Lời sám hối
của một nhà toán học hình thức
“Nghịch lý tập hợp đã huỷ hoại lý thuyết tập hợp”
Gottlob Frege

Nếu
lòng dũng cảm và tính trung thực là thước đo nhân cách của một nhà
khoa học thì Gottlob Frege (1848-1925) phải được coi là một trong
những nhà khoa học có nhân cách vĩ đại nhất: Mặc dù cay đắng đến tột
cùng khi tác phẩm để đời của ông – cuốn Cơ Sở Số Học(1)
–
bị sụp đổ
tan tành chỉ vì một nghịch lý đã được phát hiện ngay trong nền tảng
lý thuyết, nhưng Frege không tìm cách né tránh hoặc ngụy biện, mà
ngược lại, đã xử sự như một người quân tử: Công khai thừa nhận
sai lầm và rứt khoát từ bỏ lý tưởng toán học hình thức mà ông đã
ấp ủ cả cuộc đời. Một năm trước khi mất, ông để lại những lời
trăng trối vô cùng cảm động, như một lời sám hối về nhận thức sai
lầm đối với bản chất của toán học.
“Lời
của kẻ sắp mất là lời khôn”: Năm 1931, Kurt Godel công bố Định Lý
Bất Toàn (Theorem of Incompleteness), cho thấy lý tưởng của Chủ
Nghĩa Hình Thức chỉ là một ảo tưởng hão huyền – một cái vòng luẩn
quẩn của kẻ đi tìm điểm cuối trên một đường tròn!
Trớ
trêu thay, người vạch ra sai lầm của Frege lại là người vốn ngưỡng
mộ Frege hết lòng: Đó là Bertrand Russell (1872-1970), một
người luôn luôn khao khát tìm kiếm chân lý tuyệt đối của toán học
như một con chiên ngoan đạo khao khát đức tin tôn giáo.
1]
“Tôn giáo” của Bertrand Russell:
Trong
cuốn “Portraits from Memory” (Những chân dung qua trí nhớ)
Russell viết: “Tôi
khao khát tìm kiếm cái chắc chắn (certainty)
giống như người ta khao khát đức tin tôn giáo. Tôi nghĩ tính chắc
chắn dường như có trong toán học nhiều hơn ở bất kỳ nơi nào khác”(2).
Nhưng ông không thoả mãn với những thứ toán học mà ông đã biết: “Tôi
khám phá ra rằng nhiều chứng minh toán học, mà các thầy giáo của tôi
muốn tôi chấp nhận, chứa đựng đầy rẫy sai lầm”(3),
Russell viết. Vì thế, ông cho rằng cần phải xây dựng lại toán học,
sao cho toán học trở thành một hệ thống chân lý thật sự đáng tin
cậy: “Nếu tính chắc chắn thật sự có thể tìm thấy trong toán học
thì đó sẽ là một lĩnh vực mới của toán học, với những nền tảng vững
chắc hơn những nền tảng mà cho tới nay người ta tưởng là đã vững
chắc lắm rồi”(4).
Với
tư tưởng đó, Russell đã nghiễm nhiên gia nhập “phái nền tảng”
(foundationism) – trường phái đòi xét lại nền tảng của toán học đầu
thế kỷ 20. Phái này cũng chính là “phái hình thức”
(formalism), bởi họ cho rằng muốn xây dựng lại toán học, phải triệt
để hình thức hoá toàn bộ toán học, biến toán học thành một hệ logic
tuyệt đối siêu hình, hoàn toàn tách rời thế giới hiện thực, như
Russell tuyên bố: “Toán học là một khoa học mà trong
đó người ta không bao giờ biết người ta đang nói về cái gì,
miễn là cái điều người ta nói là đúng”(5).
Chẳng hạn, khi xét mệnh đề 2 + 3 = 5, toán học “chân chính” không
cần biết ý nghĩa vật chất cụ thể của các số 2, 3, 5 là cái gì, miễn
là có được những định nghĩa và tiên đề nào đó về số cho phép kiểm
tra mệnh đề đã cho là đúng hay sai. Nói cách khác, Russell coi bản
chất toán học là logic, toán học đồng nghĩa với logic-học: Đó chính
là chủ nghĩa logic (logicism) mà Frege đã áp dụng để xây dựng
bộ Cơ Sở Số Học và David Hilbert cũng đã áp dựng trước đó để
xây dựng cuốn Cơ Sở Hình Học(6).
Chủ
nghĩa ấy giống như một thứ “tôn giáo thiêng liêng”: “Tôi tin rằng
toán học là nguồn chủ yếu của niềm tin vào chân lý vĩnh cửu và chính
xác, cũng như vào một thế giới siêu việt có thể nhận biết được bằng
trí óc”(7),
Russell viết. Chính vì khao khát nhận biết được cái “thế giới siêu
việt” ấy nên Russell đã bàng hoàng xúc động khi đọc Cơ Sở Số Học
của Frege, coi Frege như một ngôi sao dẫn đường của toán học hình
thức.
Nhưng
ngưỡng mộ Frege bao nhiêu, ông cũng lo lắng cho Frege bấy nhiêu, vì
ông cảm thấy một nghịch lý do chính ông khám phá ra trước đó có thể
huỷ hoại công trình của Frege. Đó là “Nghịch Lý Russell”
(Russell’s Paradoxe), một nghịch lý đã đi vào lịch sử toán học như
một trong những nghịch lý nổi tiếng nhất!
2]
Nghịch lý Russell:
Russell
chia tập hợp thành hai loại:
1*
Tập thông thường (ordinary set), là tập hợp sao cho nó không
phải là phần tử của chính nó (nó không thuộc chính nó). Thí dụ: Tập
hợp những chiếc xe máy là một tập thông thường, vì tập hợp ấy không
thể là một chiếc xe máy.

Tập hợp những chiếc xe máy là một tập thông thường
2*
Tập lạ thường (extraordinary set), là tập hợp sao cho nó là phần
tử của chính nó (nó thuộc chính nó). Thí dụ: Tập hợp của tất cả
những gì không phải là chiếc xe máy. Dễ thấy tập hợp này là một phần
tử của chính nó, vì tập hợp này không phải là một chiếc xe máy.
Có
rất nhiều tập thông thường khác nhau cũng như có rất nhiều
tập lạ thường khác nhau. Russell đề nghị xét một tập hợp đặc
biệt, đó là Tập hợp của tất cả các tập thông thường.
Ngay lập tức, cái đầu logic sắc sảo của Russell dẫn ông tới một câu
hỏi lạ lùng nhưng lý thú:
Tập
hợp của tất cả các tập thông thường là một tập thông thường hay lạ
thường?
Câu
hỏi trên dài quá, có thể làm mệt một số độc giả. Vậy xin rút gọn
bằng cách gọi tập hợp của tất cả các tập thông thường là Tập
Russell.
Khi
đó, câu hỏi của Russell sẽ là:
Tập
Russell là một tập thông thường hay lạ thường?
Giả
sử Tập Russell là tập thông thường, lập tức suy ra nó là một
phần tử của chính nó (vì Tập Russell chứa tất cả các tập thông
thường). Nhưng nếu nó là một phần tử của chính nó thì nó phải là tập
lạ thường, vậy Tập Russell là tập lạ thường, mâu thuẫn với
giả thiết!
Giả
sử ngược lại cũng dẫn tới mâu thuẫn. Tóm lại:
Đó
chính là Nghịch lý Russell, được trình bầy dưới dạng ký hiệu
như trong minh hoạ sau:

Hình bên trái: Một cái hộp chứa chính nó - một sản phẩm phi thực tế.
Hình bên phải: Một tập hợp chứa chính nó - một sản phẩm của logic
hình thức thuần tuý.
Logic hình thức thừa nhận một khái niệm phi hiện thực – nguồn gốc
của mâu thuẫn nghịch lý
“Thủ
phạm” dẫn tới nghịch lý là Tập Russell, tức tập hợp của tất cả
các tập thông thường. Đó cũng chính là “thủ phạm” gây ra BẤT ỔN
ngay từ trong nền móng lý thuyết của Frege, bởi Frege đã xây dựng
toà lâu đài số học của mình dựa trên khái niệm nền tảng là “tập
hợp của các tập hợp”: 2 là tập hợp của các cặp đôi; 3 là tập hợp
của các “bộ ba”, …
Vốn
ngưỡng mộ Frege hết lòng, Russell vội tìm cách cứu Frege. Ông viết
thư thông báo cho Frege biết nghịch lý của mình, hy vọng Frege có
thể sửa chữa được công trình, nhưng không ngờ lá thư ấy đã đẩy Frege
xuống vực thẳm thất vọng, để cuối cùng dẫn ông tới một cuộc sám hối
sâu sắc về nhận thức bản chất của toán học.
3]
Lá thư quyết định số phận của Frege:
Ngày
16-06-1902, Bertrand Russell gửi tới Frege một lá thư, trong đó có
đoạn viết: “Trong công trình của ngài, tôi tìm thấy những lý
thuyết đẹp đẽ nhất trong thời đại của chúng ta mà tôi biết, và do đó
tôi tự cho phép mình bầy tỏ một sự kính trọng sâu xa đối với ngài”(8).
Russell
không chỉ viết thư cho cá nhân Frege, mà còn giới thiệu công trình
của Frege với toàn thế giới, mà trước đó hầu như nó không được ai
biết đến. Có lẽ tính hình thức quá nặng nề làm cho nó trở nên khô
khan, khó hiểu, không hấp dẫn. Nhưng Russell “tiêu hoá” được nó,
ngưỡng mộ nó, vì chính ông cũng đang cùng với Alfred Whitehead viết
một công trình tương tự: Principia Matematica (Nguyên Lý Toán
Học). Nhưng tại sao Russell đã khám phá ra nghịch lý của ông từ một
năm trước khi gửi thư tới Frege, mà trong thư ông vẫn coi công trình
của Frege là một đột phá, một lý thuyết đẹp đẽ nhất? Đơn giản vì
Russell không bao giờ từ bỏ khát vọng tìm kiếm một hệ thống chân lý
tuyệt đối của toán học. Có thể ông cho rằng về căn bản Frege đã đi
đúng hướng, vấn đề là Frege chỉ cần xem xét lại, sửa chữa công trình
sao cho hoàn chỉnh hơn mà thôi!
Hoá
ra tác giả của một trong những nghịch lý nổi tiếng nhất của toán học
cũng không ý thức được rằng bản chất của toán học cũng như mọi hệ
thống nhận thức khác vốn bất toàn – không tồn tại một hệ
logic tuyệt đối phi mâu thuẫn – như 29 năm sau đó Godel đã chứng
minh.
Đó là
lý do để Russell thông báo cho Frege biết nghịch lý của mình với một
thái độ rất tao nhã, khiêm tốn: “Tôi tán thành với ngài về mọi
điểm, nhưng chỉ có một điểm tôi gặp phải khó khăn …”(9).
Nhưng
trong khi Russell khiêm tốn như thế thì chính Frege lại nhanh chóng
nhận thấy nguy cơ sụp đổ toàn bộ công trình của đời mình.
Với
bản chất trung thực, thẳng thắn hiếm có, ông lập tức viết thư trả
lời Russell, và viết ngay một phụ lục bổ xung vào Tập 2
của bộ Cơ Sở Số Học đúng vào lúc nó chuẩn bị được đem in, như
một sự công khai thừa nhận thất bại của mình: “Không còn gì
tồi tệ hơn có thể xẩy đến với một nhà khoa học khi phải chứng kiến
nền tảng lý thuyết của mình sụp đổ đúng vào lúc công trình được hoàn
thành. