Mục 6: Tính khách
quan và sự đánh giá
Khi nhấn mạnh những
khó khăn về tiên
đoán trong các môn
khoa học xã hội,
chúng ta đã thấy chủ
nghĩa lịch sử đưa ra
các lí lẽ, dựa trên
sự phân tích về ảnh
hưởng của các tiên
đoán lên các sự kiện
được tiên đoán.
Nhưng theo chủ nghĩa
lịch sử, ảnh hưởng
này có thể, dưới
những hoàn cảnh nhất
định, có những tác
động lại quan trọng
lên nhà quan sát
đang tiên đoán.
Những suy xét tương
tự đóng một vai trò
quan trọng, thậm chí
cả trong vật lí học,
nơi mọi quan sát đều
dựa trên sự trao đổi
năng lượng giữa nhà
quan sát và cái được
quan sát; điều này
dẫn đến sự bất định,
thường có thể được
bỏ qua, của các tiên
đoán vật lí, cái
được “nguyên lí bất
định” mô tả. Có thể
cho rằng: Sự bất
định này là do một
tương tác giữa khách
thể được quan sát và
chủ thể đang quan
sát, vì cả hai đều
thuộc về cùng thế
giới vật lí của tác
động và tương tác.
Như Bohr đã chỉ ra,
có những sự tương tự
trong các môn khoa
học khác đối với
tình thế này trong
vật lí học, đặc biệt
trong sinh học và
tâm lí học. Nhưng
chẳng ở đâu, sự
thực, là nhà khoa
học và đối tượng của
ông ta lại thuộc về
cùng một thế giới,
lại có tầm quan
trọng hơn trong các
môn khoa học xã hội,
nơi nó dẫn đến (như
đã được chứng tỏ)
một sự bất định của
tiên đoán, điều đôi
khi có tầm quan
trọng thực tiễn lớn.
Chúng ta đối mặt,
trong các khoa học
xã hội, với một
tương tác đầy đủ và
phức tạp giữa nhà
quan sát và cái được
quan sát, giữa chủ
thể và khách thể.
Biết sự tồn tại của
các khuynh hướng, có
thể tạo ra một sự
kiện tương lai, và,
hơn nữa, biết rằng
bản thân tiên đoán
có thể gây ảnh hưởng
lên các sự kiện được
tiên đoán, chắc có
những tác động lại
lên nội dung tiên
đoán; và các tác
động lại này có thể
là loại làm suy yếu
nghiêm trọng tính
khách quan của các
tiên đoán và của các
kết quả nghiên cứu
khác trong các khoa
học xã hội.
Một tiên đoán là một
biến cố xã hội, có
thể tương tác với
các biến cố xã hội
khác, và giữa chúng
với biến cố mà nó
tiên đoán. Nó có
thể, như ta đã thấy,
giúp để tiên đoán sự
kiện này; nhưng có
thể dễ dàng thấy là
nó cũng có thể ảnh
hưởng theo cách
khác. Nó có thể,
trong trường hợp cực
đoan, thậm chí
gây ra sự cố nó
tiên đoán: Biến cố
đã có thể không hề
xảy ra, nếu giả như
nó đã không được
tiên đoán. Ở thái
cực khác, sự tiên
đoán về một sự kiện
sắp xảy ra có thể
ngăn cản nó (đến
mức có thể nói về
nhà khoa học xã hội,
người cố ý hay vô
tình không tiên
đoán, là có thể gây
ra, hoặc làm cho nó
xảy ra). Rõ ràng có
nhiều trường hợp
trung gian ở giữa
hai thái cực này.
Hành động tiên đoán
cái gì đó, và việc
kiêng không tiên
đoán, cả hai có thể
có mọi loại hệ quả.
Bây giờ, rõ ràng là
các nhà khoa học xã
hội, với thời gian,
đã biết về những khả
năng này. Một nhà
khoa học xã hội, thí
dụ, có thể tiên đoán
cái gì đó, dự kiến
trước là tiên đoán
của mình sẽ làm cho
nó xảy ra. Hoặc ông
ta có thể từ chối
rằng một sự kiện nào
đó được dự kiến,
bằng cách ấy, ngăn
cản nó. Và trong cả
hai trường hợp, ông
ta có thể tôn trọng
nguyên lí có vẻ như
đảm bảo sự khách
quan khoa học: Về
nói sự thật và không
gì khác ngoài sự
thật. Nhưng dẫu cho
ông ta đã nói sự
thật, chúng ta không
thể nói rằng, ông ta
đã tôn trọng tính
khách quan khoa học;
vì bằng việc đưa ra
các tiên đoán (mà
các biến cố sắp tới
sẽ thoả mãn), ông ta
có thể đã ảnh hưởng
đến những biến cố đó
theo hướng mà cá
nhân ông ta ưa
thích.
Nhà lịch sử chủ
nghĩa có thể thừa
nhận là bức tranh
này có hơi sơ lược,
nhưng ông ta khăng
khăng rằng nó làm
nổi bật một điểm mà
chúng ta thấy ở hầu
như trong mọi đề tài
của các môn khoa học
xã hội. Tương tác
giữa những tuyên bố
của nhà khoa học và
đời sống xã hội hầu
như luôn tạo ra các
tình huống, trong
đó, chúng ta không
chỉ xem xét sự thật
của những tuyên bố
như vậy, mà cũng xem
xét cả ảnh hưởng
thực tế của chúng
lên diễn tiến tương
lai. Nhà khoa học xã
hội có thể cố gắng
để tìm sự thật;
nhưng, đồng thời,
ông ta luôn tác động
một ảnh hưởng xác
định lên xã hội.
Chính sự thực, là
các tuyên bố của ông
ta có ảnh
hưởng, phá huỷ tính
khách quan của
chúng.
Cho đến đây, chúng
ta đã giả thiết
rằng: Nhà khoa học
xã hội thực sự cố
gắng tìm sự thật, và
không gì khác ngoài
sự thật; nhưng nhà
lịch sử chủ nghĩa sẽ
chỉ ra rằng: Tình
trạng được mô tả làm
lộ ra những khó khăn
của giả thiết của
chúng ta. Vì ở nơi
sự thiên vị và các
lợi ích có ảnh hưởng
như vậy lên nội dung
của các lí thuyết và
tiên đoán khoa học,
phải rất đáng ngờ,
liệu thiên kiến có
thể được xác định và
tránh hay không. Như
thế, chẳng cần ngạc
nhiên để thấy rằng,
trong các môn khoa
học xã hội, có rất
ít điều giống sự tìm
kiếm khách quan và
lí tưởng đối với sự
thật mà chúng ta
thấy trong vật lí
học. Chắc có thể
thấy bấy nhiêu
khuynh hướng trong
khoa học xã hội như
có thể thấy bao
nhiêu khuynh hướng
trong đời sống xã
hội; có bấy nhiêu
lập trường như có
bao nhiêu lợi ích.
