Lời đề tặng
Để tưởng nhớ đến vô số đàn ông, đàn bà, và trẻ
con thuộc mọi tín ngưỡng, mọi dân tộc hay chủng
tộc, những người đã trở thành nạn nhân của lòng
tin phát-xít và cộng sản vào các quy luật không
thể lay chuyển được của vận mệnh lịch sử.
Lời giới thiệu
Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ chín
[1] của tủ sách
SOS2, cuốn Sự khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử
của Karl Popper, nhà triết học lớn nhất thế kỉ
20. Ông nổi tiếng về những nghiên cứu phương
pháp luận khoa học. Cuốn Logik der Forschung
[Logic Nghiên cứu] được xuất bản đầu tiên năm
1934 và được dịch sang tiếng Anh với tiêu đề
Logic of Scientific Discovery đã có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến phương pháp khoa học của các
khoa học tự nhiên. Cuốn sách này cũng có xuất xứ
từ các năm 1930 và lần đầu tiên được xuất bản
vào các năm 1944, 1945.
Cuốn sách này chỉ ra rằng: Lòng tin vào vận mệnh
lịch sử chỉ là sự mê tín, và không thể có sự
tiên đoán nào về diễn tiến của lịch sử loài
người bằng các phương pháp khoa học hay duy lí
khác nào.
Học thuyết tin vào vận mệnh lịch sử và tin vào
việc có thể tiên đoán diễn tiến của lịch sử, và
trên cơ sở đó, có thể cải biến xã hội một cách
tổng thể cho phù hợp với các quy luật này, được
ông gọi là chủ nghĩa lịch sử (historicism).
Trước khi phê phán chủ nghĩa lịch sử, trong hai
chương đầu, ông mô tả các thuyết lịch sử chủ
nghĩa, và chỉ sau đó, trong hai chương cuối, ông
mới phê phán nó. Tức là, trong hai chương đầu,
ông đi mô tả nghiêm ngặt điều mà ông sẽ tấn công
trong hai chương cuối. Cách làm này có điểm hay:
Phê phán của ông sẽ rất chặt chẽ, rõ ràng là nó
phê phán cái gì; chứ không như nhiều phê phán mà
chúng ta thường bắt gặp, không nêu tường minh
điều muốn phê phán là gì, nên dễ dẫn đến nhầm
lẫn. Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm: Sẽ có thể
có người cho rằng, điều ông phê phán thực ra
không có thực, mà chỉ do ông tạo ra. Phán xét
cuối cùng là của bạn đọc.
Lời đề tặng của ông có thể gây sốc cho một số
bạn đọc Việt Nam, và có lẽ chính vì nó và vì nội
dung của tiểu luận này mà ở Việt Nam (và các
nước xã hội chủ nghĩa trước đây), tác phẩm này
của Popper được ít người biết đến. Tuy vậy, đọc
kĩ, chúng ta sẽ biết được rất nhiều vấn đề mà
đến nay chúng ta chưa biết hay không được phép
biết, và có thể giúp chúng ta có phương pháp
thích hợp trong việc thực hiện cải cách xã hội,
một việc phải được tiến hành liên tục, theo cách
dần dần, từ từ, từng phần một. Chúng ta có thể
nhìn lại quá khứ của mình, của các nước xã hội
chủ nghĩa, có thể học được từ các sai lầm, thử
làm và chắc chắn sẽ vấp phải sai lầm khác, phát
hiện ra sai lầm mới, sửa chúng và lại thử tiếp.
Đó là cách tiếp cận thử-và-sai, cách tiếp cận
khoa học có hiệu quả không chỉ trong các bộ môn
khoa học tự nhiên và cả trong các bộ môn khoa
học xã hội.
Cuốn sách có thể bổ ích cho các học giả, các nhà
hoạch định chính sách, và tất cả những ai quan
tâm đến những vấn đề phương pháp luận của các bộ
môn khoa học xã hội.
Bản dịch chắc còn nhiều thiếu sót, mong bạn đọc
thông cảm, lượng thứ, và chỉ bảo; xin liên hệ
theo địa chỉ Tạp chí Tin học và Đời sống, 54
Hoàng Ngọc Phách Hà Nội [25/B7 Nam Thành Công],
hoặc qua điện thư
thds@hn.vnn.vn
hay
nqa@netnam.vn
Hà Nội 5-2004
Nguyễn Quang A
Ghi chú lịch sử
Luận đề căn bản của cuốn sách này - là lòng tin
vào vận mệnh lịch sử chỉ là sự mê tín, và rằng,
không thể có sự tiên đoán nào về diễn tiến của
lịch sử loài người bằng các phương pháp khoa học
hay duy lí khác nào - truy nguyên tới mùa đông
1919-1920. Phác thảo chính được hoàn tất vào năm
1935; nó được trình bày lần đầu tiên, vào tháng
Giêng hay tháng Hai 1936, như một bài mang tựa
đề “Sự khốn cùng của Chủ nghĩa Lịch sử”, ở một
phiên riêng tại nhà của bạn tôi, Alfred
Braunthal ở Brussels. Tại buổi gặp này, một sinh
viên trước đây của tôi đã có một số đóng góp
quan trọng cho thảo luận. Đó là Dr. Karl
Hilferding, chẳng bao lâu sau đã là nạn nhân của
Gestapo và của những mê tín của Đế chế Thứ ba.
