Chương 3: Phê phán
các thuyết phản tự
nhiên của chủ nghĩa
lịch sử
Mục 19: Mục tiêu
thực tiễn của phê
phán này
Ở đây không cần trả
lời cho câu hỏi,
liệu động cơ thật
của sự điều tra khoa
học là khát vọng để
biết, tức là, sự tò
mò thuần tuý lí
thuyết hay “vô
dụng”, hoặc đúng
hơn, chúng ta phải
hiểu khoa học như
một công cụ để giải
quyết các vấn đề
thực tiễn, nảy sinh
trong cuộc đấu tranh
vì cuộc sống hay
không. Phải thừa
nhận rằng: Những
người bảo vệ quyền
của nghiên cứu
“thuần tuý” hay “cơ
bản” xứng đáng nhận
mọi sự ủng hộ trong
cuộc đấu tranh của
họ chống lại quan
điểm thiển cận, đáng
tiếc lại hợp thời,
cho rằng nghiên cứu
khoa học chỉ được
biện minh, nếu nó
chứng tỏ đó là một
khoản đầu tư lành
mạnh.
[1]
Nhưng ngay cả quan
điểm hơi cực đoan
(mà cá nhân tôi
thiên về), cho rằng
khoa học trở nên có
ý nghĩa nhất, chính
như một trong những
sự phiêu lưu tinh
thần lớn nhất mà con
người từng biết đến,
có thể được kết hợp
với sự thừa nhận tầm
quan trọng của các
vấn đề thực tiễn và
các kiểm chứng thực
tiễn cho sự tiến bộ
của khoa học, bất
luận ứng dụng hay
thuần tuý; vì thực
tiễn là vô giá cho
suy tư khoa học, cả
như một sự kích
thích lẫn như một
dây cương. Chẳng cần
phải theo chủ nghĩa
thực dụng để có thể
đánh giá cao câu nói
của Kant: “Chạy theo
mọi ý thích bất chợt
của tính tò mò, và
để cho niềm đam mê
hiểu biết chẳng bị
hạn chế nào ngoài
các giới hạn về khả
năng của chúng ta,
điều này chứng tỏ
một sự hăm hở trí
tuệ xứng với khoa
học. Nhưng chính
sự sáng suốt
là cái có giá trị về
lựa chọn, từ vô số
các vấn đề được bày
ra, chọn ra các vấn
đề mà lời giải của
chúng là quan trọng
cho nhân loại.”
[2]
Ðiều này rõ ràng
được áp dụng cho các
môn khoa học sinh
học, và có lẽ còn rõ
ràng hơn nữa cho các
môn khoa học xã hội.
Việc cải cách các
môn khoa học sinh
học của Pasteur đã
được tiến hành dưới
sự kích thích của
các vấn đề rất thực
tiễn. Và ngày nay,
sự cấp bách của các
nghiên cứu xã hội đã
vượt quá sự cấp bách
của việc nghiên cứu
ung thư. Như Giáo sư
Hayek nói, “phân
tích kinh tế chẳng
bao giờ là sản phẩm
của sự tò mò trí tuệ
tách biệt về cái
vì sao của các
hiện tượng xã hội,
mà là của một sự
thôi thúc mãnh liệt
để tái kiến thiết
một thế giới, gây ra
sự bất mãn sâu sắc”;
[3]
và một số môn khoa
học xã hội, khác
kinh tế học, vẫn
chưa chấp nhận quan
điểm này, chứng tỏ,
bởi sự cằn cỗi của
các kết quả của
chúng, rằng: Sự suy
đoán của chúng cần
đến sự hạn chế thực
tiễn đến chừng nào.
Sự cần thiết đối với
sự kích thích của
các vấn đề thực tiễn
cũng rõ ngang thế,
khi chúng ta xem xét
việc khảo sát các
phương pháp nghiên
cứu khoa học, và đặc
biệt hơn, các
phương pháp khái
quát hoá hay các môn
khoa học xã hội lí
thuyết mà chúng
ta quan tâm ở đây.
Các cuộc tranh luận
có kết quả hơn về
phương pháp luôn
được truyền cảm hứng
bởi các vấn đề thực
tiễn đối mặt với nhà
nghiên cứu; và ngược
lại, gần như tất cả
các tranh luận về
phương pháp nhưng
không được truyền
cảm hứng được đặc
trưng bởi sự bới
lông tìm vết vô ích,
làm cho phương pháp
luận mang tiếng xấu
trước nhà nghiên cứu
thực hành. Phải nhận
ra rằng: Các cuộc
tranh luận phương
pháp luận thuộc loại
thực tiễn hơn, không
chỉ là hữu ích mà
còn là cần thiết.
Trong việc phát
triển và cải thiện
phương pháp, cũng
như của bản thân
khoa học, chúng ta
học chỉ bằng thử và
sai, và chúng ta cần
sự phê phán của
những người khác
nhằm tìm ra sai lầm
riêng của mình; và
sự phê phán này càng
quan trọng hơn vì
đưa các phương pháp
mới vào, có thể có
nghĩa là một sự thay
đổi mang tính căn
bản và cách mạng.
Tất cả điều này có
thể được minh hoạ
bởi các thí dụ, như
đưa các phương pháp
toán học vào kinh tế
học, hoặc đưa cái
gọi là các phương
pháp “chủ quan” hay
“tâm lí học” vào lí
thuyết giá trị. Một
thí dụ mới đây, là
sự kết hợp của các
phương pháp của lí
thuyết này với các
phương pháp thống kê
(“phân tích cầu”).
Cuộc cách mạng cuối
cùng này về phương
pháp đã một phần là
kết quả của các cuộc
tranh luận kéo dài
và rất phê phán; một
sự thực mà từ đó
người biện hộ cho sự
nghiên cứu phương
pháp chắc chắn có
thể lấy ra niềm cổ
vũ. Cách tiếp cận thực
tiễn cho việc nghiên
cứu của cả các môn
khoa học xã hội lẫn
phương pháp của
chúng được nhiều
người theo chủ nghĩa
lịch sử chủ trương,
những người hi vọng
rằng: Họ sẽ có khả
năng biến đổi các
môn khoa học xã hội
thành một công cụ
hùng mạnh trong tay
các nhà chính trị
bằng cách dùng các
phương pháp lịch sử
chủ nghĩa. Chính
việc nhận ra nhiệm
vụ thực tiễn của các
môn khoa học xã hội
đã cung cấp một cái
gì đó giống một nền
tảng chung cho sự
thảo luận giữa các
nhà lịch sử chủ
nghĩa và một số đối
thủ của họ; và tôi
sẵn sàng lấy lập
trường của mình trên
nền tảng chung này
để phê phán chủ
nghĩa lịch sử như
một phương pháp
nghèo nàn, không
có khả năng mang lại
các kết quả mà nó
hứa hẹn.
Mục 20: Cách tiếp
nhận kĩ thuật đến xã
hội học
Mặc dù chủ đề của
tôi trong việc
nghiên cứu này là
chủ nghĩa lịch sử,
một học thuyết
phương pháp mà tôi
không tán thành, hơn
là các phương pháp
mà, theo tôi, đã
thành công, và tôi
khuyến nghị phát
triển chúng thêm nữa
và có ý thức hơn,
trước tiên, sẽ hữu
ích để đề cập ngắn
ngọn đến các phương
pháp thành công, để
tiết lộ cho độc giả
biết thiên kiến
riêng của tôi và để
làm rõ quan điểm làm
cơ sở cho sự phê
phán của tôi. Để
thuận tiện, tôi sẽ
gắn cho các phương
pháp này cái nhãn “kĩ
thuật từng phần”.
Thuật ngữ “công nghệ
xã hội” (và thuật
ngữ “kĩ thuật xã
hội”, “cải biến xã
hội”
[4]
được đưa ra ở mục
tiếp còn hơn thế)
chắc sẽ gây nghi
ngờ, và gây khó chịu
cho những người mà
nó gợi nhớ đến các
“kế hoạch xã hội”
của các nhà kế hoạch
hoá tích cực chủ
nghĩa, hay ngay cả
của các “nhà kĩ
trị”. Tôi nhận ra
mối nguy hiểm này,
cho nên tôi chua
thêm từ “từng phần”,
cả để bù lại những
liên tưởng không
mong muốn và bày tỏ
niềm tin chắc của
tôi rằng “vá víu dần
dần” (đôi khi nó
được gọi thế), kết
hợp với phân tích
phê phán, là cách
chủ yếu để đạt các
kết quả thực tiễn
trong khoa học xã
hội cũng như tự
nhiên. Các môn khoa
học xã hội được phát
triển chủ yếu thông
qua việc phê phán
các kiến nghị cải
thiện xã hội hay,
chính xác hơn, thông
qua các các nỗ lực
để tìm ra, liệu hành
động kinh tế hay
chính trị cá biệt
nào đó chắc có tạo
ra kết quả kì vọng,
hoặc mong muốn hay
không.
[5]
Cách tiếp cận này,
thật ra có thể được
gọi là cách tiếp cận
kinh điển, là điều
tôi nghĩ khi tôi
nhắc đến cách tiếp
cận kĩ thuật cho
khoa học xã hội,
hoặc cho “kĩ thuật
xã hội từng phần-
piecemeal social
technology”. Các vấn đề kĩ thuật
trong lĩnh vực khoa
học xã hội có thể
mang tính “tư nhân”
hay “công cộng”. Thí
dụ, nghiên cứu kĩ
thuật quản trị kinh
doanh, hay nghiên
cứu ảnh hưởng của
các điều kiện làm
việc được cải thiện
lên đầu ra, thuộc
nhóm thứ nhất. Những
nghiên cứu ảnh hưởng
của cải cách nhà tù
hay của bảo hiểm y
tế phổ quát, hay của
ổn định giá cả bằng
các công cụ toà án,
hay của việc đưa ra
các loại thuế nhập
khẩu mới, v. v.,
lên, thí dụ, sự quân
bình hoá thu nhập,
thuộc nhóm thứ hai;
cũng thế với các vấn
đề thực tiễn cấp
bách nhất hiện nay,
như khả năng kiểm
soát các chu kì
thương mại; hay vấn
đề: liệu “kế hoạch
hoá” tập trung, hiểu
theo nghĩa nhà nước
quản lí sản xuất, có
tương thích với sự
kiểm soát chính
quyền một cách dân
chủ và có hiệu quả
hay không; hay vấn
đề xuất khẩu dân chủ
sang Trung Đông thế
nào. Sự nhấn mạnh về cách
tiếp cận kĩ thuật
thực tiễn này không
có nghĩa rằng: Phải
loại trừ bất kể vấn
đề lí thuyết nào có
thể nảy sinh từ sự
phân tích các vấn đề
thực tiễn. Ngược
lại, chính một trong
các điểm nhấn chủ
yếu của tôi là: Cách
tiếp cận kĩ thuật
chắc tỏ ra có kết
quả trong việc tạo
ra các vấn đề thuần
tuý lí thuyết quan
trọng. Nhưng, trong
nhiệm vụ căn bản về
việc lựa chọn các
vấn đề, bên cạnh
việc giúp chúng ta,
cách tiếp cận kĩ
thuật áp đặt một kỉ
luật lên các thiên
hướng suy đoán của
chúng ta (mà, đặc
biệt trong lĩnh vực
xã hội học, dễ dẫn
chúng ta đến lĩnh
vực của siêu hình
học); vì nó buộc các
lí thuyết của chúng
ta phải tuân theo
các tiêu chuẩn xác
định, như các tiêu
chuẩn về tính sáng
sủa và tính có thể
kiểm tra thực tiễn.
