩa có thể trả
lời: Những sự khác biệt về môi trường xã hội là cơ
bản hơn các sự khác biệt về môi trường vật lí; vì
nếu xã hội thay đổi, thì con người cũng thay đổi; và
điều này hàm ý: Một sự thay đổi về mọi sự đều đặn,
vì mọi sự đều đặn xã hội đều phụ thuộc vào bản chất
con người, vào nguyên tử của xã hội. Trả lời của
chúng ta là các nguyên tử vật lí cũng thay đổi với
môi trường của chúng (thí dụ, dưới tác động của các
trường điện-từ, v.v.), không phải bất chấp các quy
luật vật lí, mà phù hợp với các quy luật này. Vả
lại, tầm quan trọng của các thay đổi được vin vào
của bản chất con người là đáng ngờ, và rất khó đánh
giá. Bây giờ chúng ta chuyển sang luận điểm lịch sử chủ
nghĩa: Trong các môn khoa học xã hội, chúng ta chẳng
bao giờ được giả thiết rằng: Chúng ta đã khám phá ra
quy luật phổ quát thật sự vì chúng ta không thể chắc
chắn, liệu tính hiệu lực của nó có mở rộng ra quá
các thời kì, trong đó, chúng ta quan sát thấy là nó
đúng hay không. Điều này có thể được thừa nhận,
nhưng chỉ trong chừng mực là nó cũng áp dụng cho các
môn khoa học tự nhiên nữa. Trong các môn khoa học tự
nhiên, rõ ràng, chúng ta chẳng bao giờ hoàn toàn
chắc chắn: Liệu các quy luật của chúng ta là có hiệu
lực phổ quát thực sự hay không, hoặc liệu chúng chỉ
đúng trong một thời kì nào đó (có lẽ chỉ trong thời
kì nở của vũ trụ) hoặc chỉ ở các vùng nào đó (có lẽ
trong một vùng có trường hấp dẫn tương đối yếu) hay
không. Bất chấp tính không thể đảm bảo chắc tính
hiệu lực phổ quát của chúng, chúng ta không chua
thêm trong việc trình bày các quy luật tự nhiên một
điều kiện, nói rằng: Chúng được khẳng định chỉ cho
thời kì mà chúng được quan sát là đúng, hoặc có lẽ
chỉ trong phạm vi “thời kì vũ trụ học hiện thời”.
Chẳng phải là dấu hiệu của sự thận trọng khoa học
đáng khen ngợi, nếu giả như chúng ta chua thêm một
điều kiện như vậy, mà chỉ là dấu hiệu cho biết chúng
ta không hiểu thủ tục khoa học.
[13] Vì có một định
đề quan trọng của phương pháp khoa học: Chúng ta
phải tìm kiếm các quy luật với một phạm vi hiệu lực
vô hạn.
[14]
Nếu giả như chúng ta thừa nhận các quy luật mà bản
thân chúng bị thay đổi, thì sự thay đổi chẳng bao
giờ có thể được giải thích bằng các quy luật. Đó sẽ
là sự thừa nhận rằng: Thay đổi đơn giản là huyền
diệu. Và đó sẽ là kết thúc của tiến bộ khoa học; vì
nếu chúng ta thực hiện các quan sát không được mong
đợi, không cần phải xem xét lại các lí thuyết của
chúng ta: Giả thuyết ad hoc rằng các quy luật
đã thay đổi sẽ “giải thích” mọi thứ. Các lí lẽ này đúng cho các môn khoa học xã hội không
kém gì so với các môn khoa học tự nhiên. Với điểm này, tôi kết thúc sự phê phán của mình về
các thuyết quan trọng hơn của các thuyết phản tự
nhiên của chủ nghĩa lịch sử. Tiếp sau đây, trước khi
tiếp tục thảo luận một số thuyết ít cơ bản hơn, tôi
sẽ quay sang một thuyết của các học thuyết theo tự
nhiên, cụ thể là thuyết cho rằng, chúng ta phải tìm
kiếm các quy luật của sự phát triển lịch sử. © 2004 talawas
[1]Đây
cũng là quan điểm của Mill, khi ông nói về các thí
nghiệm xã hội: “Chúng ta rõ ràng chẳng bao giờ có
năng lực thử bất cứ thứ gì. Chúng ta chỉ có thể theo
dõi những cái mà tự nhiên tạo ra,…những sự tiếp diễn
của các hiện tượng được ghi trong lịch sử…” (Xem
Logic, Book VI, ch. VII, mục 2).
[2]Sidney
và Beatrice Webb, Methods of Social Study
(1932), các tr. 221 ff., cho các thí dụ tương tự về
các thí nghiệm xã hội. Tuy vậy, họ không phân biệt
giữa hai loại thí nghiệm được gọi là “từng phần” và
“chỉnh thể”, mặc dù sự phê phán của họ về phương
pháp thí nghiệm (xem tr. 226, “sự trộn lẫn các tác
động”) là đặc biệt thuyết phục như một phê phán các
thí nghiệm chỉnh thể (mà dường như họ ngưỡng mộ). Vả
lại, phê phán của họ lại kết hợp với “lí lẽ về tính
hay biến đổi” mà tôi coi là không hợp lệ; xem mục 25
dưới đây.
[3]Một
phân tích đầy đủ hơn về các phương pháp của vật lí
học hiện đại theo đường hướng được phác hoạ ở đây có
thể thấy trong cuốn Logic of Scientific Discovery
của tôi; xem cả “What is Dialectic?” Mind, vol. 49,
các tr. 403 ff. Xem cả, thí dụ, Tinbergen,
Statistical Testing of Business Cycle Theories,
vol. II, tr. 21: “Xây dựng một mô hình … là… vấn đề
về thử và sai”, v.v.
[4]Nhận
xét rằng không thể có tri thức cần cho kế hoạch hoá
“tập trung vào bất kể một cái đầu duy nhất nào” là
của Hayek; xem Collectivist Economic Planning,
tr. 210. (Xem cả chú thích 18 ở trên).
[5]Một
trong các điểm mấu chốt của lí thuyết chính trị của
Spinoza là tính không thể biết và không thể kiểm
soát cái mà người khác nghĩ. Ông định nghĩa “sự
chuyên chế” như mưu toan để đạt cái không thể làm
được, và để hành sử quyền lực ở nơi nó không thể
dùng được. Phải nhớ rằng, Spinoza đã không chính xác
là một người theo tư tưởng tự do; ông không tin vào
sự kiểm soát chế định của quyền lực, mà nghĩ rằng:
Một hoàng tử có quyền hành sử quyền lực của mình tới
giới hạn thực tế của nó. Thế mà cái Spinoza gọi là
“chuyên chế”, và tuyên bố là nó mâu thuẫn với lí
trí, lại được các nhà kế hoạch hoá chỉnh thể coi một
cách ngây thơ như một vấn đề “khoa học”, “vấn đề
biến đổi con người”.
[6]Niels
Bohr gọi hai cách tiếp cận là “bù nhau” nếu chúng là
(a) bù cho nhau theo nghĩa thông thường và (b) nếu
chúng loại trừ lẫn nhau theo nghĩa: Chúng ta càng sử
dụng một thứ nhiều bao nhiêu thì chúng ta có thể sử
dụng thứ kia ít bấy nhiêu. Mặc dù trong văn bản, tôi
nhắc chủ yếu đến tri thức xã hội, có thể cho
rằng sự tích tụ (và tập trung) quyền lực chính trị
là “bù” cho tiến bộ về tri thức khoa học nói chung.
Vì sự tiến bộ khoa học phụ thuộc vào sự cạnh tranh
tự do của tư duy, do đó, vào quyền tự do tư duy, và
vì vậy, cuối cùng, vào quyền tự do chính trị.
[7]R.
H. Tawney, Religion and The Rise of Capitalism,
ch. II, cuối mục ii.
[8]Trong
cả hai trường hợp - các thời kì lịch sử và vị trí
địa lí - chúng ta có thể thấy, dùng các lí thuyết
được kiểm chứng bằng các thí nghiệm, rằng bất kể dẫn
chiếu nào đến các vị trí không gian hay thời gian
đều có thể được thay thế bằng sự mô tả chung
nào đó về các điều kiện quan trọng thịnh hành nhất
định, như tình trạng giáo dục, hay độ cao.
[9]Cũng
kết luận này là cơ sở của cái gọi là “xã hội học
tri thức” được phê phán ở đây, ở các trang
143f., và ở chương 23 của cuốn Open Society
của tôi.
[10]K.
Mannheim, Man and Society, tr. 178, viết về
“người dân thường quan sát thế giới xã hội một cách
sáng dạ”, rằng “trong các thời kì tĩnh, trong mọi
trường hợp, anh ta không có khả năng phân biệt giữa
một quy luật xã hội chung trừu tượng và các nguyên
lí riêng chỉ có trong một thời đại nào đó, vì trong
các thời kì biến động chỉ chút ít thì sự khác biệt
giữa hai loại này là không rõ ràng đối với người
quan sát”. Mannheim gọi các nguyên lí riêng này,
những cái chỉ thịnh hành trong một thời đại nào đấy,
là “principia media” [các nguyên lí môi trường];
xem chú thích 60 dưới đây. Đối với tình hình “trong
một thời kì, nơi cấu trúc xã hội liên tục thay đổi”,
xem Mannheim, op. Cit., tr. 179f.