Cũng đã có mặt một số triết gia khác. Không lâu
sau, tôi trình bày một bài tương tự trong
Seminar của Giáo sư Hayek, ở Trường Kinh tế học
London. Việc công bố bị chậm vài năm vì bản thảo
mà tôi nộp đã bị tạp chí triết học từ chối. Nó
được công bố lần đầu tiên, gồm ba phần, trong
Economica, N.S., vol. XI no. 42 và 43, năm
1944, và vol. XII, no. 46, 1945. Kể từ đó, một
bản dịch tiếng Ý (Milano, 1954) và một bản dịch
tiếng Pháp (Paris, 1956) đã được xuất bản ở dạng
sách. Văn bản của lần xuất bản này đã được soát
lại, và có một vài bổ sung.
K.R.P.
1957
Lời nói đầu
Tôi đã thử chứng minh, trong Sự khốn cùng của
Chủ nghĩa lịch sử, rằng: Chủ nghĩa lịch sử
là một phương pháp tồi - một phương pháp chẳng
có kết quả gì. Nhưng tôi đã không thật sự bẻ
được chủ nghĩa lịch sử.
Kể từ đó, tôi đã thành công trong việc bác bỏ
chủ nghĩa lịch sử: Vì tôi đã chứng minh bằng
các lí lẽ nghiêm ngặt rằng: Chúng ta không thể
tiên đoán diễn tiến tương lai của lịch sử.
Lí lẽ chứa đựng trong một bài báo, “Thuyết bất
định trong vật lí cổ điển và vật lí lượng tử”,
mà tôi công bố năm 1950. Nhưng tôi không còn
thoả mãn với bài báo này. Một nghiên cứu thoả
mãn hơn có thể thấy trong một chương về Thuyết
bất định, một phần của Tái bút: Sau
Hai mươi năm (Postscript: After Twenty
Years) cho cuốn Logic của khám phá khoa
học (Logic of Scientific Discovery)
của tôi.
Để thông báo với bạn đọc về các kết quả mới hơn
này, tôi dự định, bằng vài lời, đưa ra phác hoạ
của sự bác bỏ chủ nghĩa lịch sử này. Lí
lẽ có thể được tóm tắt trong năm khẳng định như
sau:
- Diễn tiến của lịch sử
loài người bị ảnh hưởng mạnh bởi sự gia tăng
hiểu biết của con người. (Tính đúng đắn của
tiền đề này, ngay cả những người thấy trong
các ý tưởng, bao gồm các ý tưởng khoa học
của chúng ta, chỉ như các sản phẩm phụ của
sự phát triển vật chất loại này hay
loại khác, cũng phải thừa nhận).
- Chúng ta không thể tiên
đoán, bằng các phương pháp duy lí hay khoa
học, sự gia tăng về hiểu biết khoa học của
chúng ta trong tương lai. (Khẳng định này có
thể được chứng minh về mặt logic, bằng những
cân nhắc được phác hoạ dưới đây).
- Chúng ta không thể, vì
thế, tiên đoán diễn tiến tương lai của lịch
sử loài người.
- Điều này có nghĩa rằng:
Chúng ta phải bác bỏ khả năng của lịch sử
lí thuyết; tức là, của một khoa học xã
hội lịch sử có thể tương ứng với vật lí
lí thuyết. Không thể có lí thuyết khoa
học nào về phát triển lịch sử dùng làm cơ sở
cho tiên đoán lịch sử.
- Mục đích căn bản của các
phương pháp lịch sử chủ nghĩa (xem các
chương 11 đến 16 của cuốn sách này) vì thế
là sai lầm; và chủ nghĩa lịch sử sụp đổ.
Lí lẽ, tất nhiên, không bác bỏ khả năng của mọi
loại tiên đoán xã hội; ngược lại, nó hoàn toàn
tương thích với khả năng kiểm tra các lí thuyết
xã hội - thí dụ, các lí thuyết kinh tế - bằng
cách tiên đoán những diễn biến nào đó sẽ diễn ra
dưới các điều kiện nhất định. Nó chỉ bác bỏ khả
năng tiên đoán những diễn tiến lịch sử ở chừng
mực chúng có thể bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng
hiểu biết của chúng ta.
Bước quyết định trong lập luận này là khẳng định
(2). Tôi nghĩ rằng tự nó có tính thuyết phục:
nếu có cái như hiểu biết gia tăng của con người,
thì hôm nay chúng ta không thể biết trước cái
chúng ta sẽ biết ngay chỉ ngày mai. Đây, tôi
nghĩ, là lập luận vững chắc, nhưng nó chưa được
tính là một chứng minh logic của khẳng
định. Chứng minh của (2), mà tôi trình bày trong
những công bố đã được nhắc đến, là phức tạp; và
tôi không ngạc nhiên nếu có thể thấy những chứng
minh đơn giản hơn. Chứng minh của tôi bao gồm
việc chứng tỏ rằng không có (bộ) tiên đoán
nào - bất luận là một nhà khoa học hay một
máy tính, có thể tiên đoán các kết quả tương
lai của chính nó bằng các phương pháp khoa học.
Các nỗ lực làm như vậy đạt kết quả chỉ sau sự
kiện, khi đã quá muộn cho một tiên đoán; chúng
có thể đạt kết quả chỉ sau khi tiên đoán đã biến
thành diễn giải lại.
Lí lẽ này, thuần tuý mang tính logic, áp dụng
cho các bộ tiên đoán khoa học có bất kể độ phức
tạp nào, bao gồm cả “xã hội” của các bộ tiên
đoán tương tác với nhau. Nhưng điều này có nghĩa
là không xã hội nào có thể tiên đoán các trạng
thái hiểu biết tương lai của chính nó một cách
khoa học.
Lí lẽ của tôi khá hình thức, và vì thế, nó có
thể bị nghi ngờ là không có mấy ý nghĩa thực tế,
dù cho tính hợp lệ logic của nó được cho là dĩ
nhiên.
Tuy vậy, tôi đã thử chứng tỏ tầm quan trọng của
vấn đề trong hai công trình. Trong công trình
sau của hai nghiên cứu này, trong The Open
Society and its Enemies (Xã hội mở và các
kẻ thù của nó), tôi đã lựa chọn một số sự
kiện từ lịch sử của tư tưởng lịch sử chủ nghĩa,
nhằm minh hoạ ảnh hưởng dai dẳng và nguy hại của
nó lên triết lí xã hội và chính trị, từ
Heraclitus và Plato đến Hegel và Marx. Trong
công trình trước của hai nghiên cứu này, trong
Sự khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử (The
Poverty of Historicism), bây giờ được xuất
bản lần đầu tiên bằng tiếng Anh dưới dạng sách,
tôi đã cố chỉ ra tầm quan trọng của chủ nghĩa
lịch sử như một cấu trúc trí tuệ quyến rũ. Tôi
đã cố gắng phân tích logic của nó - thường rất
tinh tế, cực kì lí thú và rất dễ đánh lừa - và
lập luận rằng nó có yếu điểm cố hữu và không thể
sửa được.
K.R. P.
Penn, Buckinghamsgire,
Tháng 7, 1957
Một vài trong các nhà phê bình am hiểu nhất của
cuốn sách này đã bị tiêu đề của nó làm cho bối
rối. Nó có ý định ám chỉ đến tiêu đề của cuốn
Sự Khốn cùng của triết học (The Poverty
of Philosophy) của Marx, tiêu đề đó đến lượt
nó, lại ám chỉ đến Philosophy of Poverty
(Triết học của sự khốn cùng) của
Proudhon.
K.R.P.
Penn, Buckinghamshire,
Tháng 7, 1959
Dẫn nhập
Mối quan tâm khoa học về các vấn đề xã hội và
chính trị hầu như không kém xưa, so với mối quan
tâm khoa học về vũ trụ học và vật lí học; và đã
có các giai đoạn trong thời cổ (Tôi nghĩ đến lí
thuyết chính trị của Platon, và sưu tập hiến
pháp của Aristotle) khi khoa học xã hội có thể
dường như đã tiến bộ hơn khoa học tự nhiên.
Nhưng với Galileo và Newton, thành công của vật
lí học đã vượt sự mong đợi, vượt xa tất cả các
khoa học khác; và từ thời Pasteur, Galileo của
sinh học, các khoa học sinh học đã hầu như thành
công ngang vậy. Nhưng các khoa học xã hội vẫn
dường như chưa tìm thấy Galileo của mình.
Trong những hoàn cảnh như vậy, các nhà nghiên
cứu làm việc trong ngành này hay ngành khác của
các bộ môn khoa học xã hội đặc biệt quan tâm đến
các vấn đề phương pháp; và phần lớn sự thảo luận
của họ về những vấn đề này được tiến hành với
cái nhìn hướng đến các phương pháp của các môn
khoa học thành công hơn, đặc biệt là vật lí học.
Thí dụ, đã có nỗ lực có ý thức để sao chép
phương pháp thực nghiệm của vật lí, điều đã dẫn,
trong thế hệ của Wundt, đến cải cách tâm lí học;
và từ J. S. Mill, đã có các nỗ lực lặp đi lặp
lại để cải cách phương pháp của các khoa học xã
hội theo hướng gần tương tự. Trong lĩnh vực tâm
lí học, những cải cách này có thể đã có mức độ
thành công nào đó, bất chấp rất nhiều thất vọng.
Nhưng trong các môn khoa học xã hội lí thuyết,
ngoài kinh tế học, chẳng được gì ngoài sự thất
vọng từ các thử nghiệm này. Khi thảo luận các
thất bại này, mau chóng nảy sinh câu hỏi: Liệu
các phương pháp của vật lí học thực sự có áp
dụng được cho các khoa học xã hội hay không. Hay
có lẽ niềm tin khăng khăng vào khả năng có thể
áp dụng chính là cái phải chịu trách nhiệm về
trạng thái đáng phàn nàn của các ngành khoa học
này?
Cách đặt vấn đề này gợi ý một sự phân loại đơn
giản các trường phái tư duy quan tâm đến phương
pháp của các khoa học ít thành công hơn. Theo
quan điểm của chúng về khả năng có thể áp dụng
các phương pháp của vật lí học, chúng ta có thể
phân loại các trường phái này như theo tự
nhiên hoặc như phản tự nhiên; gắn cho
chúng nhãn “theo tự nhiên” hay “tích cực” nếu
chúng ủng hộ việc áp dụng các phương pháp của
vật lí học cho các bộ môn khoa học xã hội, và
“phản tự nhiên” hay “tiêu cực” nếu chúng phản
đối sử dụng các phương pháp này.