Có lẽ có thể trình
bày quan điểm của
tôi về cách tiếp cận
kĩ thuật bằng cách
nói rằng: Xã hội học
(và có lẽ các môn
khoa học xã hội nói
chung) phải tìm
kiếm, thực ra không
phải các “Newton hay
Darwin của mình”,
[6]
mà đúng hơn là các
Galileo, hay Pasteur
của mình. Điều này và các dẫn
chiếu trước của tôi
đến sự tương tự giữa
các phương pháp của
các môn khoa học xã
hội và khoa học tự
nhiên chắc cũng gây
nhiều phản đối như
sự lựa chọn thuật
ngữ “công nghệ xã
hội” và “kĩ thuật xã
hội”, “cải biến xã
hội” của chúng ta
(điều này, bất chấp
sự dè dặt quan
trọng, được biểu lộ
bởi từ “từng phần”).
Chính vì thế, tốt
hơn cho tôi khi nói
rằng: Tôi hoàn toàn
đánh giá cao tầm
quan trọng của cuộc
chiến chống chủ
nghĩa tự nhiên
phương pháp luận
giáo điều hay “chủ
nghĩa khoa học –
scientism” (dùng
từ của Giáo sư
Hayek). Tuy nhiên,
tôi không thấy, vì
sao chúng ta lại
không sử dụng sự
tương tự này, chừng
nào nó còn có kết
quả, cho dù chúng ta
thừa nhận rằng nó bị
lạm dụng một cách
tồi tệ và bị lí giải
sai trong một số
giới. Ngoài ra, khó
khăn lắm chúng ta
mới có thể có một lí
lẽ mạnh mẽ chống lại
các nhà tự nhiên chủ
nghĩa giáo điều này,
hơn là lí lẽ chứng
tỏ rằng: Một số
phương pháp mà họ
công kích, về cơ bản
là giống các phương
pháp được dùng trong
các môn khoa học tự
nhiên. Trước tiên, sự phản
đối chống lại cái mà
chúng ta gọi là cách
tiếp cận kĩ thuật là
nó ngụ ý sự chấp
nhận một thái độ
“tích cực chủ nghĩa”
đối với trật tự xã
hội (xem mục 1), và
chính vì thế, nó làm
cho chúng ta có
thành kiến chống lại
quan điểm chống can
thiệp hay “thụ động
chủ nghĩa”: Quan
điểm cho rằng: Nếu
chúng ta bất mãn với
các điều kiện xã hội
và kinh tế hiện tại,
chính vì chúng ta
không hiểu chúng
hoạt động thế nào,
và vì sao sự can
thiệp tích cực chỉ
có thể làm cho sự
việc tồi tệ hơn. Bây
giờ tôi phải thú
nhận rằng: Tôi chắc
chắn không có thiện
cảm với quan điểm
“thụ động” này, và
thậm chí, tôi tin là
một chính sách của
chủ nghĩa chống can
thiệp phổ quát
là không thể đứng
vững được - ngay cả
vì lí do thuần tuý
logic, vì những
người ủng hộ nó nhất
định sẽ kiến nghị
can thiệp chính trị
nhằm ngăn chặn can
thiệp. Tuy nhiên,
bản thân cách tiếp
cận kĩ thuật là
trung lập trong
chuyện này (như thực
ra nó phải vậy), và
chẳng hề không tương
thích với chủ nghĩa
chống can thiệp.
Ngược lại, tôi nghĩ
rằng, chủ nghĩa
chống can thiệp đòi
hỏi một cách tiếp
cận kĩ thuật. Vì
khẳng định rằng: Chủ
nghĩa can thiệp làm
cho vấn đề tồi tệ
hơn là nói rằng các
hành động chính trị
nào đó sẽ không có
các tác động nào đó
- tức là, không có
những tác động mong
muốn; và một trong
các nhiệm vụ đặc
trưng nhất của bất
kể công nghệ nào là
đi chỉ ra cái gì
là không thể đạt
được. Bõ công xem xét điểm
này kĩ lưỡng hơn.
Như tôi đã chỉ ra ở
nơi khác,
[7]
mọi định luật tự
nhiên đều có thể
được phát biểu bằng
việc khẳng định
rằng: Một thứ nào
đó không thể xảy ra;
tức là một câu có
dạng của một ngạn
ngữ: “Không thể mang
nước trong sàng
được”. Thí dụ, định
luật bảo toàn năng
lượng có thể được
phát biểu bằng:
“Không thể xây dựng
động cơ vĩnh cửu”,
và định luật về
entropy bằng:
“Không thể xây dựng
một máy có hiệu suất
một trăm phần trăm”.
Cách phát biểu các
định luật tự nhiên
này là cách phát
biểu làm cho tầm
quan trọng công nghệ
là hiển nhiên, và vì
thế, nó có thể được
gọi là “dạng kĩ
thuật” của định
luật tự nhiên. Nếu
bây giờ, chúng ta
xem xét chủ nghĩa
chống can thiệp theo
ánh sáng này, thì
chúng ta thấy ngay
rằng: Nó có thể được
phát biểu tốt bằng
các câu có dạng:
“Không thể đạt được
các kết quả như thế
và như thế”, hay có
lẽ, “không thể đạt
được các mục đích
như thế và như thế,
mà không có các tác
động đi kèm như thế
và như thế”. Nhưng
điều này chứng tỏ:
Chủ nghĩa chống can
thiệp có thể được
gọi là một học
thuyết kĩ thuật
điển hình. Nó, tất nhiên, không
phải là duy nhất
trong lĩnh vực khoa
học xã hội. Ngược
lại, ý nghĩa của sự
phân tích của chúng
ta nằm ở sự thực: Nó
lưu ý đến sự tương
tự thật sự căn bản
giữa các môn khoa
học tự nhiên và khoa
học xã hội. Tôi nghĩ
tới sự tồn tại của
các định luật hay
giả thuyết xã hội
học tương tự như các
định luật hay giả
thuyết của các môn
khoa học tự nhiên.
Vì sự tồn tại của
các định luật hay
giả thuyết xã hội
học (khác với cái
gọi là “các quy luật
lịch sử”) như vậy
thường bị nghi ngờ,
[8]
bây giờ tôi sẽ đưa
ra một loạt thí dụ:
“Chúng ta không thể
đưa ra các loại thuế
nông nghiệp và đồng
thời giảm giá sinh
hoạt”. - “Trong một
xã hội công nghiệp,
chúng ta không thể
tổ chức các nhóm áp
lực người tiêu dùng
hữu hiệu như có thể
tổ chức các nhóm áp
lực người sản xuất
nào đó”. - “Chúng ta
không thể có một xã
hội kế hoạch hoá tập
trung với một hệ
thống giá thực hiện
các chức năng chủ
yếu của giá cả cạnh
tranh”. - “Chúng ta
không thể có công ăn
việc làm đầy đủ mà
không có lạm phát”.
Một nhóm thí dụ khác
có thể lấy ra từ
lĩnh vực chính trị
học quyền lực:
“Chúng ta không thể
đưa ra một cải cách
chính trị mà không
gây ra các hậu quả
nào đó không đáng
mong muốn nhìn từ
quan điểm của các
mục đích đặt ra” (vì
vậy, cần phải chú ý
tới chúng). - “Chúng
ta không thể đưa ra
một cải cách chính
trị mà không củng cố
các lực lượng chống
đối, đại thể ở mức
độ tỉ lệ với phạm vi
của cải cách”. (Điều
này có thể coi là
một hệ quả kĩ thuật
của định lí “Luôn có
các nhóm lợi ích gắn
với status quo
[hiện trạng]”).
- “Chúng ta không
thể làm một cuộc
cách mạng mà không
gây ra sự phản
động”. Thêm vào các
thí dụ này, chúng ta
có thể đưa ra hai
định luật mà chúng
ta có thể gọi là
“định luật cách mạng
của Plato” (lấy từ
quyển thứ tám của
Republic) và
“định luật tham
nhũng của Lord
Acton”: “Chúng ta
không thể tiến hành
một cuộc cách mạng
thành công nếu giai
cấp thống trị không
bị yếu đi do sự chia
rẽ nội bộ hay bị
đánh bại trong chiến
tranh”. - “Chúng ta
không thể cho một
người quyền lực trên
những người khác mà
không cám dỗ hắn ta
lạm dụng nó - một sự
cám dỗ tăng đại thể
với quyền lực nắm
được, và rất ít
người có khả năng
cưỡng lại sự cám dỗ
đó”.
[9]
Chẳng có gì được giả
thiết ở đây về sức
mạnh của bằng chứng
sẵn có để ủng hộ các
giả thuyết này, mà
sự trình bày chúng
chắc chắn còn nhiều
chỗ để cải thiện.
Chúng đơn thuần là
các thí dụ về loại
các tuyên bố mà kĩ
thuật từng phần có
thể thử thảo luận,
và chứng minh.
Mục 21: Cải biến
từng phần đối lại
cải biến không tưởng
Bất chấp những liên
tưởng đáng chê trách
gắn với thuật ngữ
“kĩ thuật”, “cải
biến” [engineering],
[10]
tôi sẽ dùng thuật
ngữ “cải biến xã hội
từng phần” để mô tả
sự áp dụng thực tiễn
của các kết quả kĩ
thuật từng phần.
Thuật ngữ là hữu ích
vì có nhu cầu về một
thuật ngữ bao phủ
các hoạt động xã
hội, tư nhân cũng
như công cộng, mà để
thực hiện mục tiêu
hay mục đích nào đó,
nó sử dụng một cách
có ý thức tất cả các
tri thức công nghệ
sẵn có.
[11]
Cải biến xã hội từng
phần giống công việc
của kĩ sư vật lí
trong việc: Coi các
mục đích là vượt
quá phạm vi công
nghệ. (Tất cả những
điều mà công nghệ có
thể nói về các mục
đích là liệu chúng
có tương thích với
nhau hay không, hoặc
có thể thực hiện
được hay không).
Trong khía cạnh này,
nó khác với chủ
nghĩa lịch sử, chủ
nghĩa coi các mục
đích của các hoạt
động của con người
là phụ thuộc vào các
lực lượng lịch sử,
và như thế, thuộc
lãnh địa của nó. Hệt như nhiệm vụ
chính của kĩ sư là
thiết kế các máy móc
và tu sửa và bảo
quản chúng, nhiệm vụ
của kĩ sư cải biến
xã hội từng phần là
thiết kế các định
chế xã hội, và tái
tổ chức và vận hành
các tổ chức đã tồn
tại rồi. Thuật ngữ
“định chế xã hội”
được sử dụng ở đây
theo nghĩa rất rộng,
bao gồm các hội đồng
mang tính tư nhân
cũng như công cộng.
Như thế, tôi sẽ dùng
nó để mô tả một
doanh nghiệp, bất
luận là một cửa hiệu
nhỏ hay một công ti
bảo hiểm, và cũng
như thế, một trường
học, hay một “hệ
thống giáo dục”,
công an, hay một Nhà
thờ, hay một toà án.
Kĩ thuật viên hay kĩ
sư cải biến xã hội
từng phần thừa nhận
rằng: Chỉ một
thiểu số các định
chế xã hội là được
thiết kế một cách có
chủ ý, trong khi
tuyệt đại đa số đúng
là chỉ “mọc lên” như
kết quả không cố ý
của các hành động
của con người.
[12]
Nhưng dù anh ta có
thể bị sự thực quan
trọng này gây ấn
tượng đến đâu, với
tư cách một kĩ thuật
viên hay kĩ sư, anh
ta sẽ xem xét chúng
từ quan điểm “chức
năng” hay “công cụ”.
[13]
Anh ta sẽ thấy chúng
như các công cụ cho
các mục đích xác
định nào đó, hay có
thể hoán cải để phục
vụ cho các mục đích
nào đó; như các máy
móc hơn là như các
sinh vật. Điều này,
tất nhiên, không có
nghĩa rằng anh ta sẽ
bỏ qua những khác
biệt căn bản giữa
các định chế và các
công cụ vật lí.
Ngược lại, kĩ thuật
viên phải nghiên cứu
những khác biệt cũng
như những sự tương
tự, trình bày kết
quả của mình ở dạng
các giả thuyết. Và
thực vậy, không khó
để trình bày các giả
thuyết về các định
chế ở dạng kĩ thuật,
như các thí dụ sau
đây chứng tỏ: “Chúng
ta không thể xây
dựng các định chế
hoàn toàn đảm bảo,
tức là, các định chế
mà hoạt động của
chúng không phụ
thuộc nhiều vào nhân
sự: Các định chế,
nhiều nhất, có thể
làm giảm sự không
chắc chắn của yếu tố
nhân sự, bằng cách
giúp những người làm
việc cho các mục
tiêu dự kiến của các
định chế, mà thành
công phần lớn phụ
thuộc vào sáng kiến
và hiểu biết riêng
của họ. (Các định
chế giống như các
pháo đài. Chúng phải
được thiết kế khéo
và có những
người bảo vệ thoả
đáng)’.
[14]
Cách tiếp cận đặc
trưng của kĩ sư cải
biến từ từ là thế
này. Ngay dù cho, có
lẽ anh ta có thể ấp
ủ một số lí tưởng
liên quan đến xã hội
“như một tổng thể” -
có thể, thí dụ phúc
lợi chung của xã hội
- anh ta không tin
vào phương pháp tái
thiết kế nó như một
tổng thể. Bất luận
các mục đích của anh
ta là gì, anh ta cố
đạt chúng bằng những
điều chỉnh và tái
điều chỉnh nhỏ,
những điều chỉnh có
thể liên tục được
cải thiện. Các mục
đích của anh ta có
thể thuộc các loại
khác nhau, thí dụ,
tích tụ của cải hay
quyền lực cho các cá
nhân nào đó, hay cho
các nhóm nào đó; hay
phân phát của cải và
quyền lực; hay bảo
vệ “các quyền” nào
đó của các cá nhân
hay nhóm, v. v. Như
thế, cải biến xã hội
công cộng hay chính
trị có thể có các xu
hướng cực kì khác
nhau, toàn trị cũng
như tự do. (Các thí
về các chương trình
tự do sâu rộng cho
cải cách từng phần
được W. Lippmann đưa
ra dưới tiêu đề “The
Agenda of Liberalism
- Chương trình nghị
sự của Chủ nghĩa tự
do”
[15]
). Kĩ sư cải biến từ
từ, giống như
Socrates, biết là
mình biết ít bao
nhiêu. Anh ta biết
rằng chúng ta có thể
học chỉ từ các sai
lầm của mình. Do đó,
anh ta luôn tiến
từng bước một, cẩn
trọng so sánh các
kết quả mong đợi với
các kết quả đạt
được, và luôn luôn
coi chừng các hậu
quả không mong muốn
nhưng không tránh
khỏi của bất kể cải
cách nào; và anh ta
sẽ tránh tiến hành
các cải cách có độ
phức tạp và phạm vi
làm cho anh ta không
thể tách bạch các
nguyên nhân và tác
động, và để biết
điều gì anh ta thực
sự đang làm. “Sự mày mò vá víu từ
từ” như vậy không
phù hợp với tính khí
chính trị của nhiều
“nhà tích cực chủ
nghĩa”. Chương trình
của họ, cũng được mô
tả như chương trình
“cải biến xã hội -
social
engineering”, có
thể được gọi là cải
biến “chỉnh thể -
holistic” hay
“cải biến Không
tưởng - Utopian
engineering”.
Cải biến xã hội
chỉnh thể hay Không
tưởng, ngược với cải
biến xã hội từ từ,
chẳng bao giờ mang
tính “tư nhân” mà
luôn luôn mang tính
“công cộng”. Nó nhắm
tới việc tổ chức lại
“toàn bộ xã hội” phù
hợp với một kế hoạch
hay sơ đồ xác định;
nó nhắm tới việc
“chiếm lấy các vị
trí then chốt”
[16]
và tới việc mở rộng
“quyền lực của Nhà
nước… cho đến khi
Nhà nước trở nên gần
như đồng nhất với xã
hội”,
[17]
và, hơn nữa, từ các
“vị trí then chốt”
này, nó nhắm tới
việc kiểm soát các
lực lượng lịch sử
tạo hình cho tương
lai của xã hội đang
phát triển: Hoặc
bằng cách chặn sự
phát triển này lại,
hay bằng cách nhìn
thấy trước diễn tiến
của nó và điều chỉnh
xã hội theo nó. Có lẽ có thể nảy
sinh câu hỏi, liệu
các cách tiếp cận
từng phần và chỉnh
thể được mô tả ở đây
là khác nhau căn
bản, vì chúng ta
không đưa ra các
giới hạn cho phạm vi
của cách tiếp cận từ
từ. Như cách tiếp
cận này được hiểu ở
đây, cải cách hiến
pháp, thí dụ, đúng
là nằm trong phạm vi
của nó; tôi cũng sẽ
chẳng loại trừ khả
năng của một loạt
cải cách từng phần
có thể do một xu
hướng chung gây cảm
hứng, thí dụ, do một
xu hướng tiến tới sự
bình quân hoá lớn
hơn về thu nhập.
Theo cách này, các
phương pháp từ từ có
thể dẫn đến những
thay đổi của cái
thường được gọi là
“cấu trúc giai cấp
của xã hội”. Có thể
hỏi, liệu có bất kể
sự khác biệt nào
giữa các loại cải
biến từng phần tham
vọng hơn này và cách
tiếp cận chỉnh thể
hoặc Không tưởng hay
không? Và câu hỏi
này có thể thậm chí
trở nên khẩn thiết
hơn, nếu chúng ta
xem xét điều đó, khi
cố gắng đánh giá
những hậu quả khả dĩ
của một cải cách nào
đó được đề xuất, kĩ
thuật viên cải biến
từng phần phải hết
sức nỗ lực để ước
lượng các tác động
của bất kể biện pháp
nào lên “toàn bộ” xã
hội. Trả lời câu hỏi này,
tôi sẽ không thử
vạch một đường ranh
giới chính xác giữa
hai phương pháp,
nhưng tôi sẽ thử đưa
ra quan điểm rất
khác nhau mà kĩ
thuật viên chỉnh thể
và từng phần xem xét
công việc cải cách
xã hội. Các nhà
chỉnh thể bác bỏ
cách tiếp cận từng
phần, do họ cho là
quá khiêm tốn. Sự
bác bỏ của họ, tuy
vậy, không hoàn toàn
hợp với thực tiễn
của họ; vì trong
thực tiễn, họ luôn
luôn bị trượt lại
vào việc áp dụng hơi
bừa bãi và vụng về,
dẫu cho nhiều tham
vọng và tàn nhẫn,
điều về cơ bản là
một phương pháp từng
phần nhưng không có
tính thận trọng và
tự-phê bình của nó.
Lí do là, trong thực
tiễn, phương pháp
chỉnh thể hoá ra là
không thể thực hiện
được; những thay đổi
chỉnh thể được thử
làm càng lớn bao
nhiêu, thì những tác
động trở lại không
dự kiến và phần lớn
không mong đợi càng
lớn bấy nhiêu, buộc
kĩ sư chỉnh thể phải
dùng cách ứng
biến từng phần.
Thực ra, cách làm
này là đặc trưng cho
kế hoạch hoá tập
trung hay tập thể
hơn là cho sự can
thiệp từng phần,
thận trọng và khiêm
tốn hơn; và nó liên
tục dẫn kĩ sư Không
tưởng đến việc làm
những điều mà anh ta
không có ý định làm;
tức là, nó dẫn đến
hiện tượng khét
tiếng về kế hoạch
hoá không có kế
hoạch (unplanned
planning). Như
vậy sự khác biệt
giữa cải biến Không
tưởng và từng phần
hoá ra, trong thực
tiễn, là một sự khác
biệt không phải về
quy mô và phạm vi,
mà về sự thận trọng
và về sự chuẩn bị
sẵn sàng đối với
những điều bất ngờ
không tránh khỏi. Ta
cũng có thể nói
rằng, trong thực
tiễn, hai phương
pháp khác nhau
theo cách khác chứ
không phải về quy mô
và phạm vi - ngược
với cái chúng ta chờ
đợi, nếu so sánh hai
học thuyết
liên quan đến các
phương pháp thích
hợp về cải cách xã
hội duy lí. Trong
hai học thuyết này,
tôi cho rằng một cái
đúng, trong khi
phương pháp khác là
sai và nhất thiết
dẫn tới các sai lầm
có thể sửa chữa
được, nhưng trầm
trọng. Trong hai
phương pháp, tôi cho
rằng một là có thể,
trong khi phương
pháp khác đơn giản
không tồn tại: Không
thể thực hiện được.
Vì thế, một trong
những khác biệt giữa
cách tiếp cận Không
tưởng hay chỉnh thể
và cách tiếp cận
từng phần có thể
được phát biểu theo
cách này: Trong khi
kĩ sư cải biến từng
phần có thể tấn công
vấn đề của mình với
một đầu óc mở về
phạm vi của cải
cách, nhà chỉnh thể
không thể làm điều
này; vì anh ta đã
quyết định trước
rồi, rằng: Một sự
tái thiết toàn bộ là
có thể và cần thiết.
Sự thực này có các
hệ quả sâu rộng. Nó
làm cho nhà Không
tưởng có định kiến
chống lại các giả
thuyết xã hội học
nhất định, các giả
thuyết nêu ra các
hạn chế đối với sự
kiểm soát định chế;
thí dụ, giả thuyết
được nhắc tới ở trên
trong mục này, bày
tỏ tính bất định do
yếu tố nhân sự, do
“nhân tố con người”.
Bằng việc bác bỏ
a priori [một cách
tiên nghiệm] các
giả thuyết như vậy,
cách tiếp cận Không
tưởng vi phạm các
nguyên lí của phương
pháp khoa học. Một
mặt, các vấn đề gắn
với tính bất định
của nhân tố con
người phải buộc nhà
Không tưởng, bất
luận anh ta thích nó
hay không, phải thử
kiểm soát nhân tố
con người bằng các
công cụ định chế, và
phải mở rộng chương
trình của mình sao
cho để bao trùm
không chỉ biến đổi
xã hội, theo kế
hoạch, mà cũng có cả
biến đổi con người.
[18]
“Vấn đề chính trị,
vì vậy, là tổ
chức những thôi thúc
của con người
theo cách sao cho
chúng sẽ hướng năng
lực của họ đến các
điểm chiến lược đúng
đắn, và lái toàn bộ
quá trình phát triển
theo hướng mong
muốn”. Dường như,
tuột khỏi sự chú ý
của nhà Không tưởng
cả tin, là sự thực:
Chương trình của anh
ta bao hàm một sự
thú nhận thất bại,
ngay cả trước khi
anh ta khởi động nó.
Vì nó thay đòi hỏi
của anh ta, cho rằng
chúng ta phải xây
dựng một xã hội mới,
phù hợp cho cuộc
sống của con người,
bằng đòi hỏi sau:
Chúng ta phải “nhào
nặn” con người cho
phù hợp với xã hội
mới của anh ta. Điều
này, rõ ràng, loại
bỏ bất kể khả năng
nào để kiểm tra sự
thành công hay thất
bại của xã hội mới.
Vì những người không
thích sống trong xã
hội mới bằng cách
đó, họ chỉ thừa nhận
rằng họ vẫn chưa
thích hợp để sống
trong đó; rằng
“những thôi thúc con
người” của họ cần
được “tổ chức” thêm.
Nhưng không có khả
năng kiểm tra, thì
mọi đòi hỏi, rằng
một phương pháp
“khoa học” được sử
dụng, đều tan biến
mất. Cách tiếp cận
chỉnh thể là không
tương thích với một
thái độ khoa học
thực sự. Kĩ thuật cải biến
Không tưởng không
phải là một trong
những chủ đề chính
của cuộc nghiên cứu
này, nhưng có hai lí
do, vì sao nó được
xem xét ở ba mục
tiếp theo, cùng với
chủ nghĩa lịch sử.
Thứ nhất, vì dưới
tên kế hoạch hoá tập
thể (hay tập trung),
nó là học thuyết rất
thời thượng, mà từ
đó “kĩ thuật từng
phần - piecemeal
technology” và
“cải biến từng phần
- piecemeal
engineering”
phải được phân biệt
rõ rệt. Thứ hai, vì
chủ nghĩa Không
tưởng không chỉ
giống chủ nghĩa lịch
sử trong sự thù địch
của nó với cách tiếp
cận từng phần, mà
cũng thường thường
xuyên hợp lực với hệ
tư tưởng lịch sử chủ
nghĩa.
Mục 22: Liên minh
tội lỗi với chủ
nghĩa không tưởng
Mill đã nhận ra rõ
ràng sự đối lập giữa
hai cách tiếp cận
phương pháp luận mà
tôi gọi là “kĩ thuật
từng phần” và “chủ
nghĩa lịch sử”. Ông
viết, “có hai loại
khảo sát xã hội
học”:
[19]
“Ở loại thứ nhất,
câu hỏi được đề xuất
là, … thí dụ, tác
động của …việc đưa
ra bỏ phiếu phổ
thông, trong điều
kiện hiện thời của
xã hội sẽ là gì?…
Nhưng cũng có một
khảo sát thứ hai…
Trong đó… câu hỏi,
không phải là tác
động của một nguyên
nhân cho trước trong
một trạng thái nào
đó của xã hội sẽ là
gì, mà là các nguyên
nhân nào gây ra …các
Trạng thái Xã hội
nói chung?” Xét rằng “các Trạng
thái Xã hội” của
Mill tương ứng chính
xác với cái chúng ta
gọi là “các giai
đoạn lịch sử”, rõ
ràng là sự phân biệt
của ông giữa “hai
loại khảo sát xã hội
học” tương ứng với
sự phân biệt của
chúng ta giữa cách
tiếp cận kĩ thuật
từng phần và cách
tiếp cận của chủ
nghĩa lịch sử; và
điều này còn hiển
nhiên hơn, nếu chúng
ta theo sát hơn mô
tả của Mill về “loại
khảo sát xã hội học
thứ hai” mà (dưới
ảnh hưởng của Comte)
ông tuyên bố là ưu
việt hơn loại thứ
nhất, mà ông mô tả
như sử dụng điều mà
ông gọi là “phương
pháp lịch sử”. Như được chỉ ra ở
trên (trong các mục
1, 17 và 18), chủ
nghĩa lịch sử không
đối kháng với “chủ
nghĩa tích cực”. Xã
hội học lịch sử chủ
nghĩa, thậm chí có
thể được diễn giải
như một loại công
nghệ có thể giúp
(như Marx diễn đạt)
để “rút ngắn và làm
nhẹ bớt cơn đau đẻ”
của một giai đoạn
lịch sử. Và thực
vậy, trong mô tả của
Mill về phương pháp
lịch sử, chúng ta có
thể thấy ý tưởng này
được trình bày rất
giống cách trình bày
của Marx:
[20]
“Phương pháp được
phân tích đặc điểm ở
đây là cái mà theo
đó…các quy luật…về
tiến bộ xã hội phải
được tìm ra. Với sự
giúp đỡ của nó, sau
này, chúng ta có thể
thành công không chỉ
trong sự nhìn xa vào
lịch sử tương lai
của nhân loại, mà cả
trong việc xác định
loại công cụ nhân
tạo nào có thể được
sử dụng… để đẩy
nhanh sự phát triển
tự nhiên ở chừng mức
mà nó có lợi…
[21]
Các chỉ dẫn thực
tiễn như vậy, dựa
trên cơ sở của ngành
cao nhất của xã hội
học suy đoán, sẽ tạo
thành phần cao quý
nhất và lợi ích nhất
của Nghệ thuật Chính
trị.” Như đoạn trích này
cho biết, sự khác
biệt giữa cách tiếp
cận của tôi và cách
tiếp cận lịch sử chủ
nghĩa không phải
trong chừng mực mà
cách trước có tính
kĩ thuật mà là có
tính kĩ thuật
từng phần. Trong
chừng mực chủ nghĩa
lịch sử có tính kĩ
thuật, cách tiếp cận
của nó không là từng
phần, mà là “chỉnh
thể”. Cách tiếp cận của
Mill được chứng tỏ
rất rõ ràng là chỉnh
thể khi ông giải
thích việc ông hiểu
“Trạng thái của Xã
hội” (hay giai đoạn
lịch sử) là gì: “Cái
được gọi là một
trạng thái của xã
hội”, ông viết, “…
là trạng thái đồng
thời của tất cả các
sự thực hay hiện
tượng xã hội lớn
hơn”. Các thí dụ về
những sự thực này
inter alia [không kể
những cái khác]
là: “Trạng thái của
công nghiệp, của cải
và phân phối nó”; xã
hội “phân chia thành
các giai cấp, và các
quan hệ của các giai
cấp đó với nhau; các
niềm tin chung mà họ
nuôi dưỡng…; hình
thức chính phủ của
họ, và cái quan
trọng hơn của các
luật và tập quán của
họ”. Tóm lại, Mill
đặc trưng các trạng
thái của xã hội như
sau: “Các trạng thái
của xã hội giống như
… các thời kì trong
cơ thể; chúng là
tình trạng không
phải trong một hay
vài cơ quan hay chức
năng, mà là của
toàn bộ cơ thể”.
[22]
Chính chỉnh thể luận
này là cái phân biệt
triệt để nhất chủ
nghĩa lịch sử khỏi
bất kể kĩ thuật từng
phần nào, và là cái
làm cho liên minh
của nó với các loại
nào đó của cải biến
xã hội chỉnh thể hay
Không tưởng là có
thể. Đây chắc chắn là một
liên minh hơi lạ kì;
vì như chúng ta đã
thấy (ở mục 15), có
một xung đột rất rõ
ràng giữa cách tiếp
cận chỉnh thể và
cách tiếp cận của kĩ
sư hay kĩ thuật viên
xã hội, với điều
kiện chúng ta hiểu
kĩ thuật cải biến xã
hội là xây dựng các
định chế xã hội theo
kế hoạch. Theo quan
điểm của chủ nghĩa
lịch sử, cách tiếp
cận lịch sử chủ
nghĩa chống lại bất
cứ loại cải biến xã
hội nào một cách
triệt để, hệt như
cách tiếp cận của
một nhà khí tượng
học đối với cách của
nhà ảo thuật làm
mưa; vì vậy, các nhà
lịch sử chủ nghĩa
tấn công sự cải biến
xã hội (ngay cả cách
tiếp cận từng phần)
như Không tưởng.
[23]
Bất chấp điều đó,
chúng ta thấy, chủ
nghĩa lịch sử liên
minh rất thường
xuyên với đúng các ý
tưởng đó, các ý
tưởng điển hình của
cải biến xã hội
chỉnh thể hay Không
tưởng, như ý tưởng
về “các bản thiết kế
cho một trật tự
mới”, hay về “kế
hoạch hoá tập
trung”. Hai đại diện đặc
trưng của liên minh
này là Plato và
Marx. Plato, một
người bi quan, tin
rằng mọi thay đổi -
hay hầu như mọi thay
đổi - đều suy đồi;
đây là quy luật của
ông về phát triển
lịch sử. Vì vậy, kế
hoạch Không tưởng
của ông nhắm tới
chặn mọi thay đổi;
[24]
cái ngày nay có thể
được gọi là kế hoạch
“tĩnh”. Mặt khác,
Marx, một người lạc
quan, và có thể
(giống Spencer) là
một người ủng hộ một
lí thuyết đạo đức
lịch sử chủ nghĩa.
Vì vậy, kế hoạch
Không tưởng của ông
là một xã hội phát
triển hay “động” hơn
là một xã hội bị hãm
lại. Ông đã tiên
đoán, và đã cố thúc
đẩy một cách tích
cực, một sự phát
triển đạt cực độ
trong một xã hội
Không tưởng lí tưởng
không biết đến sự áp
bức chính trị hay
kinh tế nào: Nhà
nước tiêu vong, mỗi
người hợp tác tự do
theo năng lực của
mình, và mọi nhu cầu
đều được thoả mãn.
Yếu tố mạnh nhất
trong liên minh giữa
chủ nghĩa lịch sử và
chủ nghĩa Không
tưởng, không nghi
ngờ gì, chính là
cách tiếp cận chỉnh
thể là chung cho cả
hai. Chủ nghĩa lịch
sử quan tâm đến phát
triển, không phải
phát triển các khía
cạnh của đời sống xã
hội, mà là phát
triển “xã hội như
một tổng thể”; và
cải biến Không
tưởng, cũng vậy, là
chỉnh thể. Cả hai
đều bỏ qua một sự
thực quan trọng sẽ
được xác lập ở mục
tiếp - sự thực rằng
“cái tổng thể” theo
nghĩa này chẳng bao
giờ có thể là đối
tượng của khảo cứu
khoa học. Cả hai đều
không hài lòng với
“vá víu từng phần”
và “mày mò tẩn mẩn”:
Họ muốn theo các
phương pháp triệt để
hơn. Và cả nhà lịch
sử chủ nghĩa lẫn nhà
Không tưởng dường
như bị ấn tượng, và
đôi khi thậm chí bị
xao xuyến sâu sắc,
bởi kinh nghiệm thay
đổi môi trường xã
hội (một kinh nghiệm
thường là khủng
khiếp, và đôi khi
được mô tả như một
“tai hoạ xã hội”).
Vì vậy, cả hai, họ
đều cố hợp lí hoá sự
thay đổi này, một
người bằng cách tiên
đoán diễn tiến của
phát triển xã hội,
và người khác bằng
cách khăng khăng cho
rằng: Phải kiểm soát
nghiêm ngặt và hoàn
toàn sự thay đổi,
hoặc thậm chí phải
chặn nó lại hoàn
toàn. Sự kiểm soát
phải là hoàn toàn,
vì trong bất kể lĩnh
vực nào không được
kiểm soát như vậy
của đời sống xã hội,
có thể có các lực
lượng nguy hiểm ẩn
nấp, các lực lượng
gây ra những thay
đổi không lường
trước được. Một mối liên kết
khác giữa nhà lịch
sử chủ nghĩa và nhà
Không tưởng là cả
hai đều tin rằng:
Các mục tiêu hay mục
đích của họ không
phải là chuyện lựa
chọn, hay là chuyện
quyết định đạo đức,
mà là họ có thể khám
phá ra chúng một
cách khoa học trong
phạm vi lĩnh vực
khảo cứu của họ. (Về
điểm này, họ khác
với kĩ thuật viên
hay kĩ sư cải biến
từng phần, và giống
hệt như kĩ sư vật
lí). Cả nhà lịch sử
chủ nghĩa lẫn nhà
Không tưởng đều tin
rằng: Họ có thể tìm
ra các mục tiêu hay
mục đích thật của
“xã hội” là gì; thí
dụ, bằng cách xác
định các xu hướng
lịch sử của nó, hoặc
bằng cách chuẩn đoán
“các nhu cầu của
thời đại họ”. Như
thế, họ dễ chấp nhận
một loại lí thuyết
đạo đức lịch sử chủ
nghĩa nào đó (xem
mục 18). Không ngẫu
nhiên khi hầu hết
các tác giả, những
người chủ trương “kế
hoạch hoá” Không
tưởng, đều nói với
chúng ta rằng: Kế
hoạch hoá là đơn
giản không thể tránh
được, vì lịch sử đi
theo hướng này; và
chúng ta phải lập kế
hoạch, bất luận muốn
hay không.
[25]
Theo cùng phong cách
lịch sử chủ nghĩa,
các tác giả này quở
trách các đối thủ
của mình là lạc hậu
về tinh thần, và tin
rằng: Nhiệm vụ chủ
yếu của họ là “đập
tan thói quen cũ kĩ
của tư duy, và tìm
ra các chìa khoá mới
cho sự hiểu biết thế
giới đang thay đổi”.
[26]
Họ khẳng định:
“Không thể ảnh hưởng
đến, hay thậm chí,
làm trệch đi một
cách thành công” các
xu hướng của sự thay
đổi xã hội, cho đến
khi chúng ta từ bỏ
cách tiếp cận từng
phần, hay “tinh thần
‘mày mò tẩn mẩn’”.
Nhưng có thể nghi
ngờ, liệu “tư duy ở
mức kế hoạch hoá”
[27]
mới có gì mới mẻ hay
không, như nó được
cho là, vì chỉnh thể
luận dường như là
đặc trưng của tư duy
khá cổ xưa, từ Plato
trở đi. Đích thân
tôi tin vào một lí
lẽ biện hộ khá tốt
cho quan điểm này,
rằng: Cách tư duy
chỉnh thể (dù về “xã
hội” hay về “tự
nhiên”) còn rất xa
mới đại diện cho một
trình độ cao hay
giai đoạn mới nhất
về phát triển của tư
duy, mà là đặc trưng
của giai đoạn
tiền-khoa học.
Mục 23: Phê phán
chỉnh thể luận
Sau khi đã tiết lộ
thiên kiến riêng của
mình, và đã phác hoạ
quan điểm làm cơ sở
cho phê phán của
tôi, cũng như sự đối
lập giữa cách tiếp
cận từng phần và chủ
nghĩa lịch sử và chủ
nghĩa Không tưởng,
bây giờ, tôi bắt đầu
công việc chính của
mình, khảo sát các
học thuyết lịch sử
chủ nghĩa. Tôi bắt
đầu với một phê phán
ngắn gọn của chỉnh
thể luận, vì đây
chính là là một
trong những vị trí
cốt yếu của lí
thuyết cần tấn công.
Có một sự mơ hồ cơ
bản trong việc sử
dụng từ “toàn bộ -
whole” trong
văn khoa chỉnh thể
luận. Nó được dùng
để biểu thị (a)
tổng thể (totality)
tất cả các tính chất
hay khía cạnh của
một sự vật, và đặc
biệt, tổng tất cả
các quan hệ tồn tại
giữa các thành tố
của nó, và (b)
các tính chất hay
khía cạnh đặc biệt
nhất định của sự vật
được nói đến, cụ thể
là những điều làm
cho nó hiện ra như
một cấu trúc có tổ
chức, thay vì là một
“đống đơn thuần”.
Cái toàn bộ theo
nghĩa (b)
được làm thành đối
tượng nghiên cứu
khoa học, đặc biệt
bởi cái gọi là
trường phái tâm lí
học “Gestalt”
[28]
; và thực ra, chẳng
có lí do vì sao
chúng ta lại không
nghiên cứu các khía
cạnh như vậy như các
sự đều đặn của cấu
trúc (thí dụ, tính
đối xứng) có thể
thấy trong các sự
vật nhất định như
các sinh vật, hay
các trường điện, hay
các máy móc. Có thể
nói về các thứ có
các cấu trúc như
vậy, như lí thuyết
Gestalt diễn
đạt, rằng chúng là
nhiều hơn tổng gộp -
“nhiều hơn tổng đơn
thuần của thành phần
của chúng”. Bất kể thí dụ nào
của lí thuyết
Gestalt cũng có
thể được dùng để
chứng tỏ rằng: Những
cái toàn bộ theo
nghĩa (b) là
rất khác những cái
toàn bộ theo nghĩa (a).
Nếu, chúng ta suy
xét cùng với các nhà
lí thuyết Gestalt,
thì một giai điệu là
nhiều hơn tập hợp
hay trình tự đơn
thuần của các âm mà
chúng ta chọn ra để
xem xét. Nó là một
khía cạnh có thể
phân biệt rõ ràng
khỏi các khía cạnh
khác, như độ cao
tuyệt đối của âm đầu
tiên của các âm này,
hay cường độ trung
bình tuyệt đối của
chúng. Và còn có các
khía cạnh Gestalt
khác thậm chí trừu
tượng hơn các khía
cạnh của giai điệu,
thí dụ, nhịp điệu;
vì xem xét nhịp
điệu, chúng ta bỏ
qua ngay cả độ cao
tương đối, vốn quan
trọng đối với giai
điệu. Bởi là chọn
lọc như vậy, nghiên
cứu về một
Gestalt, và cùng
với nó, về bất kể
cái toàn bộ theo
nghĩa (b)
nào, là khác biệt rõ
ràng với nghiên cứu
cái tổng thể, tức
là, cái toàn bộ theo
nghĩa (a).
Cho nên, sự thực là
những cái toàn bộ
theo nghĩa (b)
có thể được nghiên
cứu một cách khoa
học không được viện
dẫn đến nhằm biện hộ
cho một đòi hỏi hoàn
toàn khác, rằng
những cái toàn bộ
theo nghĩa (a)
có thể cũng được
nghiên cứu như thế.
Đòi hỏi sau phải bị
bác bỏ. Nếu chúng ta
muốn nghiên cứu một
sự vật, chúng ta
nhất thiết phải chọn
ra các khía cạnh
nhất định của nó.
Chúng ta không thể
quan sát hay mô tả
toàn bộ một miếng
của thế giới hay của
tự nhiên; thực ra,
ngay cả toàn bộ một
miếng nhỏ nhất cũng
chẳng thể được mô tả
như vậy, vì mọi mô
tả nhất thiết phải
mang tính chọn lọc.
[29]
Thậm chí có thể nói
rằng: Những cái toàn
bộ theo nghĩa (a)
chẳng bao giờ có thể
là đối tượng của bất
kể hoạt động khoa
học hay hoạt động
khác nào. Nếu lấy
một sinh vật và vận
chuyển nó sang một
chỗ khác, sau đó ta
quan hệ với nó như
với một cơ thể sống,
bỏ qua nhiều khía
cạnh khác của nó.
Nếu chúng ta giết
nó, thì chúng ta đã
huỷ hoại các tính
chất nhất định của
nó, nhưng chẳng bao
giờ tất cả. Thực ra,
có lẽ chúng ta không
thể phá huỷ tổng thể
của các tính chất
của nó và của tất cả
các mối quan hệ nội
tại giữa các thành
phần của nó, ngay cả
nếu chúng ta đập nát
hay đốt cháy nó. Nhưng thực ra, những
cái toàn thể theo
nghĩa tổng thể không
thể là đối tượng
nghiên cứu khoa học,
hay của bất kể hoạt
động nào khác, như
điều khiển hay tái
xây dựng, dường như
đã tuột khỏi sự chú
ý của các nhà chỉnh
thể luận, ngay cả
trong số họ, cũng có
những người thừa
nhận, như một quy
tắc, rằng khoa học
mang tính chọn lọc.
[30]
Họ không nghi ngờ
khả năng hiểu biết
khoa học về những
cái toàn bộ xã hội
(theo nghĩa tổng
thể) vì họ dựa vào
tiền lệ của tâm lí
học Gestalt.
Vì họ tin là sự khác
biệt giữa cách tiếp
cận Gestalt
và sự nghiên cứu
những cái toàn bộ xã
hội (social
wholes) theo
nghĩa (a),
bao hàm “cấu trúc
của tất cả các sự
kiện xã hội và lịch
sử của một thời
đại”, chỉ đơn thuần
dựa vào sự thực,
rằng một Gestalt
có thể được lĩnh hội
bằng cảm nhận trực
giác trực tiếp, còn
những cái toàn bộ xã
hội là “quá phức tạp
để thoáng nhìn là có
thể hiểu được”, cho
nên chúng “chỉ có
thể được lĩnh hội từ
từ sau suy nghĩ kéo
dài, trong đó, mọi
yếu tố được ghi
chép, so sánh, và
kết hợp”.
[31]
Tóm lại, các nhà
chỉnh thể luận đã
không thấy, rằng cảm
nhận Gestalt
đơn giản chẳng dính
dáng gì đến những
cái toàn bộ theo
nghĩa (a) cả,
rằng mọi sự hiểu
biết, bất luận trực
giác hay tản mạn,
đều phải có các khía
cạnh trừu tượng, và
rằng, chúng ta chẳng
bao giờ có thể lĩnh
hội “cấu trúc cụ thể
của bản thân thực
tại xã hội”.
[32]
Do bỏ qua điểm này,
họ khăng khăng cho
rằng: Phải bổ sung
sự nghiên cứu “chi
tiết vụn vặt” của
các chuyên gia bằng
một phương pháp
“tích hợp” hay “tổng
hợp”, hướng tới việc
xây dựng lại “toàn
bộ quá trình”; và họ
khẳng định rằng “xã
hội học sẽ tiếp tục
bỏ qua vấn đề căn
bản, chừng nào các
chuyên gia từ chối
xem xét các vấn đề
của họ như một tổng
thể”.
[33]
Nhưng phương pháp
chỉnh thể luận này
nhất thiết chỉ đơn
thuần là một chương
trình. Chẳng bao giờ
họ nêu ra được một
thí dụ về mô tả khoa
học của một tình
trạng xã hội toàn
bộ, cụ thể. Và nó
không thể được trích
dẫn, vì trong mỗi
trường hợp như vậy,
có thể luôn dễ để
chỉ ra các khía cạnh
đã bị bỏ qua; các
khía cạnh tuy thế
lại có thể là quan
trọng nhất trong một
bối cảnh khác nào
đó. Thế mà các nhà chỉnh
thể luận không chỉ
có kế hoạch nghiên
cứu toàn bộ xã hội
bằng một phương pháp
không thể dùng được,
mà họ cũng có kế
hoạch điều khiển và
tái kiến thiết xã
hội của chúng ta
“như một tổng thể”.
Họ tiên tri rằng:
“Quyền lực Nhà nước
nhất thiết tăng lên,
cho đến khi Nhà nước
trở nên gần như đồng
nhất với xã hội”.
[34]
Trực giác được đoạn
này bày tỏ là đủ rõ.
Nó là trực giác toàn
trị.
[35]
Tuy nhiên, ngoài
việc truyền đạt trực
giác này, lời tiên
tri còn có nghĩa gì?
Thuật ngữ “xã hội”,
tất nhiên, bao gồm
mọi quan hệ xã hội,
kể cả mọi quan hệ cá
nhân; các quan hệ
của bà mẹ đối với
đứa con cũng như các
quan hệ của viên
chức lo phúc lợi trẻ
em đối với mỗi người
trong hai mẹ con. Vì
nhiều lí do nên hoàn
toàn không thể kiểm
soát được tất cả,
hay “gần như” tất
cả, các mối quan hệ
này; ngay chỉ vì mỗi
lí do là mỗi sự kiểm
soát mới đối với các
quan hệ xã hội,
chúng ta lại tạo ra
một loạt các quan hệ
xã hội mới cần phải
kiểm soát. Tóm lại,
tính không thể này
là tính bất khả
logic.
[36]
(Nỗ lực này dẫn tới
một sự hồi quy [quay
lui] vô tận; tình
hình giống như thử
nghiên cứu
toàn bộ xã hội -
việc phải bao hàm cả
chính sự nghiên cứu
ấy). Thế nhưng,
không nghi ngờ gì là
các nhà Không tưởng
có kế hoạch, chính
xác hơn, đi thử cái
không thể; vì họ bảo
chúng ta, bên cạnh
các thứ khác, rằng
thậm chí có thể
“nhào nặn sự giao
thiệp cá nhân theo
một cách thực tế
hơn”.
[37]
(Tất nhiên, chẳng ai
nghi ngờ là những
cái toàn bộ theo
nghĩa (b) có
thể được nhào nặn
hay kiểm soát, hay
thậm chí tạo ra,
ngược với những cái
toàn bộ theo nghĩa (a);
chúng ta có thể tạo
ra một giai điệu;
song điều này chẳng
liên quan gì đến các
mơ ước kiểm soát
toàn bộ Không tưởng
cả). Ngần ấy điều về chủ
nghĩa Không tưởng.
Trong chừng mực liên
quan đến chủ nghĩa
lịch sử, tình hình
cũng tuyệt vọng như
vậy. Các nhà chỉnh
thể lịch sử chủ
nghĩa thường quả
quyết, bằng ẩn ý,
rằng phương pháp
lịch sử là thoả đáng
cho việc nghiên cứu
cái toàn bộ theo
nghĩa tổng thể.
[38]
Nhưng khẳng định này
dựa vào một sự hiểu
lầm. Nó là kết quả
của sự kết hợp một
niềm tin đúng đắn,
rằng sử học, ngược
với các khoa học lí
thuyết, quan tâm đến
các sự kiện cụ thể
riêng lẻ và các cá
nhân riêng rẽ hơn là
đến các quy luật
chung trừu tượng,
với một niềm tin sai
lầm rằng các cá thể
“cụ thể” có thể được
đồng nhất với những
cái toàn bộ theo
nghĩa (a).
Nhưng chúng không
thể thực hiện được;
vì sử học, giống như
bất kể loại khảo sát
khác nào, chỉ có thể
đề cập đến các khía
cạnh được lựa chọn
của đối tượng mà nó
quan tâm. Sai lầm
khi đi tin là có một
thứ sử học theo
nghĩa chỉnh thể, một
thứ sử học về “các
Trạng thái của Xã
hội” biểu hiện “cái
toàn bộ của cơ thể
xã hội” hay “tất cả
các sự kiện xã hội
và lịch sử của một
thời đại”. Ý tưởng
này xuất phát từ một
quan niệm trực giác
về lịch sử của
nhân loại như
một dòng khổng lồ và
toàn diện của sự
phát triển. Song
không thể viết được
một lịch sử như vậy.
Mọi lịch sử thành
văn đều là lịch sử
về một khía cạnh hẹp
nào đó của sự phát
triển “tổng thể”
này, và dẫu sao,
cũng chỉ là lịch sử
rất không đầy đủ,
ngay cả của khía
cạnh không đầy đủ cá
biệt được chọn lựa
ra này. Các xu hướng chỉnh
thể của chủ nghĩa
Không tưởng và chủ
nghĩa lịch sử thống
nhất trong tuyên bố
đặc trưng sau: “Chúng ta đã chẳng
bao giờ phải dựng
lên và điều khiển
toàn bộ hệ thống của
tự nhiên một cách
đầy đủ như chúng ta
buộc phải làm hiện
nay, với xã hội của
mình, và vì thế,
chúng ta đã chẳng
bao giờ phải đào sâu
vào lịch sử và cấu
trúc của các thế
giới cá thể của tự
nhiên. Nhân loại
hướng tới… điều tiết
toàn bộ cuộc sống xã
hội của nó, dẫu cho
nó chẳng bao giờ thử
đảm nhận việc tạo ra
một tự nhiên thứ
hai…”
[39]
Tuyên bố này minh
hoạ niềm tin sai lầm
rằng: Nếu chúng ta
muốn, như các nhà
chỉnh thể luận, đề
cập “toàn bộ hệ
thống tự nhiên một
cách đầy đủ”, sẽ hữu
ích khi đi chấp nhận
phương pháp lịch sử.
Nhưng các khoa học
tự nhiên, như địa
chất học, chấp nhận
phương pháp này, còn
xa mới thấu hiểu
“toàn bộ hệ thống”
chủ đề của họ. Tuyên
bố này cũng minh hoạ
quan điểm sai lầm,
rằng có thể “dựng
lên” hay “điều
khiển” hay “điều
tiết” cái toàn bộ
theo nghĩa (a).
Rằng “chúng ta chẳng
bao giờ phải dựng
lên và điều khiển
toàn bộ hệ thống tự
nhiên” chắc chắn là
đúng, đơn giản vì
chúng ta thậm chí
không thể dựng lên
và điều khiển một
miếng duy nhất của
một bộ máy vật lí
trong cái “toàn bộ”
của nó. Những việc
như vậy không thể
làm được. Chúng là
các mơ ước Không
tưởng, hay có lẽ là
những sự hiểu lầm.
Và đi bảo chúng ta
rằng: Ngày nay chúng
ta buộc phải
làm một việc bất khả
thi về mặt logic, cụ
thể là dựng lên và
điều khiển toàn bộ
hệ thống xã hội, và
đi điều tiết toàn bộ
cuộc sống xã hội,
chỉ là một mưu toan
điển hình để đe doạ
chúng ta với “các
lực lượng lịch sử”
và “những phát triển
sắp xảy ra”, những
cái làm cho kế hoạch
hoá Không tưởng là
không tránh khỏi.
Ngẫu nhiên, tuyên bố
được trích dẫn là
một sự thú nhận lí
thú về sự thực rất
quan trọng, rằng
không có sự tương tự
vật lí của kĩ thuật
cải biến chỉnh thể
hay của “khoa học”
tương ứng. Theo đuổi
sự tương tự giữa
khoa học tự nhiên và
xã hội, vì thế, chắc
chắn là hữu ích để
làm rõ vấn đề ở đây.
Địa vị logic của
chỉnh thể luận là
thế đấy: Tảng đá mà
chúng ta được cổ vũ
xây dựng một xã hội
mới trên đó. Có thể thêm một nhận
xét phê phán về
những cái toàn bộ
theo nghĩa (b),
mà tôi thừa nhận có
địa vị khoa học.
Chẳng cần rút lại
bất kể thứ gì tôi đã
nói, tôi phải chỉ ra
sự tầm thường cũng
như tính mơ hồ của
tuyên bố: Cái toàn
bộ là nhiều hơn tổng
của các phần của nó,
một điều hiếm khi
người ta nhận ra.
Ngay cả ba quả táo
trên một chiếc đĩa
là nhiều hơn “tổng
đơn thuần”, trong
chừng mực là phải có
các quan hệ nào đó
giữa chúng (quả lớn
nhất có thể hoặc
không nằm giữa hai
quả kia, v. v.): Các
quan hệ không được
suy diễn ra từ sự
thực là có ba quả
táo, và là điều có
thể được nghiên cứu
một cách khoa học.
Cũng thế, sự đối lập
giữa cách tiếp cận
“nguyên tử” và
Gestalt được
quảng cáo nhiều là
hoàn toàn vô căn cứ,
chí ít trong chừng
mực liên quan đến
vật lí nguyên tử: Vì
vật lí nguyên tử
không đơn thuần “lấy
tổng” của các hạt cơ
bản của nó, mà nó
nghiên cứu các hệ
thống hạt từ
quan điểm liên quan
một cách xác định
nhất với cái toàn bộ
theo nghĩa (b).
[40]
Ðiều mà hầu hết các
nhà lí thuyết
Gestalt hiển
nhiên muốn khẳng
định, là sự tồn tại
hai loại của các
thứ, “các đống”,
trong đó, chúng ta
không thể thấy rõ
bất kể trật tự nào,
và “những cái toàn
bộ”, trong đó một
trật tự hay một đối
xứng hay một sự đều
đặn hay một hệ thống
hay một kế hoạch cấu
trúc có thể được tìm
thấy. Như thế, một
câu như “Các cơ thể
là toàn bộ”, bản
thân nó rút gọn
thành sự tầm thường
rằng, trong một cơ
thể, chúng ta có thể
phân biệt trật tự
nào đó. Vả lại, một
cái gọi là “đống”,
như một quy tắc,
cũng có một khía
cạnh Gestalt,
như thí dụ được nhắc
đến nhiều về trường
điện. (Hãy xem cách
đều đặn, theo đó áp
suất tăng lên trong
một đống đá). Như
vậy, sự phân biệt
không chỉ là tầm
thường, mà là cực kì
mơ hồ; và không thể
áp dụng cho các loại
khác nhau của các sự
vật, mà chỉ cho các
khía cạnh khác nhau
của cùng một thứ.
© 2004 talawas
[1]Vấn
đề là một vấn đề cổ
xưa. Ngay cả Plato
đôi khi cũng tấn
công việc nghiên cứu
“thuần tuý”. Về
những người bảo vệ
nó, xem T. H.
Huxley, Science
and Culture
(1882), p. 19 f., và
M. Polanyi,
Economica, N.
S., vol. VIII
(1941), pp. 428 ff.
(ngoài các sách được
trích dẫn ở đó, xem
cả Veblen, The
Place of Science in
Modern Civilisation,
pp. 7 ff.)
[2]Kant,
Dreams of a Ghost
Seer, Part II,
ch. III (Werke,
ed. E. Cassirer,
vol. II, p. 385).
[3]Xem
Economica,
vol. XIII (1933), p.
122.
[4]Về
sự bào chữa cho
thuật ngữ này, xem
chú thích 18 dưới
đây.
[5]So
sánh với F. A. von
Hayek, Economica,
vol. XIII (1933), p.
123. “… kinh tế học
đã phát triển chủ
yếu như kết quả của
việc điều tra khảo
sát và bác bỏ các
kiến nghị Không
tưởng kế tiếp nhau…”
[6]Xem
M. Ginsberg, trong
Human Affairs
(do R. B. Cartell và
những người khác chủ
biên), tr. 180. Phải
thừa nhận, tuy vậy,
rằng sự thành công
của kinh tế học toán
học chứng tỏ rằng:
Chí ít một môn khoa
học xã hội đã trải
qua cách mạng Newton
của nó.
[7]Xem
Logic of
Scientific Discovery
(1959) của tôi, mục
15. (Các định đề tồn
tại ở dạng phủ
định). Lí thuyết có
thể được đối sánh
với Logic,
Cuốn V, Chương 5,
Mục 2 của J. S.
Mill.
[8]Xem,
thí dụ, M. R. Cohen,
Reason and Nature,
tr. 356 ff [và các
trang tiếp]. Các thí
dụ trong văn bản
hình như bác bỏ quan
điểm phản-tự nhiên
chủ nghĩa cá biệt
này.
[9]Một
phát biểu tương tự
của “qui luật tham
nhũng” này được C.
J. Friedrich thảo
luận trong tác phẩm
Constitutional
Government and
Politics (1937)
rất lí thú và một
phần mang tính kĩ
thuật của ông. Ông
nói về qui luật này:
“Tất cả các khoa học
tự nhiên không thể
kiêu hãnh về một
“giả thuyết” duy
nhất ngang tầm quan
trọng cho loài
người” (tr. 7). Tôi
không nghi ngờ về
tầm quan trọng của
nó; nhưng tôi nghĩ
rằng, chúng ta có
thể thấy vô số qui
luật có tầm quan
trọng ngang vậy
trong các môn khoa
học tự nhiên, nếu
chúng ta tìm kiếm
chúng giữa các qui
luật tầm thường hơn
là giữa các qui luật
trừu tượng hơn. (Hãy
xem các qui luật như
con người không thể
sống mà không có
thực phẩm, hoặc các
động vật có xương
sống có hai giống
[đực, cái]). Giáo sư
Friedrich cứ khăng
khăng ủng hộ luận đề
cho rằng: “Các môn
khoa học xã hội
không thể có lợi ích
từ việc áp dụng các
phương pháp của khoa
học tự nhiên’ (op.
cit. tr. 4).
Nhưng, mặt khác, ông
cố đặt cơ sở cho lí
thuyết về chính trị
học của mình trên
một loạt các giả
thuyết, mà về tính
chất của chúng, các
đoạn trích tiếp theo
(op. Cit. tr.
14ff [và các trang
tiếp]) có thể cho
một ý tưởng: “Sự tán
thành và sự e dè đều
là sinh lực, tạo ra
quyền lực”; chúng
cùng nhau xác định
“cường độ của tình
thế chính trị”; và
bởi vì “cường độ này
được xác định bởi độ
lớn tuyệt đối của sự
tán thành hay e dè
hay của cả hai, nó
có lẽ được thể hiện
tốt nhất bằng đường
chéo của hình bình
hành của hai lực
này: Sự tán thành và
sự e dè. Trong
trường hợp đó, giá
trị bằng số của nó
sẽ bằng căn bậc hai
của tổng của bình
phương của giá trị
bằng số của sự tán
thành và e dè”. Đây
là nỗ lực áp dụng
định lí Pythagoras
cho một “hình bình
hành” của các lực
(tuy không rõ vì sao
chúng lại vuông góc
với nhau) cái là quá
mơ hồ để có thể đo
được, đối với tôi
dường như là một thí
dụ không phải của
chủ nghĩa phản tự
nhiên mà đúng là của
một loại chủ nghĩa
tự nhiên hay “chủ
nghĩa khoa học” mà,
tôi thừa nhận, “các
môn khoa học xã hội
chẳng được lợi ích
gì từ nó”. Có thể
lưu ý rằng, các “giả
thuyết” này khó có
thể trình bày ở dạng
kĩ thuật, trong khi,
thí dụ, “qui luật
tham nhũng” mà tầm
quan trọng của nó
được Friedrich nhấn
mạnh rất thích đáng,
lại có thể được
trình bày ở dạng đó.
Về nền lịch sử của
quan điểm “khoa học
chủ nghĩa” mà các
vấn đề của lí thuyết
chính trị có thể
được hiểu bằng “hình
bình hành của các
lực”, xem cuốn sách
của tôi, The Open
Society and Its
Enemies (tái bản
có sửa chữa), chú
thích 2 của chương
7.
[10]Giáo
sư Hayek chống lại
việc dùng thuật ngữ
“kĩ thuật xã hội” “social
engineering”
(theo nghĩa từng
phần, dần dần, từ
từ) vì công việc kĩ
thuật điển hình đòi
hỏi sự tập trung mọi
tri thức liên quan
vào một người duy
nhất, trong khi điển
hình cho mọi vấn đề
xã hội thực sự là
tri thức cần dùng
không thể được tập
trung như vậy. (Xem
Hayek,
Collectivist
Economic Planning,
1935, tr. 210). Tôi
thừa nhận rằng: Sự
thực này có tầm quan
trọng căn bản. Nó có
thể được trình bày
bằng một giả thuyết
kĩ thuật: “Trong
phạm vi một nhà chức
trách kế hoạch hoá,
chúng ta không thể
tập trung tri thức
liên quan cho các
nhiệm vụ như thoả
mãn các nhu cầu cá
nhân, hay sử dụng
các kĩ năng và năng
lực được chuyên môn
hoá”. (Một giả
thuyết tương tự có
thể được đề xuất về
tính không thể tập
trung hoá sáng kiến
liên quan đến các
nhiệm vụ tương tự).
Việc sử dụng thuật
ngữ “kĩ thuật xã
hội, cải biến xã hội
- social
engineering” bây
giờ có thể được bảo
vệ bằng cách chỉ ra
rằng: Kĩ sư phải sử
dụng tri thức kĩ
thuật biểu hiện
trong các giả thuyết
này những điều thông
báo cho anh ta về
những hạn chế của
sáng kiến riêng của
anh ta cũng như của
tri thức riêng của
anh ta. Xem cả chú
thích 52 dưới đây.
[11]Bao
gồm, nếu có thể nhận
được, cả tri thức
liên quan đến các
hạn chế của tri
thức, như được giải
thích ở chú thích
trước.
[12]Hai
quan điểm - rằng các
định chế xã hội hoặc
là “được thiết kế”
hoặc là chúng chỉ
“mọc lên” - tương
ứng với các quan
điểm của các nhà lí
thuyết Khế ước Xã
hội và các nhà phê
phán họ, thí dụ,
Hume. Nhưng Hume đã
không từ bỏ quan
điểm “chức năng” hay
“công cụ chủ nghĩa”
của các định chế xã
hội, vì ông nói
rằng: Con người
không thể làm mà
không có chúng. Lập
trường này có thể
được trau chuốt
thành một giải thích
kiểu Darwin về tính
chất công cụ của các
định chế không được
thiết kế (thí dụ
ngôn ngữ): Nếu chúng
không có chức năng
hữu ích nào, thì
chúng chẳng có cơ
hội để tồn tại. Theo
quan điểm này, các
định chế không được
thiết kế có thể nổi
lên như các hệ
quả không chủ ý của
các hành động duy lí:
Hệt như một đường đi
có thể được hình
thành mà không có
bất kể chủ ý nào để
thực hiện, do người
dân thấy thuận tiện
để sử dụng một đường
mòn đã có rồi (như
Descartes quan sát).