Có thể hỏi: Liệu lí
lẽ lịch sử chủ nghĩa
này không dẫn đến
một dạng cực đoan
của chủ nghĩa tương
đối, cho rằng tính
khách quan, và lí
tưởng về sự thật,
hoàn toàn không thể
áp dụng được trong
các môn khoa học xã
hội, nơi chỉ thành
công - thành công
chính trị - là quyết
định.
Để minh hoạ các lí
lẽ này, nhà lịch sử
chủ nghĩa có thể chỉ
ra rằng: Mỗi khi có
một xu hướng cố hữu
nào đó trong một
giai đoạn phát triển
xã hội, chúng ta có
thể trông chờ để
thấy các lí thuyết
xã hội học ảnh hưởng
đến sự phát triển
này. Khoa học xã
hội, như thế, có thể
hoạt động như một bà
đỡ, giúp sinh ra các
giai đoạn xã hội
mới; nhưng nó cũng
có thể được dùng
tương tự như thế,
trong tay các thế
lực bảo thủ, để làm
chậm trễ những thay
đổi xã hội sắp xảy
ra.
Cách nhìn như vậy có
thể gợi ý cho khả
năng phân tích và
giải thích sự khác
nhau giữa các học
thuyết và trường
phái xã hội học khác
nhau, bằng cách dẫn
chiếu hoặc đến quan
hệ của chúng với
những thiên vị và
lợi ích thịnh hành
trong một giai đoạn
lịch sử cá biệt (một
cách tiếp cận đôi
khi được gọi là
“thuyết lịch sử-historism”,
và không nên lẫn lộn
với cái tôi gọi là
“chủ nghĩa lịch sử-historicism”),
hoặc đến mối liên hệ
của chúng với các
lợi ích chính trị
hay kinh tế hay giai
cấp (một cách tiếp
cận đôi khi được gọi
là “xã hội học
tri thức”).
Mục 7: Chỉnh thể
luận (Holism)
Hầu hết các nhà lịch
sử chủ nghĩa tin
rằng: Còn có một lí
do sâu xa hơn nữa để
giải thích vì sao
các phương pháp khoa
học vật lí không thể
áp dụng được cho các
môn khoa học xã hội.
Họ lí luận rằng xã
hội học, giống mọi
khoa học “sinh học”,
tức là các khoa học
đề cập đến các đối
tượng sống, không
được tiến hành theo
cách chẻ nhỏ, mà
phải theo cách bây
giờ được gọi là
“chỉnh thể -
holistic”. Vì
các đối tượng của xã
hội học, các nhóm xã
hội, không bao giờ
được coi đơn thuần
là tổng số các cá
nhân. Nhóm xã hội là
nhiều hơn
tổng đơn thuần của
các thành viên của
nó, và nó cũng
nhiều hơn tổng
đơn thuần của các
quan hệ cá nhân
thuần tuý tồn tại ở
bất kể thời điểm
nào, giữa bất kể
thành viên nào của
nó. Điều này có thể
thấy dễ dàng, ngay
cả trong một nhóm
đơn giản, gồm ba
thành viên. Một nhóm
do A và B lập ra sẽ
khác về đặc tính với
một nhóm có cùng số
thành viên nhưng do
B và C lập ra. Điều
này có thể minh hoạ
cho việc nói rằng:
Một nhóm có lịch
sử riêng của nó
có nghĩa là gì, và
rằng cấu trúc của nó
phụ thuộc rất lớn
vào lịch sử của nó
(xem cả mục 3 ở trên
về “Tính mới”). Một
nhóm có thể dễ giữ
nguyên vẹn đặc tính
của nó, nếu nó mất
một vài thành viên
ít quan trọng. Và
thậm chí, có thể
tưởng tượng được là
một nhóm có thể giữ
phần lớn đặc tính
ban đầu của nó cho
dù toàn bộ
thành viên ban đầu
của nó được thay thế
bằng các thành viên
khác. Nhưng cùng các
thành viên đó, những
người hiện thời tạo
thành nhóm, có lẽ có
thể đã tạo thành một
nhóm rất khác, nếu
họ đã không tham gia
vào nhóm ban đầu
từng người một, mà
thay vào đó, lập ra
một nhóm mới. Tính
cách của các thành
viên có thể có ảnh
hưởng lớn lên lịch
sử và cấu trúc của
nhóm, song sự thực
này không ngăn cản
nhóm khỏi có một
lịch sử và cấu trúc
của riêng mình; nó
cũng chẳng ngăn nhóm
khỏi có ảnh hưởng
mạnh đến tính cách
của các thành viên.
Mọi nhóm xã hội đều
có các truyền thống
riêng, định chế
riêng, nghi lễ riêng
của mình. Chủ nghĩa
lịch sử cho rằng:
Chúng ta phải nghiên
cứu lịch sử của
nhóm, các truyền
thống và định chế
của nó, nếu chúng ta
muốn hiểu và giải
thích nó như nó là
hiện nay, và nếu
chúng ta muốn hiểu
và có lẽ nhìn thấy
trước sự phát triển
tương lai của nó.
Đặc tính chỉnh thể
của các nhóm xã hội,
sự thực là các nhóm
như vậy chẳng bao
giờ được giải thích
hoàn toàn như tổng
số đơn thuần của các
thành viên của
chúng, rọi ánh sáng
lên sự phân biệt của
nhà lịch sử chủ
nghĩa giữa tính mới
trong vật lí học,
cái thuần tuý dính
đến các tổ hợp hay
sự sắp xếp mới của
các nguyên tố và
nhân tố không mới,
và tính mới trong
đời sống xã hội,
điều là thực sự và
không thể quy giản
cho tính mới đơn
thuần về sắp xếp.
Bởi vì, nếu các cấu
trúc xã hội nói
chung không thể được
giải thích như các
tổ hợp của các phần
hay các thành viên
của chúng, thì rõ
ràng cũng không thể
để giải thích các
cấu trúc xã hội
mới bằng phương
pháp này.
Mặt khác, các cấu
trúc vật lí có thể
được giải thích đơn
thuần như các “hình
trạng-constellation”,
các nhà lịch sử chủ
nghĩa khăng khăng,
hoặc như tổng đơn
thuần của các thành
phần của chúng, cùng
với cấu hình hình
học của chúng. Thí
dụ, xét hệ mặt trời;
mặc dù có thể lí thú
đi nghiên cứu lịch
sử của nó, và dẫu
cho việc nghiên cứu
này có thể soi sáng
hiện trạng của nó,
chúng ta biết rằng,
theo một nghĩa nào
đó, trạng thái này
độc lập với lịch sử
của hệ thống. Cấu
trúc của hệ thống,
chuyển động và diễn
tiến tương lai của
nó, hoàn toàn được
xác định bởi hình
trạng hiện tại của
các thành viên của
nó. Căn cứ vào vị
trí tương đối, khối
lượng, và moment
của các thành viên
của nó ở bất kể thời
điểm nào, chuyển
động tương lai của
hệ thống là hoàn
toàn xác định. Chúng
ta chẳng cần thêm
tri thức như hành
tinh nào già hơn,
hoặc hành tinh nào
được đưa tới từ bên
ngoài: Lịch sử của
cấu trúc, mặc dù có
thể lí thú, chẳng
tạo thành cái gì cho
sự hiểu biết của
chúng ta về hành vi
của nó, về cơ chế
của nó, và về diễn
tiến tương lai của
nó. Hiển nhiên là
một cấu trúc vật lí
khác xa bất kể cấu
trúc xã hội nào ở
khía cạnh này; cấu
trúc xã hội không
thể được hiểu, cũng
chẳng thể tiên đoán
tương lai của nó,
nếu như không nghiên
cứu cẩn thận lịch sử
của nó, cho dù chúng
ta có đầy đủ tri
thức về “hình trạng”
nhất thời của nó.