Liệu một nhà nghiên cứu phương pháp tán thành
học thuyết phản tự nhiên hay theo tự nhiên, hoặc
chấp nhận một lí thuyết kết hợp cả hai học
thuyết hay không, sẽ chủ yếu phụ thuộc vào quan
điểm của ông ta về đặc trưng của khoa học được
xem xét, và đặc tính của đối tượng của nó. Nhưng
thái độ mà ông ta chấp nhận cũng sẽ phụ thuộc
vào quan điểm của ông ta về các phương pháp của
vật lí học. Tôi tin điểm sau cùng này là quan
trọng nhất. Và tôi nghĩ rằng, những sai lầm cốt
yếu trong hầu hết các cuộc thảo luận về phương
pháp luận nảy sinh từ một số hiểu lầm rất phổ
biến về các phương pháp của vật lí học. Đặc
biệt, tôi nghĩ chúng nảy sinh từ một diễn giải
sai về hình thức logic của các lí thuyết của nó,
về các phương pháp kiểm tra chúng, và về chức
năng logic của quan sát và thí nghiệm. Tôi cho
rằng những hiểu lầm này có các hậu quả nghiêm
trọng; và tôi sẽ thử biện minh luận điểm này ở
các chương 3 và 4 của nghiên cứu này. Ở đó, tôi
sẽ cố gắng chứng tỏ rằng: Các lí lẽ và học
thuyết khác nhau và đôi khi mâu thuẫn nhau, phản
tự nhiên cũng như theo tự nhiên, thực ra dựa vào
một sự hiểu sai lầm về các phương pháp của vật
lí học. Trong các chương 1 và 2, tuy vậy, tôi sẽ
giới hạn mình ở việc giải thích các học thuyết
phản tự nhiên và theo tự nhiên nào đó, tạo thành
một cách tiếp cận đặc trưng, trong đó, cả hai
loại học thuyết được kết hợp.
Cách tiếp cận, mà đầu tiên tôi muốn giải thích,
và chỉ phê phán muộn hơn, được tôi gọi là “chủ
nghĩa lịch sử”. Thường gặp nó trong các cuộc
thảo luận về phương pháp của các bộ môn khoa học
xã hội; và nó thường được dùng mà không có nhận
xét phê phán, hoặc thậm chí được coi là dĩ
nhiên. Tôi hiểu “chủ nghĩa lịch sử” nghĩa là gì
sẽ được giải thích đầy đủ trong phần nghiên cứu
này. Sẽ là đủ, nếu tôi nói ở đây rằng, tôi hiểu
“chủ nghĩa lịch sử” là một cách tiếp cận đối với
các bộ môn khoa học xã hội, cho rằng tiên
đoán lịch sử là mục đích chính của chúng, và
cho rằng mục đích này có thể đạt được bằng cách
khám phá ra các “nhịp điệu” hay “hình mẫu”, các
“quy luật” hay “xu hướng” làm cơ sở cho sự tiến
hoá của lịch sử. Vì tôi tin chắc rằng: Cuối
cùng, các học thuyết lịch sử chủ nghĩa như vậy,
về phương pháp, chịu trách nhiệm về tình trạng
thiểu não của các bộ môn khoa học xã hội lí
thuyết (ngoài lí thuyết kinh tế), trình bày của
tôi về các học thuyết này chắc chắn không phải
không có thành kiến. Nhưng tôi đã cố gắng hết
sức để biện hộ cho chủ nghĩa lịch sử, nhằm tính
điểm cho phê phán tiếp sau của tôi. Tôi đã cố
gắng để trình bày chủ nghĩa lịch sử như một
triết lí thống nhất được cân nhắc kĩ lưỡng. Và
tôi đã không do dự để tạo ra các lí lẽ ủng hộ nó
mà, theo hiểu biết của tôi, bản thân các nhà
lịch sử chủ nghĩa đã chưa bao giờ đưa ra. Tôi hi
vọng, bằng cách này, tôi đã xây đắp thành công
một vị trí thật sự đáng tấn công. Nói cách khác,
tôi đã cố gắng để hoàn thiện một lí thuyết
thường được đưa ra, nhưng có lẽ chẳng bao giờ
trong một dạng được phát triển đầy đủ. Đó là lí
do vì sao tôi đã chọn một cách có cân nhắc kĩ
lưỡng thuật ngữ hơi lạ là “chủ nghĩa lịch sử”.
Bằng cách giới thiệu nó, tôi hi vọng tránh được
trò chơi chữ đơn thuần: vì, tôi hi vọng, chẳng
ai sẽ bị cám dỗ để nghi ngờ: Liệu bất kể lí lẽ
nào được thảo luận ở đây, về bản chất, có thực
sự đúng là thuộc về chủ nghĩa lịch sử hay không,
hoặc, về bản chất, một cách chính xác, thuật ngữ
“chủ nghĩa lịch sử” thật sự có nghĩa là gì.
Chương 1: Các thuyết phản tự nhiên của chủ
nghĩa lịch sử
Ngược lại hoàn toàn với chủ nghĩa tự nhiên
phương pháp luận trong lĩnh vực xã hội học, chủ
nghĩa lịch sử cho rằng: Một vài phương pháp đặc
trưng của vật lí học không thể áp dụng được cho
các môn khoa học xã hội, do những khác biệt sâu
sắc giữa xã hội học và vật lí học. Nó bảo chúng
ta, các định luật vật lí, hoặc “các định luật tự
nhiên” có hiệu lực ở mọi nơi và mọi lúc; vì thế
giới vật lí được điều khiển bởi một hệ thống các
đại lượng vật lí đồng đều bất biến trong không
gian và thời gian. Các định luật xã hội học,
hoặc các định luật của đời sống xã hội, tuy vậy,
lại khác nhau ở các nơi và các giai đoạn khác
nhau. Mặc dù chủ nghĩa lịch sử thừa nhận rằng:
Có nhiều điều kiện xã hội điển hình mà sự tái
diễn đều đặn có thể được quan sát, nó lại từ
chối việc thừa nhận: Những sự đều đặn có thể
phát hiện được trong đời sống xã hội có đặc tính
của những sự đều đặn không thể thay đổi được của
thế giới vật lí. Vì chúng phụ thuộc vào lịch sử,
và vào những khác biệt về văn hoá. Chúng phụ
thuộc vào tình thế lịch sử cá biệt. Như
thế ta không thể, thí dụ, nói mà không nêu rõ
thêm về các quy luật kinh tế, mà chỉ có thể nói
về các quy luật kinh tế của giai đoạn phong
kiến, hay của thời kì đầu công nghiệp, và vân
vân; luôn luôn nhắc đến giai đoạn lịch sử, trong
đó, các quy luật được nói đến được cho là đã
thịnh hành.