Hầu như chẳng cần
nhấn mạnh, tuy vậy,
rằng cách tiếp cận
kĩ thuật là khá độc
lập với mọi vấn đề
về “xuất xứ”.
[13]Về
cách tiếp cận “chức
năng”, xem, thí dụ,
“Anthropology as
Basis of Social
Science” của B.
Malinowski trong
Human Affairs
(ed. Cattel), đặc
biệt các tr. 206 ff.
và các trang 239ff.
[14]Thí
dụ này, khẳng định
rằng hiệu suất của
các “bộ máy” định
chế bị hạn chế, và
rằng hoạt động của
các định chế phụ
thuộc vào việc cung
cấp nhân sự phù hợp,
có lẽ có thể được so
sánh với các nguyên
lí của nhiệt động
học, như định luật
bảo toàn năng lượng
(ở dạng trong đó nó
loại trừ khả năng
chế tạo động cơ vĩnh
cửu). Với tư cách
như vậy, nó có thể
được đối sánh với
mưu toan “khoa học
chủ nghĩa” khác để
phát triển một phép
tương tự giữa khái
niệm vật lí về năng
lượng và một số khái
niệm xã hội học như
quyền lực; xem, thí
dụ, Power
(1938) của Bertrand
Russell, tr. 10f.,
nơi loại mưu toan
khoa học chủ nghĩa
loại này được thử.
Tôi không nghĩ là
điểm chính của
Russell - rằng “các
dạng quyền lực” khác
nhau như sự giàu có,
sức mạnh tuyên
truyền, sức mạnh thô
bạo, đôi khi có thể
được “chuyển đổi”
lẫn nhau - có thể
được trình bày ở
dạng kĩ thuật.
[15]W.
Lippmann, The
Good Society
(1937), Ch. XI, các
tr. 203ff. Xem cả W.
H. Hutt, Plan for
Reconstruction
(1943).
[16]Thành
ngữ này K. Mannheim
thường dùng trong
cuốn Man and
Society in an Age of
Reconstruction
của ông, xem Chỉ
mục, Index, và thí
dụ, các tr. 269,
295, 320, 381. Cuốn
sách này trình bày
kĩ lưỡng nhất một
chương trình chỉnh
thể và lịch sử chủ
nghĩa mà tôi được
biết, và vì thế,
được lựa ra ở đây để
phê phán.
[17]Xem
Mannheim, ibid.,
tr. 337. Đoạn này
được trích đầy đủ
hơn ở mục 23, nơi nó
cũng được phê phán.
(Xem chú thích 42
dưới đây).
[18]“Vấn
đề Biến đổi Con
người” là tiêu đề
của một chương của
cuốn sách Man and
Society của K.
Mannheim. Trích dẫn
tiếp theo là từ
chương đó, tr. 199f.
[19]Xem
J. S. Mill, Logic,
Book VI, ch. X, mục
I.
[20]Logic,
Book VI, ch. X, mục
8. Đoạn tương tự của
Marx (được trích ở
mục 17) lấy từ lời
nói đầu của lần xuất
bản đầu tiên của
Capital - Tư bản
Luận
[21]Nhận
xét này chứng tỏ
rằng Thuyết Vị Lợi
của Mill đã ngăn ông
khỏi định nghĩa “có
lợi – beneficia”
như đồng nghĩa với
“tiến bộ -
progressive”;
tức là, bất chấp
thuyết tiến bộ của
ông, ông đã không
tán thành lí thuyết
đạo đức lịch sử chủ
nghĩa (so sánh mục
19) như được phát
triển bởi Spencer và
Engels (và ngày nay
bởi C. H.
Waddington; xem
Science and Ethics
của ông).
[22]Mill,
ibid., mục 2
(tôi nhấn mạnh).
[23]Xem
các mục 15 đến 17;
đặc biệt xem
Socialism, Utopian
and Scientific [Chủ
nghĩa xã hội, Không
tưởng và Khoa học]
của Engels.
[24]Tôi
thảo luận điều này
chi tiết trong
The Open Society and
Its Enemies.
[25]Xem,
thí dụ, Man and
Society của K.
Mannheim, tr. 6 (và
ở nhiều chỗ khác),
nơi ông bảo chúng ta
rằng “Chẳng còn bất
kể lựa chọn nào
“giữa kế hoạch hoá
và không kế hoạch
hoá”, mà chỉ có sự
lựa chọn “giữa kế
hoạch hoá tốt và
tồi” mà thôi”; hoặc
The Planning of
Free Societies
(1942) của F. Zweig,
tr. 30, người trả
lời cho câu hỏi,
liệu một xã hội được
kế hoạch hoá hay
không được kế hoạch
hoá là được ưa
chuộng hơn, bằng
cách nói rằng câu
hỏi này không nảy
sinh, vì nó đã được
chiều hướng phát
triển lịch sử hiện
tại trả lời cho
chúng ta rồi.
[26]K.
Mannheim op. cit.
[sách đã dẫn],
tr. 33; các trích
dẫn tiếp theo là
ibid [cũng từ đó],
tr.7.
[27]K.
Mannheim, giống như
Comte, phân biệt ba
mức phát triển của
tư duy: (1) thử và
sai hay khám phá
ngẫu nhiên, (2) phát
minh, (3) kế hoạch
hoá (ibid.
tr. 150f.). Tôi
không tán thành chút
nào học thuyết của
ông, đối với tôi,
phương pháp thử và
sai (1) dường như
tiến tới gần phương
pháp của khoa học
hơn bất kể phương
pháp nào của các
“mức” khác.- Một lí
do thêm cho việc coi
cách tiếp cận chỉnh
thể là tiền-khoa
học, là nó chứa đựng
một yếu tố của chủ
nghĩa cầu toàn. Tuy
vậy, một khi chúng
ta nhận ra rằng:
Chúng ta không thể
tạo ra thiên đường
trên trái đất mà chỉ
có thể cải thiện sự
việc một chút,
chúng ta cũng phải
nhận ra rằng: Chúng
ta chỉ có thể cải
thiện chúng từng
tí một.
[28]Chú
thích của dịch giả:
Gestalt:
tiếng Đức có nghĩa
là dáng, hình.
[29]H.
Gomperz,
Weltanschauungslehre,
II/I (1908), tr. 63,
chỉ ra rằng: Một mẩu
của thế giới, thí dụ
như sự vỗ cánh bực
dọc của một con sẻ,
có thể được mô tả
bằng các tuyên bố
rất khác nhau như
sau, mỗi tuyên bố
tương ứng với một
khía cạnh của nó:
“Con chim này đang
bay!” - “Một con sẻ
bay lượn!” - “Nhìn
xem, có một con vật
ở đây.” - “Có cái gì
chuyển động ở đây.”
- “Năng lượng được
chuyển đổi ở đây.” -
“Đây không phải là
một trường hợp về
chuyển động vĩnh
cửu.” - “Con vật
đáng thương bị hoảng
sợ!” Rõ ràng là
chẳng bao giờ có thể
là nhiệm vụ của khoa
học khi đi hoàn tất
một danh mục như
vậy, một danh mục
nhất thiết là vô
tận. - F. A. von
Hayek, trong
Ethics, vol. LIV
(1943), chú thích 5,
phác hoạ một phê
phán chủ nghĩa lịch
sử rất giống với phê
phán được đề xuất ở
đây, trong văn bản.
[30]K.
Mannheim (op.cit.,
tr. 167) mô tả khoa
học chọn lọc hay
trừu tượng như “một
giai đoạn, qua đó
mọi khoa học phấn
đấu cho sự chính xác
đều phải trải qua”.
[31]Với
ba trích dẫn tiếp
theo, hãy so sánh
với Mannheim,
op.cit., tr.
184; xem cả tr. 170,
chú thích, và tr.
230.
[32]Ibid.,
tr. 230. Học thuyết
cho rằng chúng ta có
thể nhận được một
loại hiểu biết cụ
thể về “bản thân
thực tại” được biết
kĩ như một phần của
điều có thể được mô
tả về mặt kĩ thuật
như chủ nghĩa
thần bí; và sự
hò hét cho “những
cái toàn bộ” cũng
thế.
[33]Xem
op. cit., thí
dụ, các tr. 26 và
32. Tôi phê phán
thuyết chỉnh thể,
không có nghĩa rằng
tôi phản đối lời yêu
cầu khẩn thiết cho
sự hợp tác giữa các
ngành khoa học khác
nhau. Đặc biệt, khi
chúng ta đối mặt với
một vấn đề từng phần
xác định có thể được
đẩy mạnh bởi sự hợp
tác như vậy, chẳng
ai đi mơ ước chống
lại việc đó. Nhưng
đây là chuyện rất
khác với kế hoạch để
lĩnh hội những cái
toàn bộ cụ thể bằng
một phương pháp tổng
hợp có hệ thống, hay
cái gì đó thuộc loại
ấy.
[34]Xem
op. Cit., tr.
337; và chú thích 25
ở trên.
[35]Cách
trình bày được trích
là gần đồng nhất với
cách trình bày của
C. Schmitt.
[36]Các
nhà chỉnh thể luận
hi vọng là có cách
thoát khỏi khó khăn
này, bằng cách từ
chối tính hợp lệ của
logic mà, họ nghĩ,
đã được thay thế bởi
biện chứng. Tôi đã
thử chặn đứng lối
lập luận này trong
“What is
Dialectic?”, Mind,
vol. 49 N. S., tr.
303ff.
[37]Xem
K. Mannheim, op.
cit., tr. 202.
Có thể lưu ý rằng:
Một thuyết chỉnh thể
tâm lí học là rất
thời thượng hiện nay
đối với các nhà lí
thuyết giáo dục.
[38]Học
thuyết cho rằng lịch
sử đề cập đến “cái
toàn bộ cụ thể riêng
lẻ”, có thể là các
cá nhân, sự kiện hay
thời đại, đặc biệt
được Troeltsch tuyên
truyền. Sự đúng đắn
của nó được Mannheim
liên tục giả thiết.
[39]K.
Mannheim, op.
cit., tr. 175 f.
(tôi nhấn mạnh).
[40]Xem,
thí dụ, nguyên lí
loại trừ Pauli.- Đối
với nhà khoa học xã
hội, các ý tưởng như
cạnh tranh hay phân
công lao động phải
là đủ rõ là cách
tiếp cận “nguyên tử”
hay “cá nhân chủ
nghĩa” chẳng thể nào
ngăn chúng ta không
nhận ra rằng: Mọi cá
nhân tương tác với
tất cả những người
khác. (Trong tâm lí
học, tình hình lại
khác, vì thuyết
nguyên tử dường như
không thích hợp ở
đây - bất chấp nhiều
nỗ lực thử áp dụng
nó).
|
|
|