[11]Các
qui luật Kepler được Mill chọn như các thí dụ về cái
ông gọi, theo Bacon, là “axiomata media” [các
tiên đề môi trường], vì lí do là chúng không là
các qui luật chung về chuyển động mà chỉ là các qui
luật (gần đúng) về chuyển động hành tinh: Xem
Logic, Book, VI, ch. V, mục 5. Axioma media
tương tự của một khoa học xã hội có thể là các qui
luật đúng cho mọi “hệ thống xã hội” thuộc một
loại nào đó, hơn là những sự đều đặn ngẫu nhiên
hơn của một thời kì lịch sử cho trước. Cái sau có
thể được so sánh, không phải với các qui luật
Kepler, mà, thí dụ, với những sự đều đặn trong trật
tự của các hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta.
[12]K.
Mannheim, op. Cit., tr. 177, đưa ra từ “principia
media” với dẫn chiếu đến Mill (người nói về
axioma media; xem chú thích trước) để biểu thị
cái tôi gọi là “những khái quát hoá giới hạn ở thời
kì lịch sử cụ thể, trong đó, những quan sát liên
quan được thực hiện”; xem, thí dụ, đoạn văn sau của
ông (op. Cit., tr. 178; so sánh với chú thích
58 trên đây): “Người dân thường quan sát thế giới xã
hội một cách sáng dạ, hiểu các sự kiện trước hết
bằng vô tình dùng principia media như vậy”,
cái là “… các nguyên lí riêng thông dụng chỉ trong
một thời đại nào đó”. (Mannheim, loc. Cit.[ở
chỗ đã dẫn], định nghĩa principia media của
mình bằng cách nói rằng: Chúng là, “trong phân tích
cuối cùng, các lực phổ quát trong một sự sắp xếp cụ
thể như chúng được tích hợp từ các nhân tố hoạt động
khác nhau, ở một chỗ cho trước, tại một thời điểm
cho trước - một sự kết hợp cá biệt của những hoàn
cảnh có thể chẳng bao giờ lặp lại”). Mannheim tuyên
bố rằng ông ta không theo “chủ nghĩa lịch sử, chủ
nghĩa Hegel, và chủ nghĩa Marx” trong thất bại của
chúng để “tính đến các nhân tố phổ quát” (op.
cit., tr. 177 f.). Do đó, lập trường của ông ta
là nhấn mạnh tầm quan trọng của các khái quát hoá
được giới hạn ở các thời kì lịch sử cụ thể hay riêng
biệt, trong khi thú nhận rằng: Chúng ta có thể xuất
phát từ chúng, bằng một “phương pháp trừu tượng”,
đến “các nguyên lí chung chứa đựng trong chúng”.
(Chống lại quan điểm này, tôi không tin rằng các lí
thuyết tổng quát hơn có thể nhận được bằng việc trừu
tượng hoá từ những sự đều đặn đó của các tập quán,
các thủ tục pháp lí, v.v., những cái, theo các thí
dụ do Mannheim đưa ra ở các trang 179 ff., tạo thành
principia media của ông).
[13]Thường
được gợi ý rằng, thay cho cố gắng một cách vô ích để
theo tấm gương của vật lí học trong xã hội học, và
để tìm các qui luật xã hội học phổ quát, sẽ tốt hơn
khi đi theo tấm gương của một xã hội học lịch sử chủ
nghĩa trong vật lí học, tức là hoạt động với các qui
luật được giới hạn ở các thời kì lịch sử. Các nhà
lịch sử chủ nghĩa, những người khắc khoải nhấn mạnh
tính thống nhất của vật lí học và xã hội học, đặc
biệt thiên về suy nghĩ theo cách này. Xem Neurath,
Erkenntnis, vol. VI, tr. 399.
[14]Cũng
định đề này trong vật lí học dẫn đến, thí dụ, đòi
hỏi rằng sự dịch chuyển do quan sát được ở các đám
tinh vân xa xôi phải được giải thích; vì nếu
không có định đề này, thì sẽ hoàn toàn là đủ để giả
thiết rằng: Các qui luật về tần số nguyên tử thay
đổi với các vùng khác nhau của vũ trụ, hay với thời
gian. Và cũng chính định đề đó đã dẫn lí thuyết
tương đối đến việc phát biểu các định luật chuyển
động, như định luật cộng tốc độ, v.v., giống nhau
cho các tốc độ cao và thấp (hoặc cho các trường hấp
dẫn mạnh và yếu), và không thoả mãn với các giả
thiết ad hoc cho các lĩnh vực khác nhau về
tốc độ (hay về hấp dẫn). Về một thảo luận về “Tính
bất biến của các Qui luật Tự nhiên”, và sự phản đối
của nó đối với “Tính đồng đều của Tự nhiên”, xem
Logic of Scientific Discovery của tôi, mục 79.
|
|
|
|
|
|