Chủ nghĩa lịch sử khẳng định rằng: Tính tương
đối lịch sử của các quy luật xã hội làm cho hầu
hết các phương pháp của vật lí học không thể áp
dụng được cho xã hội học. Các lí lẽ lịch sử chủ
nghĩa điển hình, mà quan niệm này dựa vào, liên
quan đến khái quát hoá, thí nghiệm, tính phức
tạp của các hiện tượng xã hội, những khó khăn
của tiên đoán chính xác, và tầm quan trọng của
chủ nghĩa bản chất phương pháp luận. Tôi sẽ thảo
luận lần lượt các lí lẽ này.
Mục 1: Khái quát hoá
Theo chủ nghĩa lịch sử, khả năng của khái quát
hoá và sự thành công của nó trong các môn khoa
học vật lí dựa vào tính đồng đều phổ biến của tự
nhiên: Vào quan sát - có lẽ được mô tả đúng hơn
như một giả thiết - rằng trong các hoàn cảnh
giống nhau, những việc giống nhau xảy ra. Nguyên
lí này, được cho là có hiệu lực cả trong không
gian và thời gian, được nói là tạo cơ sở cho
phương pháp của vật lí học.
Chủ nghĩa lịch sử khẳng định rằng: Nhất thiết,
nguyên lí này vô dụng trong xã hội học. Những
hoàn cảnh giống nhau chỉ xảy ra trong phạm vi
một giai đoạn lịch sử duy nhất. Chúng chẳng bao
giờ kéo từ một giai đoạn sang giai đoạn khác. Do
đó, không có sự đồng đều dài hạn trong xã hội mà
các khái quát hoá dài hạn có thể dựa vào - tức
là, nếu chúng ta bỏ qua những sự đều đặn tầm
thường, như được chủ nghĩa vị tha mô tả rằng:
Con người luôn sống theo nhóm, hoặc rằng cung
của các thứ nào đó có giới hạn còn cung của các
thứ khác, như không khí, là vô hạn, và chỉ có
các thứ trước có thể có bất kể giá trị thị
trường hay trao đổi nào.
Theo chủ nghĩa lịch sử, một phương pháp bỏ qua
sự hạn chế này và cố khái quát hoá những đồng
đều xã hội sẽ ngầm giả thiết rằng: Những sự đều
đặn được nói đến kéo dài muôn thủa; cho nên, một
quan điểm ấu trĩ về phương pháp luận - quan điểm
cho rằng các môn khoa học xã hội có thể lấy
phương pháp khái quát hoá từ vật lí học - sẽ tạo
ra một lí thuyết xã hội học sai và lừa dối một
cách nguy hiểm. Nó sẽ là một lí thuyết từ chối,
rằng xã hội phát triển; hoặc rằng: Nó từng thay
đổi một cách đáng kể; hoặc rằng: Sự phát triển
xã hội, nếu có, có thể tác động đến những tính
đều đặn của đời sống xã hội.
Các nhà lịch sử chủ nghĩa hay nhấn mạnh rằng:
Ðằng sau các lí thuyết sai lầm như vậy, thường
có một mục đích biện giải; và thực vậy, giả
thiết về các quy luật xã hội học không thay đổi
có thể dễ bị lạm dụng cho các mục đích như vậy.
Nó có thể xuất hiện, đầu tiên, như lí lẽ cho
rằng: Các thứ khó chịu và không được ưa phải
được chấp nhận, vì chúng được các quy luật bất
biến của tự nhiên quy định. Thí dụ, “các quy
luật không lay chuyển được” của kinh tế học đã
được viện dẫn để chứng minh sự vô ích của sự can
thiệp theo luật vào việc mặc cả lương. Một sự
lạm dụng biện giải thứ hai của giả thiết về tính
dai dẳng, là nó nuôi dưỡng cảm nhận chung về
tính không thể tránh khỏi, và như thế, về sự sẵn
sàng cam chịu sự không thể tránh khỏi một cách
yên lặng và không có kháng cự. Cái hiện thời sẽ
kéo dài mãi mãi, và các mưu toan tác động đến
tiến trình của các sự kiện, hoặc ngay cả đánh
giá nó, là lố bịch: Ta không lí luận chống lại
các quy luật tự nhiên, và các mưu toan vứt bỏ
chúng chỉ có thể dẫn đến thảm hoạ.
Nhà lịch sử chủ nghĩa cho rằng, các lí lẽ bảo
thủ, biện giải, thậm chí an phận này là hệ quả
tất yếu của đòi hỏi phương pháp theo tự nhiên
phải được chấp nhận trong xã hội học.