Những cân nhắc như
vậy gợi ý mạnh mẽ
rằng: Có một mối
liên hệ mật thiết
giữa chủ nghĩa lịch
sử và cái gọi là
lí thuyết sinh học
hay hữu cơ của
các cấu trúc xã hội
- lí thuyết lí giải
các nhóm xã hội bằng
sự tương tự với các
cơ thể sống. Thật
vậy, chỉnh thể luận
được cho là mang đặc
trưng của các hiện
tượng sinh học nói
chung, và cách tiếp
cận chỉnh thể được
coi là không thể
thiếu được trong
việc xem xét lịch sử
của các sinh vật ảnh
hưởng ra sao đến
hành vi của chúng.
Các lí lẽ chỉnh thể
của chủ nghĩa lịch
sử như thế thích hợp
để nhấn mạnh sự
giống nhau giữa các
nhóm xã hội và các
sinh vật, mặc dù
chúng không nhất
thiết dẫn đến sự
chấp nhận lí thuyết
sinh học của các cấu
trúc xã hội. Tương
tự, lí thuyết nổi
tiếng về sự tồn tại
của tinh thần
nhóm, như vật
mang các truyền
thống nhóm, mặc
dù bản thân nó không
nhất thiết là một
phần của lí lẽ chỉnh
thể, nó liên quan
mật thiết với quan
điểm chỉnh thể.
Mục 8: Sự hiểu
biết trực giác
Cho đến nay, chúng
ta chủ yếu đề cập
đến các khía cạnh
đặc trưng nào đó của
cuộc sống xã hội,
như tính mới, tính
phức tạp, tính hữu
cơ, tính chỉnh thể,
và cách mà lịch sử
của nó chia thành
các giai đoạn; các
khía cạnh mà, theo
chủ nghĩa lịch sử,
làm cho các phương
pháp điển hình nào
đó của vật lí học
không thể áp dụng
được cho khoa học xã
hội. Một phương pháp
tiếp cận lịch sử
hơn, vì vậy, được
coi là cần thiết
trong nghiên cứu xã
hội. Nó là một phần
của quan điểm phản
tự nhiên của chủ
nghĩa lịch sử mà
chúng ta phải cố
hiểu lịch sử của các
nhóm xã hội khác
nhau một cách trực
giác, và quan điểm
này, đôi khi được
phát triển thành học
thuyết phương pháp
luận, rất gần gũi
với chủ nghĩa lịch
sử, mặc dù không kết
hợp với nó một cách
bất biến.
Đó là học thuyết cho
rằng: Phương pháp
riêng của khoa học
xã hội, ngược lại
với phương pháp của
khoa học tự nhiên,
dựa vào sự hiểu biết
bản chất các hiện
tượng xã hội. Những
sự đối lập và trái
ngược sau thường
được nhấn mạnh liên
quan đến học thuyết
này. Vật lí học
hướng tới sự giải
thích nhân quả: Xã
hội học nhắm tới sự
hiểu biết mục đích
và ý nghĩa. Trong
vật lí học, các sự
kiện được giải thích
một cách nghiêm ngặt
và định lượng, với
sự giúp đỡ của các
công thức toán học.
Xã hội học cố hiểu
diễn tiến lịch sử ở
dạng định tính hơn,
thí dụ, ở dạng các
xu hướng và mục tiêu
xung đột nhau, hoặc
bằng “tính cách dân
tộc” hay “tinh thần
thời đại”. Ðiều này
giải thích vì sao
vật lí học hoạt động
với sự khái quát hoá
quy nạp còn xã hội
học chỉ có thể hoạt
động với sự giúp đỡ
của sự tưởng tượng
giao cảm. Và đó cũng
là lí do vì sao vật
lí học có thể dẫn
đến những đồng đều
có hiệu lực phổ
quát, còn xã hội học
phải thoả mãn với sự
hiểu biết trực giác
các sự kiện đơn
nhất, và vai trò mà
chúng đóng trong các
tình huống cá biệt,
xảy ra trong khuôn
khổ các cuộc tranh
đấu riêng của các
lợi ích, các xu
hướng, và các số
phận.
Tôi kiến nghị phân
biệt giữa ba biến
thể khác nhau của
học thuyết về hiểu
biết trực giác. Biến
thể thứ nhất khẳng
định rằng: Một sự
kiện xã hội được
hiểu khi được phân
tích bằng các lực
lượng gây ra nó, tức
là khi biết các cá
nhân và nhóm dính
líu, các mục đích và
lợi ích của họ, và
quyền lực mà họ có
thể sử dụng. Các
hành động của các cá
nhân hoặc nhóm ở đây
được hiểu như phù
hợp với mục đích của
họ - như thúc đẩy
lợi thế thực tế của
họ hoặc, chí ít, lợi
thế tưởng tượng của
họ. Phương pháp xã
hội học ở đây được
nghĩ như một sự tái
tạo mang tính tưởng
tượng của các hoạt
động hoặc duy lí
hoặc phi lí, hướng
tới các mục đích
nhất định.
Biến thể thứ hai đi
xa hơn. Nó thừa nhận
rằng: Một phân tích
như vậy là cần
thiết, đặc biệt liên
quan đến sự hiểu
biết các hoạt động
cá nhân hay các hành
động nhóm. Nhưng nó
cho rằng: Cần nhiều
hơn để hiểu đời sống
xã hội. Nếu chúng ta
muốn hiểu ý nghĩa
của một sự kiện xã
hội, thí dụ một hành
động chính trị nào
đó, thì không đủ để
hiểu, theo mục đích
luận, nó được dẫn
đến thế nào và vì
sao. Ngoài ra, chúng
ta phải hiểu ý nghĩa
của nó, tầm quan
trọng của sự xuất
hiện của nó. Ở đây
“ý nghĩa” và “tầm
quan trọng” có ý
nghĩa gì? Nhìn từ
quan điểm tôi mô tả
như biến thể thứ
hai, câu trả lời sẽ
là: Một sự kiện xã
hội không chỉ có
những ảnh hưởng nào
đó, nó không chỉ
dẫn, theo thời gian,
đến các sự kiện
khác, mà chính sự
tồn tại của nó làm
thay đổi giá trị
tình thế của một dải
rộng các sự kiện
khác. Nó tạo ra một
tình huống mới, đòi
hỏi một sự tái-định
hướng và tái-diễn
giải mọi đối tượng
và mọi hoạt động
trong lĩnh vực cá
biệt đó. Để hiểu một
sự kiện như vậy, thí
dụ, việc tạo ra một
quân đội mới ở một
nước nào đó, cần
phải phân tích các ý
định, lợi ích, và
v.v. Nhưng chúng ta
không thể hiểu đầy
đủ ý nghĩa hoặc tầm
quan trọng của hành
động này mà không
phân tích cả giá trị
tình thế của nó; thí
dụ, các lực lượng
quân sự của nước
khác, đã hoàn toàn
đủ cho việc bảo vệ
nó cho tới thời điểm
đó, bây giờ có thể
trở nên hoàn toàn
không thoả đáng. Tóm
lại, toàn bộ tình
thế xã hội có
thể đã thay đổi,
ngay cả trước bất kể
những thay đổi thực
sự thêm nào đã xảy
ra, cả về mặt vật
chất hay tâm lí; vì
tình thế có thể đã
thay đổi từ lâu
trước khi bất kì ai
nhận ra sự thay đổi.
Như vậy, để hiểu đời
sống xã hội, chúng
ta phải đi quá phân
tích thuần tuý về
các nguyên nhân và
kết quả thực sự, tức
là phân tích về các
động cơ, lợi ích, và
phản ứng do các hành
động gây ra: chúng
ta phải hiểu mọi sự
kiện như biểu diễn
một phần đặc trưng
nào đó trong cái
toàn thể. Sự kiện có
được tầm quan trọng
của nó từ ảnh hưởng
mà nó có trên cái
toàn thể, và tầm
quan trọng của nó,
một phần được xác
định bởi cái toàn
thể.
Biến thể thứ ba của
học thuyết hiểu biết
trực giác còn đi xa
hơn nữa, trong khi
chấp nhận mọi thứ
của biến thể thứ
nhất và thứ hai. Nó
cho rằng: Ðể hiểu ý
nghĩa hay tầm quan
trọng của một sự
kiện xã hội, cần
nhiều hơn sự phân
tích về căn nguyên,
kết quả, và giá trị
tình thế của nó.
Ngoài một nghiên cứu
như vậy ra, cần phải
phân tích các xu
hướng và xu thế lịch
sử cơ sở, khách quan
(như sự phát triển
hay suy thoái của
các truyền thống hay
thế lực nào đó)
thịnh hành tại giai
đoạn đang bàn, và
phân tích sự đóng
góp của sự kiện đó
đối với quá trình
lịch sử, theo đó,
các xu thế như vậy
bộc lộ. Một sự hiểu
biết đầy đủ về Vụ
Dreyfus
[1]
, thí dụ, ngoài một
phân tích về căn
nguyên, kết quả, và
giá trị tình thế của
nó ra, còn cần đến
sự thấu hiểu sự thực
rằng nó biểu hiện sự
tranh giành giữa hai
xu hướng lịch sử
trong sự phát triển
của Cộng hoà Pháp,
dân chủ và chuyên
quyền, tiến bộ và
phản động.
Biến thể thứ ba này
của phương pháp hiểu
biết trực giác, với
việc nhấn mạnh đến
các xu hướng hay
khuynh hướng, là một
lập trường gợi ý ở
mức độ nào đó đến
việc áp dụng suy
diễn bằng tương tự
từ một giai đoạn
lịch sử này sang
giai đoạn khác. Vì,
mặc dù nó hoàn toàn
công nhận rằng: Các
giai đoạn lịch sử là
khác nhau về bản
chất, và rằng: Không
sự kiện nào có thể
thực sự tự lặp lại
trong một giai đoạn
khác của tiến triển
xã hội, nó có thể
thừa nhận rằng: Các
xu hướng tương tự có
thể trở nên chi phối
trong các giai đoạn
khác nhau, các giai
đoạn, có lẽ, rất xa
nhau. Những sự giống
nhau hay tương tự
như vậy được cho là
đã có, thí dụ, giữa
Hi Lạp trước
Alexander và Nam Đức
trước Bismarck.
Phương pháp hiểu
biết trực giác,
trong các trường hợp
như vậy, gợi ý rằng,
chúng ta phải đánh
giá ý nghĩa của các
sự kiện nào đó bằng
việc so sánh chúng
với các sự kiện
tương tự trong các
giai đoạn trước, sao
cho có thể giúp
chúng ta tiên đoán
những tiến triển mới
- không bao giờ
quên, tuy vậy, rằng
những khác biệt
không thể tránh khỏi
giữa hai giai đoạn
phải được tính đến
một cách thích đáng.
Do đó, chúng ta thấy
rằng: Một phương
pháp có khả năng
hiểu ý nghĩa của các
sự kiện xã hội phải
đi khá xa sự giải
thích nhân quả. Nó
phải mang tính chỉnh
thể; nó phải hướng
tới sự xác định vai
trò do sự kiện ấy
đóng trong phạm vi
một cấu trúc phức
tạp - trong cái toàn
thể bao hàm không
chỉ các thành phần
đương thời mà cả các
giai đoạn kế tiếp
nhau của diễn tiến
thời gian. Điều này
có thể giải thích,
vì sao biến thể thứ
ba của phương pháp
hiểu biết trực giác
hay dựa vào sự tương
tự giữa một sinh vật
và một nhóm, và vì
sao nó hay hoạt động
với các ý tưởng như
ý tưởng về một tâm
trí hay tinh thần
của một thời đại,
nguồn và giám thị
của tất cả các xu
hướng hay khuynh
hướng lịch sử đó,
những cái đóng một
vai trò quan trọng
trong việc xác định
ý nghĩa của các sự
kiện xã hội.
Nhưng phương pháp
hiểu biết trực giác
không chỉ hợp với
các ý tưởng của
chỉnh thể luận. Nó
cũng rất phù hợp với
việc nhà lịch sử chủ
nghĩa nhấn mạnh về
tính mới; vì tính
mới không thể được
giải thích một cách
nhân quả hay duy lí,
mà chỉ có thể lĩnh
hội được một cách
trực giác. Sẽ thấy,
hơn thế nữa, trong
cuộc thảo luận về
các học thuyết theo
tự nhiên của chủ
nghĩa lịch sử, rằng
có mối quan hệ rất
mật thiết giữa chúng
và “biến thể thứ ba”
của chúng ta về
phương pháp hiểu
biết trực giác, với
sự nhấn mạnh của nó
lên các xu hướng hay
khuynh hướng lịch
sử. (Xem, thí dụ,
mục 16).
Mục 9: Các phương
pháp định lượng
Giữa những đối lập
và trái ngược thường
được nhấn mạnh, có
liên quan đến học
thuyết hiểu biết
trực giác, các nhà
lịch sử chủ nghĩa
thường nhấn mạnh
điểm sau. Trong vật
lí học, họ nói, các
sự kiện được giải
thích nghiêm ngặt và
chính xác, ở dạng
định lượng, với sự
giúp đỡ của các công
thức toán học. Xã
hội học, mặt khác,
cố gắng hiểu sự tiến
triển lịch sử ở dạng
định tính hơn; thí
dụ, ở dạng các xu
hướng và mục đích
xung khắc nhau.
Lí lẽ chống lại tính
có thể dùng các
phương pháp định
lượng và toán học
hoàn toàn không lạ
kì đối với các nhà
lịch sử chủ nghĩa;
và, thực vậy, các
phương pháp như vậy
đôi khi bị ngay cả
các tác giả, với các
quan điểm chống lịch
sử chủ nghĩa mạnh
mẽ, bác bỏ. Nhưng
một số lí lẽ có sức
thuyết phục nhất
chống lại các phương
pháp định lượng và
toán học làm nổi bật
rất rõ quan điểm mà
tôi gọi là chủ nghĩa
lịch sử, và các lí
lẽ này sẽ được thảo
luận ở đây.
Khi chúng ta xem xét
sự phản đối sử dụng
các phương pháp định
lượng và toán học
trong xã hội học,
một sự phản đối mạnh
mẽ phải hiện ngay ra
với chúng ta: Thái
độ này có vẻ như mâu
thuẫn với sự thực là
các phương pháp định
lượng và toán học
thực sự được dùng
rất thành công trong
một số khoa học xã
hội. Đối diện với
điều này, làm sao có
thể từ chối rằng
chúng có thể áp dụng
được?
Chống lại sự phản
đối này, sự đối lập
với quan điểm định
lượng và toán học có
thể được giữ vững
bởi một số lí lẽ đặc
trưng cho cách tư
duy chỉnh thể.
Tôi hoàn toàn đồng ý
với các nhận xét của
bạn, nhà lịch sử chủ
nghĩa có thể nói;
song vẫn còn một sự
khác biệt to lớn
giữa các phương pháp
thống kê của các môn
khoa học xã hội và
các phương pháp định
lượng toán học của
vật lí học. Các môn
khoa học xã hội
chẳng biết cái gì có
thể so với các
định luật nhân quả
của vật lí học được
trình bày bằng toán
học.
Xét, thí dụ, định
luật vật lí cho rằng
(với ánh sáng có bất
kể bước sóng nào) độ
mở (độ rộng của khe
hở), qua đó một tia
sáng xuyên qua, càng
nhỏ thì góc khúc xạ
càng lớn. Một quy
luật vật lí loại này
có dạng: “Dưới các
điều kiện nhất định,
nếu độ lớn A biến
đổi theo một cách
nào đó, thì độ lớn B
cũng thay đổi theo
một cách có thể dự
đoán được nào đó”.
Nói cách khác, một
quy luật như vậy bày
tỏ sự phụ thuộc của
một đại lượng có thể
đo được vào một đại
lượng khác, và cách
theo đó, một đại
lượng phụ thuộc vào
đại lượng khác được
trình bày ở dạng
định lượng chính
xác. Vật lí học đã
thành công trong
việc biểu diễn mọi
định luật của nó ở
dạng này. Để đạt
điều này, nhiệm vụ
đầu tiên của nó là
biến tất cả các tính
chất vật lí thành
các khái niệm định
lượng. Thí dụ, nó đã
thay thế việc mô tả
định tính của một
loại ánh sáng nào đó
- thí dụ, ánh sáng
xanh vàng chói -
bằng một mô tả định
lượng: Ánh sáng có
bước sóng nào đó và
cường độ nào đó. Một
quá trình mô tả định
lượng các đại lượng
vật lí hiển nhiên là
điều kiện tiên quyết
cần thiết cho việc
trình bày các quy
luật vật lí nhân quả
một cách định lượng.
Những điều này cho
phép chúng ta giải
thích vì sao cái gì
đó đã xảy ra; thí
dụ, dưới giả thiết
của định luật liên
quan đến độ rộng của
khe hở và góc khúc
xạ, chúng ta có thể
đưa ra một giải
thích nhân quả của
việc tăng góc khúc
xạ bằng sự thực là
độ mở đã giảm.
Giải thích nhân quả,
nhà lịch sử chủ
nghĩa kiên định,
cũng phải được thử
với các môn khoa học
xã hội. Họ có thể,
thí dụ, nhận giải
thích chủ nghĩa đế
quốc bằng sự bành
trướng công nghiệp.
Nhưng, nếu xem xét
thí dụ này, chúng ta
thấy ngay rằng: thật
vô vọng khi đi thử
biểu diễn các quy
luật xã hội học bằng
các khái niệm định
lượng. Vì nếu xem
xét cách phát biểu
nào đó như thế, như
“xu hướng bành
trướng lãnh thổ tăng
lên với cường độ
công nghiệp hoá”
(một cách trình bày
chí ít là dễ hiểu,
mặc dù có lẽ
không phải là
một mô tả đúng của
sự thực), chúng ta
sẽ mau chóng thấy
rằng: Chúng ta không
có bất kể phương
pháp nào để có thể
đo xu hướng bành
trướng, hoặc cường
độ công nghiệp hoá.
Tổng kết lại lí lẽ
lịch sử chủ nghĩa
chống lại các phương
pháp định lượng-toán
học, đó là nhiệm vụ
của nhà xã hội học
để đưa ra giải thích
nhân quả của những
thay đổi đã trải
qua, trong tiến
trình lịch sử, bằng
các đại lượng xã
hội, thí dụ, như các
quốc gia, các hệ
thống kinh tế, hay
các hình thức chính
phủ. Vì không có
cách nào để biểu
diễn chất lượng của
các đại lượng này
bằng các khái niệm
định lượng, không
định luật định lượng
nào có thể được
trình bày. Như thế,
các quy luật nhân
quả của các môn khoa
học xã hội, nếu giả
như là có, thì phải
khác xa về mặt đặc
tính với các định
luật vật lí, và mang
tính định tính hơn
là định lượng và
toán học. Nếu các
quy luật xã hội xác
định mức độ của bất
kể thứ gì, thì chúng
sẽ chỉ làm vậy bằng
những khái niệm rất
mơ hồ, và sẽ cho
phép, nhiều nhất,
một thang độ rất
thô.
Dường như chất lượng
- bất luận vật lí
hay phi vật lí - chỉ
có thể được đánh giá
bằng trực giác. Các
lí lẽ mà chúng ta
thảo luận ở đây, vì
thế, có thể dùng để
hỗ trợ các lí lẽ
được đưa ra để ủng
hộ phương pháp hiểu
biết trực giác.
Mục 10: Bản chất
luận (Essentialism)
đối lại Thuyết duy
danh (Nominalism)
Sự nhấn mạnh tính
chất định tính của
các sự kiện xã hội
dẫn thêm đến vấn đề
địa vị của các khái
niệm biểu thị chất
lượng: Ðến cái gọi
là vấn đề về cái
chung (problem of
universals), một
trong những vấn đề
cổ nhất và căn bản
nhất của triết học.
Vấn đề này, mà một
cuộc chiến lớn về nó
đã diễn ra ác liệt
suốt Thời Trung cổ,
có gốc rễ trong
triết học của Plato
và Aristotle. Nó
thường được diễn
giải như một vấn đề
thuần tuý siêu hình
học; nhưng, giống
như hầu hết các vấn
đề siêu hình học, nó
có thể được trình
bày lại để trở thành
một vấn đề về phương
pháp khoa học. Chúng
ta sẽ chỉ đề cập đến
vấn đề phương pháp
luận ở đây, đưa ra
một phác thảo ngắn
gọn về vấn đề siêu
hình học qua một
đoạn dẫn nhập.
Mọi khoa học đều
dùng các thuật ngữ
gọi là các thuật ngữ
chung (khái niệm
chung), như “năng
lượng”, “tốc độ”,
“các bon”, “độ
trắng”, “tiến hoá”,
“công lí”, “quốc
gia”, “nhân loại”.
Các thuật ngữ này
khác biệt với loại
từ mà chúng ta gọi
là các từ độc nhất
hay các khái niệm
riêng như “Alexander
Đại đế”, “Sao chổi
Halley”, “Chiến
tranh Thế giới lần
Thứ nhất”. Những
thuật ngữ như thế
này là các tên
riêng, các nhãn gắn
cho các sự vật riêng
biệt được biểu thị
bởi chúng theo quy
ước.
Về bản chất của các
từ chung, đã có sự
bàn cãi lâu đời và
đôi khi nổ ra dữ dội
giữa hai phe. Một
phe cho rằng các từ
chung, khác các tên
riêng chỉ do được
gắn với các thành
viên của một tập
(hợp) hay
một lớp của
các thứ đơn lẻ, hơn
là gắn với chỉ một
thứ đơn lẻ. Thí dụ,
từ chung “trắng” đối
với phe này chẳng là
gì khác mà là một
cái nhãn gắn cho một
tập hợp của nhiều
thứ khác nhau - thí
dụ như bông tuyết,
khăn trải bàn, và
thiên nga. Đây là
học thuyết của phe
duy danh
(nominalist).
Đối lập với nó là
một học thuyết theo
truyền thống được
gọi là “thuyết
duy thực” (realism)
- một cái tên hơi
gây nhầm lẫn, vì lí
thuyết “duy thực”
này đã cũng được gọi
là “duy tâm”. Vì
vậy, tôi kiến nghị
đổi lại tên lí
thuyết phản tự nhiên
này thành bản
chất luận
(essentialism).
Các nhà bản chất
luận phủ nhận việc:
Ðầu tiên, chúng ta
gom một nhóm các thứ
riêng biệt lại và
gắn nhãn “trắng” cho
chúng; đúng hơn, họ
nói, chúng ta gọi
mỗi thứ đơn lẻ là
“trắng” vì một tính
chất nội tại nào đó
mà nó chia sẻ với
các thứ trắng khác,
cụ thể là “màu
trắng”. Tính chất
này, biểu hiện bằng
từ chung, được coi
như một đối tượng
đáng được nghiên cứu
hệt như bản thân các
sự vật riêng lẻ.
(Tên “duy thực luận”
xuất xứ từ sự khẳng
định là các đối
tượng chung, thí dụ,
sắc trắng, “thực sự”
tồn tại, ngoài các
sự vật riêng lẻ và
các tập hay nhóm của
các sự vật riêng
lẻ). Như thế, các từ
chung được cho là để
biểu thị các đối
tượng chung, hệt như
các từ riêng biểu
thị các thứ riêng
lẻ. Các đối tượng
chung này (Plato gọi
là “Hình thức” hay
“Ý niệm”) được chỉ
rõ bằng các từ
chung, cũng được gọi
là “bản chất”.
Song duy thực luận
không chỉ tin vào sự
tồn tại của các thứ
chung (các đối tượng
chung), nó cũng nhấn
mạnh tầm quan trọng
của chúng với khoa
học. Nó chỉ ra, các
đối tượng riêng bày
tỏ nhiều đặc tính
phụ, các đặc tính
không quan trọng gì
cho khoa học. Để lấy
một thí dụ từ các
môn khoa học xã hội:
Kinh tế học quan tâm
đến tiền và tín
dụng, song nó không
để ý đến hình thù cá
biệt của các đồng
tiền, giấy bạc hay
séc. Khoa học phải
lột đi cái phụ và
thấu hiểu cái bản
chất của các sự vật.
Nhưng bản chất của
bất kể thứ gì luôn
luôn là cái gì đó
chung.
Những nhận xét cuối
này biểu thị một số
hệ luỵ phương pháp
luận của vấn đề siêu
hình học này. Tuy
vậy, vấn đề phương
pháp luận mà tôi sắp
thảo luận, thực ra
có thể được xem xét
độc lập với vấn đề
siêu hình học. Chúng
ta sẽ tiếp cận nó
theo con đường khác
- một cách tránh vấn
đề về sự tồn tại của
các đối tượng chung
và riêng, và về sự
khác biệt của chúng.
Chúng ta sẽ chỉ thảo
luận các mục đích và
phương tiện của khoa
học.
Trường phái của các
nhà tư tưởng mà tôi
kiến nghị gọi là
các nhà bản chất
luận phương pháp
được sáng lập bởi
Aristotle, người chủ
trương là nghiên cứu
khoa học phải đi sâu
vào bản chất của các
sự vật nhằm giải
thích chúng. Các nhà
bản chất luận phương
pháp có thiên hướng
trình bày các vấn đề
khoa học dưới dạng
như “vật chất là
gì?” hay “lực là
gì?” hay “công bằng
là gì?” và họ tin
rằng: Một câu trả
lời thấu đáo cho các
câu hỏi như vậy, bộc
lộ ý nghĩa thực sự
hay bản chất của các
khái niệm này và vì
vậy bộc lộ bản tính
thực hay đúng của
các bản chất biểu
hiện bởi chúng, ít
nhất là điều kiện
tiên quyết, nếu
không phải là nhiệm
vụ chủ yếu, của việc
nghiên cứu khoa học.
Các nhà duy danh
luận phương pháp,
tương phản với điều
này, sẽ đặt các vấn
đề của họ dưới dạng
như “miếng vật chất
này ứng xử ra sao?”
hay “nó chuyển động
thế nào trong sự
hiện diện của các
vật thể khác?” Vì
các nhà duy danh
luận phương pháp cho
rằng nhiệm vụ của
khoa học chỉ là mô
tả các sự vật ứng xử
ra sao, và gợi ý
rằng: Ðiều này phải
được tiến hành một
cách tự do, bằng
cách đưa ra các
thuật ngữ mới nơi
cần thiết, hoặc bằng
việc định nghĩa lại
các thuật ngữ cũ nơi
thấy thuận lợi,
trong khi vui vẻ bỏ
qua ý nghĩa ban đầu
của chúng. Vì họ coi
các từ chỉ là
các công cụ hữu ích
để mô tả.
Hầu hết mọi người
đều thừa nhận rằng:
Thuyết duy danh
phương pháp luận đã
chiến thắng trong
các môn khoa học tự
nhiên. Vật lí học,
thí dụ, không thẩm
tra bản chất của
nguyên tử hay ánh
sáng, mà nó dùng các
thuật ngữ này với độ
tự do cao để giải
thích và mô tả các
quan sát vật lí nào
đó, và cũng như tên
của các cấu trúc vật
lí quan trọng và
phức tạp nào đó. Với
sinh học cũng vậy.
Các nhà triết học có
thể đòi hỏi từ các
nhà sinh học lời
giải của các vấn đề
như “cuộc sống là
gì?” hay “tiến hoá
là gì?” và đôi khi
một số nhà sinh học
có thể cảm thấy có ý
thích thoả mãn các
đòi hỏi như vậy. Tuy
nhiên, khoa học sinh
học giải quyết tổng
quát các vấn đề
khác, và chấp nhận
các phương pháp giải
thích và mô tả rất
giống các phương
pháp dùng trong vật
lí học.
Như thế, trong các
môn khoa học xã hội,
chúng ta trông đợi
các nhà phương pháp
theo tự nhiên ủng hộ
thuyết duy danh, còn
các nhà phương pháp
phản tự nhiên ủng hộ
bản chất luận. Thế
mà thực ra, bản chất
luận dường như thắng
thế ở đây; và nó
thậm chí không đối
mặt với bất kể sự
phản đối rất mãnh
liệt nào. Cho nên
được gợi ý rằng:
Trong khi các phương
pháp của khoa học tự
nhiên căn bản là duy
danh, khoa học xã
hội phải theo phương
pháp bản chất luận.
[2]
Người ta lí luận
rằng: Nhiệm vụ của
khoa học xã hội là
hiểu và giải thích
các thực thể xã hội
học như nhà nước,
hoạt động kinh tế,
nhóm xã hội, v.v.,
và rằng điều này chỉ
có thể được tiến
hành bằng sự thấu
hiểu bản chất của
chúng. Mỗi thực thể
xã hội học quan
trọng giả định trước
các thuật ngữ chung
cho sự mô tả nó và
sẽ vô nghĩa khi đưa
ra các thuật ngữ mới
một cách tự do, như
được làm rất thành
công trong các môn
khoa học tự nhiên.
Nhiệm vụ của khoa
học xã hội là mô tả
các thực thể như vậy
một cách rõ ràng và
đúng đắn, tức là, để
phân biệt cái bản
chất khỏi cái tình
cờ, cái phụ; nhưng
điều này đòi hỏi tri
thức về bản chất của
chúng. Các vấn đề
như “Nhà nước là
gì?”; và “công dân
là gì?” (được
Aristotle coi là các
vấn đề cơ bản của
cuốn Politics
[Chính trị học]
của ông), hoặc “tín
dụng là gì?” hay “sự
khác biệt căn bản
giữa linh mục và
người theo môn phái
(hay nhà thờ và môn
phái) là gì?” không
chỉ là hoàn toàn
chính đáng, mà chính
xác là loại vấn đề
mà các lí thuyết xã
hội học được thiết
kế để trả lời.
Mặc dù các nhà lịch
sử chủ nghĩa có thể
khác nhau về thái độ
của họ đối với vấn
đề siêu hình học, và
về ý kiến của họ
liên quan đến phương
pháp luận của khoa
học tự nhiên, rõ
ràng là họ sẽ có
thiên hướng đứng về
phía bản chất luận
và chống thuyết duy
danh trong chừng mực
liên quan đến phương
pháp luận của khoa
học xã hội. Thực
vậy, gần như mọi nhà
lịch sử chủ nghĩa mà
tôi biết đều có thái
độ này. Nhưng đáng
xem xét, liệu có
phải chỉ xu hướng
phản tự nhiên của
chủ nghĩa lịch sử
giải thích cho điều
này, hay liệu có bất
kể lí lẽ lịch sử chủ
nghĩa đặc thù nào
cũng có thể thúc
giục việc ủng hộ bản
chất luận phương
pháp hay không.
Đầu tiên, rõ ràng là
lí lẽ chống lại việc
dùng các phương pháp
định lượng trong
khoa học xã hội có
liên quan đến vấn đề
này. Sự nhấn mạnh
đến tính chất định
tính của các sự kiện
xã hội, cùng với sự
nhấn mạnh đến hiểu
biết trực giác
(ngược với mô tả
thuần tuý), biểu lộ
một thái độ liên
quan mật thiết với
bản chất luận.
Nhưng có các lí lẽ
khác, điển hình hơn
của chủ nghĩa lịch
sử, theo một khuynh
hướng tư tưởng mà
bây giờ là quen
thuộc đối với bạn
đọc. (Tình cờ, chúng
hầu như là cùng các
lí lẽ, theo
Aristotle, đã dẫn
Plato đi phát triển
lí thuyết đầu tiên
về bản chất).
Chủ nghĩa lịch sử
nhấn mạnh tầm quan
trọng của thay đổi.
Bây giờ, trong mọi
sự thay đổi, nhà
lịch sử chủ nghĩa có
thể lí luận, phải có
cái gì đó thay đổi.
Cho dù chẳng có gì
là không thay đổi,
chúng ta phải có khả
năng nhận diện ra
cái đã thay đổi để
có thể nói về sự
thay đổi nói chung.
Điều này là tương
đối dễ trong vật lí
học. Trong cơ học,
thí dụ, mọi sự thay
đổi đều là chuyển
động, tức là những
thay đổi về
không-thời gian, của
các vật thể vật lí.
Nhưng xã hội học,
chủ yếu quan tâm đến
các định chế xã hội,
đối mặt với những
khó khăn lớn hơn, vì
các định chế như vậy
là không dễ nhận
diện sau khi chúng
đã trải qua sự thay
đổi. Theo ý nghĩa mô
tả đơn thuần, không
có khả năng coi một
định chế xã hội
trước một sự
thay đổi là cùng như
định chế đó sau
sự thay đổi; nó có
thể, từ quan điểm mô
tả, là hoàn toàn
khác nhau. Một mô tả
theo tự nhiên của
các định chế chính
phủ đương thời ở
Vương quốc Anh, thí
dụ, có thể phải
trình bày chúng hoàn
toàn khác cái mà
chúng đã là bốn thế
kỉ trước. Thế mà
chúng ta có thể nói,
trong chừng mực có
một chính phủ,
nó về bản chất
là như nhau, cho dù
nó có thể đã thay
đổi một cách đáng
kể. Chức năng của nó
trong xã hội hiện
đại về bản chất
tương tự như chức
năng nó đã thoả mãn
khi đó. Mặc dù hầu
như chẳng có đặc
tính đáng muốn nào
còn như cũ, nét
riêng biệt bản
chất của định
chế được duy trì,
cho phép chúng ta
coi một định chế như
một dạng được thay
đổi của cái kia:
Chúng ta không thể
nói, trong các môn
khoa học xã hội, về
những thay đổi hay
tiến triển mà không
giả định trước một
bản chất không thay
đổi, và vì thế mà
không tiến hành phù
hợp với bản chất
luận phương pháp.
Tất nhiên, rõ ràng
là một số thuật ngữ
xã hội học, như suy
thoái, lạm phát,
thiểu phát, v.v.,
ban đầu được đưa ra
theo phong cách duy
danh thuần tuý.
Nhưng dù có đúng như
thế, chúng không giữ
lại đặc tính duy
danh của chúng. Khi
điều kiện thay đổi,
chúng ta mau chóng
thấy các nhà khoa
học xã hội không
đồng ý về việc: Liệu
các hiện tượng nào
đó thật sự là lạm
phát hay không; như
thế, vì sự chính xác
có thể trở nên cần
thiết để điều tra
nghiên cứu bản tính
căn bản (hay ý nghĩa
thực chất) của lạm
phát.
Vì thế, có thể nói
về bất kể thực thể
xã hội nào, rằng: Nó
“có thể, trong chừng
mực liên quan đến
bản chất của nó,
có mặt ở bất kể chỗ
nào khác và dưới bất
kể hình thức nào
khác, và có thể cũng
như thế thay đổi
trong khi thực ra
vẫn không thay đổi,
hoặc thay đổi khác
hơn cách mà nó thực
sự thay đổi”
(Husserl). Mức độ
của những thay đổi
khả dĩ không thể bị
hạn chế a priori
(một cách tiên
nghiệm). Không
thể biết: Một thực
thể xã hội có thể
cưỡng lại loại thay
đổi nào mà vẫn giữ
được nguyên trạng.
Các hiện tượng mà
theo các lập trường
nào đấy có thể khác
nhau một cách bản
chất, lại có thể về
bản chất như nhau
theo các lập trường
khác.
Từ các lí lẽ lịch sử
chủ nghĩa được phát
triển ở trên, suy ra
rằng: Một sự mô tả
trần trụi các diễn
tiến xã hội là không
thể; hay đúng hơn,
rằng: Một mô tả xã
hội học chẳng bao
giờ có thể đơn thuần
là một mô tả theo
nghĩa duy danh. Và
nếu mô tả xã hội học
không thể không cần
đến bản chất, một lí
thuyết về phát triển
xã hội sẽ thậm chí
ít có khả năng như
vậy hơn. Vì ai dám
từ chối, rằng các
vấn đề như xác định
và giải thích các
nét đặc trưng của
một giai đoạn xã hội
nào đó, cùng với
những căng thẳng và
xu hướng nội tại và
khuynh hướng của nó,
chắc hẳn thách đố
mọi nỗ lực để áp
dụng các phương pháp
duy danh?
Bản chất luận về
phương pháp, do đó,
có thể dựa vào lí lẽ
lịch sử chủ nghĩa,
mà thực tế đã dẫn
Plato đến bản chất
luận siêu hình học
của ông, lí lẽ của
Heraclite cho rằng,
những thứ thay đổi
thách đố mô tả duy
lí. Cho nên khoa học
hay tri thức giả
thiết trước một cái
gì đó không thay đổi
mà vẫn y hệt như bản
thân nó - một bản
chất. Lịch sử,
tức là mô tả sự thay
đổi, và bản chất,
tức là cái vẫn không
thay đổi trong lúc
sự thay đổi diễn ra,
hiện ra ở đây như
các khái niệm tương
quan. Nhưng tương
quan này còn có mặt
khác của nó: Theo
một nghĩa nào đó,
bản chất cũng giả
thiết trước sự thay
đổi, và do đó, giả
thiết trước lịch sử.
Vì nếu nguyên lí đó
về một thứ vẫn còn y
nguyên hay không
thay đổi khi sự vật
thay đổi là bản chất
(hay tư tưởng, hay
hình thức, hay bản
tính, hay thực chất)
của nó, thì những
thay đổi mà sự vật
trải qua làm sáng tỏ
các mặt hay các khía
cạnh hay các khả
năng khác nhau của
sự vật và vì vậy của
bản chất của nó. Bản
chất, vì vậy, có thể
được diễn giải như
tổng hay nguồn của
các khả năng vốn có
trong sự vật, và
những sự thay đổi
(hay chuyển động) có
thể được diễn giải
như sự thực hiện hay
sự hiện thực hoá các
khả năng tiềm ẩn của
bản chất của nó. (Lí
thuyết này có xuất
xứ từ Aristotle).
Suy ra rằng một sự
vật, tức là bản chất
không thay đổi của
nó, có thể được biết
đến chỉ thông qua
những thay đổi của
nó. Nếu, thí dụ,
chúng ta muốn khám
phá ra, liệu một vật
nào đó có phải được
làm bằng vàng hay
không, chúng ta phải
đập nó, hoặc xét
nghiệm nó về mặt hoá
học, như thế làm
thay đổi nó và bằng
cách ấy, để lộ ra
một số khả năng tiềm
ẩn của nó. Theo cùng
cách, bản chất của
một người - nhân
cách của anh ta -
chỉ có thể được biết
khi nó tự bộc lộ ra
trong tiểu sử của
anh ta. Áp dụng
nguyên lí này vào xã
hội học, dẫn chúng
ta đến kết luận
rằng: Bản chất hay
đặc tính thật của
một nhóm xã hội có
thể tự tiết lộ, và
được biết đến, chỉ
thông qua lịch sử
của nó. Nhưng nếu
các nhóm xã hội có
thể được biết chỉ
qua lịch sử của
chúng, thì các khái
niệm dùng để mô tả
chúng phải là các
khái niệm lịch sử;
và thực vậy, các
khái niệm như nhà
nước Nhật Bản
hay dân tộc Ý
hay dòng giống
Aryan hầu như không
thể diễn giải như
bất kể thứ gì khác
mà chỉ như các khái
niệm dựa vào sự
nghiên cứu lịch sử.
Cũng đúng vậy với
các giai cấp xã
hội: Giai cấp tư
sản, thí dụ, chỉ
có thể được định
nghĩa bằng lịch sử
của nó: Như giai cấp
lên nắm quyền thông
qua cách mạng công
nghiệp, đẩy các địa
chủ ra bên lề, chiến
đấu với và bị đánh
bại bởi giai cấp vô
sản, v. v.
Bản chất luận có thể
được đưa vào với lí
do: Nó cho phép
chúng ta phát hiện
ra một sự đồng nhất
trong các sự vật
thay đổi, nhưng đến
lượt nó, nó cung cấp
một số lí lẽ hùng
mạnh nhất để ủng hộ
học thuyết cho rằng:
Các môn khoa học xã
hội phải chấp nhận
phương pháp lịch sử;
tức là, ủng hộ học
thuyết của chủ nghĩa
lịch sử.
© 2004 talawas
[1]Chú
thích của dịch giả:
Afred Dreyfus, một
sĩ quan quân đội
Pháp, gốc Do thái,
bị kết án làm gián
điệp cho Đức cuối
thế kỉ thứ mười
chín. Nhà văn Émile
Zola đã tố cáo việc
tạo dựng vụ này.
[2]Xem
mục vi của chương 3
của cuốn Open
Society and Its
Enemies của tôi,
đặc biệt chú thích
30, và mục ii của
chương 11.
|
|
|
|
|
|