Người theo chủ nghĩa lịch sử phản đối chúng bằng
cách xác nhận rằng: Những sự đồng đều xã hội
khác xa sự đồng đều của các môn khoa học tự
nhiên. Chúng thay đổi từ một giai đoạn lịch sử
này sang giai đoạn khác, và hoạt động của con
người là lực làm thay đổi chúng. Vì những sự
đồng đều xã hội không phải là các quy luật tự
nhiên, mà là nhân tạo; và mặc dù có thể nói:
Chúng phụ thuộc vào bản chất con người, chúng là
vậy vì bản chất con người có năng lực để thay
đổi và, có lẽ, để điều khiển chúng. Vì vậy, các
thứ có thể được làm tốt lên hay xấu đi; cải cách
tích cực không phải là vô ích.
Các xu hướng này của chủ nghĩa lịch sử hấp dẫn
những người cảm thấy có bổn phận phải tích cực;
để can thiệp, đặc biệt vào công việc đời, từ
chối việc chấp nhận hiện trạng như điều không
thể tránh khỏi. Xu hướng hành động và chống lại
sự thoả mãn thuộc bất kể loại nào có thể được
gọi là “chủ nghĩa hành động”. Tôi sẽ nói
kĩ hơn về quan hệ của chủ nghĩa lịch sử với chủ
nghĩa hành động ở các mục 17 và 18; nhưng tôi có
thể trích dẫn ở đây một lời kêu gọi nổi tiếng
của Marx, một nhà lịch sử chủ nghĩa nổi tiếng,
biểu hiện thái độ “hành động chủ nghĩa” một cách
nổi bật: “Các triết gia đã chỉ lí giải
thế giới theo những cách khác nhau; vấn đề tuy
vậy là biến đổi nó”.
[2]
Mục 2: Thí nghiệm
Vật lí học sử dụng phương pháp thí nghiệm; tức
là, nó đưa ra sự điều khiển nhân tạo, sự cô lập
nhân tạo, và do đó, đảm bảo sự tái tạo các điều
kiện tương tự, và sự tạo ra nhất quán các tác
động nhất định. Phương pháp này hiển nhiên dựa
vào ý tưởng rằng: Ở đâu các điều kiện là giống
nhau, những thứ giống nhau sẽ xảy ra. Nhà lịch
sử chủ nghĩa cho rằng phương pháp này không thể
áp dụng trong xã hội học. Nó cũng chẳng ích gì,
anh ta lập luận, ngay cả giả như có thể áp dụng
được. Vì các điều kiện giống nhau xuất hiện chỉ
trong phạm vi giới hạn của một giai đoạn duy
nhất, kết quả của bất kể thí nghiệm nào sẽ có
tầm quan trọng rất hạn chế. Hơn nữa, sự cách li
nhân tạo sẽ loại bỏ chính những nhân tố quan
trọng nhất trong xã hội học. Robinson Crusoe và
nền kinh tế đơn nhất của anh ta chẳng bao giờ có
thể là một mô hình có giá trị của một nền kinh
tế mà các vấn đề của nó nảy sinh chính từ tương
tác kinh tế của các cá nhân và các nhóm.
Họ lập luận tiếp là không thể có các thí nghiệm
có giá trị thật sự nào. Các thí nghiệm quy mô
lớn trong xã hội học chẳng bao giờ là các thí
nghiệm theo nghĩa vật lí. Chúng không được thực
hiện để làm cho tri thức với cương vị như thế
tiến bộ, mà để đạt được thành công chính trị.
Chúng không được thực hiện trong một phòng thí
nghiệm tách biệt khỏi thế giới bên ngoài; đúng
hơn, chính việc thực hiện chúng làm thay đổi các
điều kiện xã hội. Chúng chẳng bao giờ được lặp
lại dưới các điều kiện giống nhau một cách chính
xác, vì các điều kiện đã thay đổi bởi sự thực
hiện lần đầu tiên của chúng.
Mục 3: Tính mới
Lí lẽ vừa được nhắc tới đáng bàn chi tiết thêm.
Chủ nghĩa lịch sử, như tôi đã nói, từ chối khả
năng lặp lại các thí nghiệm xã hội quy mô lớn
trong các điều kiện giống nhau một cách chính
xác, vì các điều kiện của lần thực hiện thứ hai
phải bị ảnh hưởng bởi sự thực, là thí nghiệm đã
được thực hiện trước đó. Lí lẽ này dựa vào ý
tưởng rằng xã hội, giống một sinh vật, có một
loại kí ức mà chúng ta thường gọi là lịch sử của
nó.
Trong sinh học, chúng ta có thể nói về lịch sử
cuộc sống của một sinh vật, vì một sinh vật tuỳ
thuộc một phần vào các sự kiện đã qua. Nếu các
sự kiện như vậy lặp lại, thì đối với các sinh
vật, trải nghiệm sẽ mất đi đặc tính mới của
chúng, và trở nên đượm màu thói quen. Nhưng điều
này là chính xác: Vì sao trải nghiệm sự kiện lặp
lại không hệt như trải nghiệm sự kiện ban
đầu - vì sao trải nghiệm sự lặp lại là mới.
Sự lặp lại của các sự kiện quan sát được, vì
thế, có thể tương ứng với sự nổi lên của các
kinh nghiệm mới trong một nhà quan sát. Vì nó
tạo ra các thói quen mới, sự lặp lại tạo ra các
điều kiện mới, quen thuộc. Tổng toàn bộ các điều
kiện - bên trong và bên ngoài - ở đó, chúng ta
lặp lại một thí nghiệm nào đó trên cùng một sinh
vật, và vì thế, không thể là đủ giống nhau để
cho chúng ta nói về một sự lặp lại đích thực. Vì
ngay cả sự lặp lại chính xác các điều kiện môi
trường sẽ kết hợp với các điều kiện nội tại mới
trong sinh vật: Cơ thể học qua trải nghiệm.
Cũng thế, theo chủ nghĩa lịch sử, đúng với xã
hội, vì xã hội cũng trải nghiệm: Nó cũng có lịch
sử của mình. Nó có thể chỉ học chậm chạp từ
những lặp lại (một phần) lịch sử của nó, nhưng
không thể nghi ngờ là nó có học, ở chừng mực nó
bị tuỳ thuộc vào quá khứ của nó. Các truyền
thống và lòng trung thành với truyền thống và sự
oán giận, sự tin cậy và sự nghi kị, nếu khác đi
có thể không đóng vai trò quan trọng của chúng
trong đời sống xã hội. Sự lặp lại thật sự, vì
vậy, phải là không thể trong lịch sử xã hội; và
điều này có nghĩa là phải cho rằng các sự kiện
mang đặc tính mới thực chất sẽ nổi lên. Lịch sử
có thể tự lặp lại - nhưng chẳng bao giờ ở cùng
mức, đặc biệt nếu các sự kiện liên quan có tầm
quan trọng lịch sử, và nếu chúng có ảnh hưởng
dài lâu lên xã hội.
Trong thế giới được vật lí học mô tả, chẳng gì
mới thực sự và thực chất có thể xảy ra. Một động
cơ mới có thể được sáng chế, nhưng chúng ta luôn
có thể phân tích nó như sự tái sắp xếp của các
yếu tố, những cái là bất kể thứ gì song không
mới. Tính mới trong vật lí học đơn thuần là tính
mới về sự sắp xếp hay tổ hợp. Hoàn toàn đối lập
với điều này, tính mới xã hội, giống tính mới
sinh học, là một loại thực chất của tính mới,
nhà lịch sử chủ nghĩa khăng khăng. Nó là tính
mới thật sự, không thể quy về tính mới của sự
sắp xếp. Vì trong đời sống xã hội, cùng các nhân
tố cũ trong một sự sắp xếp mới chẳng bao giờ
thực sự là cùng các nhân tố cũ. Nơi chẳng gì có
thể tự lặp lại một cách chính xác, tính mới thực
sự phải luôn hiện ra. Điều này được coi là quan
trọng cho việc cân nhắc về sự tiến triển của các
giai đoạn hay thời kì mới của lịch sử, mỗi giai
đoạn đó lại khác nhau về bản chất.
Chủ nghĩa lịch sử cho rằng: Chẳng gì quan trọng
hơn sự nổi lên của một thời kì mới thực sự. Khía
cạnh vô cùng quan trọng này của đời sống xã hội
không thể được nghiên cứu theo cùng cách, mà
chúng ta đã quen theo, khi giải thích các tính
mới trong lĩnh vực vật lí bằng cách coi chúng
như sự tái sắp xếp của các nguyên tố quen thuộc.
Dù cho các phương pháp thông thường của vật lí
học, giả như có được ứng dụng cho xã hội, chúng
chẳng bao giờ áp dụng được cho các đặc tính quan
trọng nhất của nó: Sự phân chia thành các thời
kì, và sự nổi lên của tính mới. Một khi lĩnh hội
được tầm quan trọng của tính mới xã hội, chúng
ta buộc phải từ bỏ ý tưởng: Việc áp dụng các
phương pháp vật lí bình thường cho các vấn đề xã
hội học có thể giúp chúng ta hiểu các vấn đề
tiến triển xã hội.
Có một khía cạnh nữa của tính mới xã hội. Chúng
ta đã thấy rằng: Mọi biến cố xã hội cá biệt, mỗi
sự kiện đơn nhất trong đời sống xã hội, có thể
được cho là mới, theo một nghĩa nào đó. Nó có
thể được phân loại với các sự kiện khác; nó có
thể giống các sự kiện đó ở các khía cạnh nào đó;
nhưng nó sẽ luôn là đơn nhất theo một cách rất
xác định. Điều này, ở chừng mực liên quan đến
giải thích sinh học, dẫn đến một trạng thái khác
rõ rệt với trạng thái trong vật lí học. Có thể
hình dung rằng, bằng phân tích đời sống xã hội,
chúng ta có thể có khả năng khám phá ra, và hiểu
một cách trực giác, bất cứ sự kiện cá biệt nào
xảy ra thế nào và vì sao; rằng: Chúng ta có thể
hiểu rõ ràng nguyên nhân và kết quả của
nó - các lực gắn với nó và ảnh hưởng của nó đến
các sự kiện khác. Tuy nhiên, chúng ta có thể
thấy là mình không có khả năng trình bày các quy
luật chung, những điều có thể dùng như một sự mô
tả các mối liên kết nhân quả như vậy một cách
tổng quát. Vì nó có thể là tình huống xã hội học
cá biệt duy nhất, không phải khác, có thể được
giải thích bằng các lực cá biệt mà chúng ta đã
khám phá ra. Và các lực này có thể đúng là đơn
nhất: Chúng có thể nổi lên chỉ một lần, trong
tình huống xã hội cá biệt này, và chẳng bao giờ
trở lại.
Mục 4: Tính phức tạp
Tình thế phương pháp luận vừa được phác hoạ có
một số khía cạnh khác nữa. Một khía cạnh đã được
thảo luận rất thường xuyên (và sẽ không được
thảo luận ở đây) là vai trò xã hội học của các
nhân vật vô song nào đó. Một khía cạnh khác của
các khía cạnh này là tính phức tạp của các hiện
tượng xã hội. Trong vật lí học, chúng ta đối phó
với một chủ thể ít phức tạp hơn nhiều; bất chấp
điều đó, chúng ta còn đơn giản hoá hơn nữa một
cách nhân tạo bằng phương pháp cô lập thí
nghiệm. Do phương pháp này không thể áp dụng
được trong xã hội học, chúng ta đối mặt với sự
phức tạp gấp đôi - một sự phức tạp nảy sinh do
tính không thể cô lập một cách nhân tạo, và một
sự phức tạp do sự thực là đời sống xã hội là một
hiện tượng tự nhiên giả định trước cuộc sống
tinh thần của các cá nhân, tức là tâm lí học,
điều mà đến lượt nó, lại giả định trước sinh
học, điều lại giả định trước hoá học và vật lí
học. Sự thực là xã hội học đứng cuối trong thứ
bậc này của các môn khoa học, cho chúng ta thấy
một cách rõ ràng sự phức tạp kinh khủng của các
nhân tố dính líu đến đời sống xã hội. Cho dù có
sự đồng đều mà xã hội học không thể biến đổi
được, như sự đồng đều trong lĩnh vực vật lí, có
thể chúng ta hoàn toàn không có khả năng tìm ra
chúng, vì sự phức tạp kép này. Song nếu chúng ta
không thể tìm ra nó, thì có ít giá trị trong chủ
trương là: Tuy thế, chúng tồn tại.
Mục 5: Tính không chính xác của tiên đoán
Những cuộc thảo luận về các học thuyết theo tự
nhiên sẽ chỉ ra rằng: Chủ nghĩa lịch sử có thiên
hướng nhấn mạnh tầm quan trọng của tiên đoán như
một trong những nhiệm vụ của khoa học. (Về khía
cạnh này, tôi hoàn toàn đồng ý, dù tôi không
tin rằng tiên tri lịch sử là một trong
các nhiệm vụ của các môn khoa học xã hội). Thế
nhưng, chủ nghĩa lịch sử lí luận rằng: Tiên đoán
xã hội phải là rất khó khăn, không chỉ vì tính
phức tạp của các cấu trúc xã hội, mà cũng vì
tính phức tạp lạ kì nảy sinh từ liên kết giữa
các tiên đoán và các sự kiện được tiên đoán.
Ý tưởng cho rằng sự tiên đoán có thể có ảnh
hưởng lên sự kiện được tiên đoán là một ý tưởng
rất cổ. Oedipus, trong truyền thuyết, đã giết
cha mình, người ông chưa bao giờ thấy trước đó;
và điều này là kết quả trực tiếp của lời tiên
tri đã khiến cha ông từ bỏ ông. Đó là lí do vì
sao tôi gợi ý tên “hiệu ứng Oedipus” cho
ảnh hưởng của sự tiên đoán lên sự kiện được tiên
đoán (hoặc, tổng quát hơn, cho ảnh hưởng của một
món thông tin lên tình hình mà thông tin dẫn
chiếu đến), bất luận ảnh hưởng này có xu hướng
gây ra sự kiện được tiên đoán, hay có xu hướng
ngăn cản nó.
Các nhà lịch sử chủ nghĩa gần đây chỉ ra rằng:
Loại ảnh hưởng này có thể là thích đáng cho các
môn khoa học xã hội; điều đó có thể làm tăng sự
khó khăn trong việc đưa ra các tiên đoán chính
xác và gây nguy hiểm cho tính khách quan của
chúng. Họ nói rằng: Các hậu quả vô lí có thể rút
ra từ giả thiết rằng, các môn khoa học xã hội đã
từng có thể được phát triển đến mức cho phép các
dự báo chính xác của mọi loại sự thực và
sự kiện xã hội, và giả thiết này, vì thế có thể
bị bác thuần tuý trên cơ sở logic. Vì, nếu giả
như một loại lịch xã hội, khoa học, như vậy mới
được lập ra và trở nên quen biết (không thể giữ
bí mật nó lâu, vì về nguyên tắc, nó có thể được
bất kể ai tái khám phá ra), chắc chắn nó sẽ gây
ra các hành động làm đảo lộn các tiên đoán của
nó. Giả sử, thí dụ, được tiên đoán là giá cổ
phần sẽ tăng trong ba ngày và sau đó sụt giảm.
Hiển nhiên, mọi người có quan hệ với thị trường
sẽ bán vào ngày thứ ba, gây sụt giá vào ngày đó
và chứng minh tiên đoán là sai. Tóm lại, ý tưởng
về một lịch chính xác và chi tiết của các sự
kiện xã hội là tự mâu thuẫn; và các tiên đoán xã
hội khoa học chính xác và chi tiết vì vậy
là không thể thực hiện được.
© 2004 talawas
[1]
Chú thích của dịch giả: Các quyển trước gồm:
- J. Kornai: Con đường dẫn
tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt
Nam 2001, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin
(NXB VHTT) 2002.
- J. Kornai: Hệ thống Xã
hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002
- J. Kornai- K. Eggleston:
Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002
- G. Soros: Giả kim thuật
tài chính, sắp xuất bản
- H. de Soto: Sự bí ẩn của
tư bản, sắp xuất bản (Nhà Xuất bản Chính trị
Quốc gia, 2004)
- J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa
xã hội đi về đâu?sắp xuất bản
- F.A. Hayek: Con đường dẫn
tới chế độ nông nô, sắp xuất bản
- G. Soros: Xã hội Mở, sắp
xuất bản
[2]Xem
luận đề mười một của These on Feuerbach (1845)
của ông; xem cả mục 17, ở dưới.
|
|
|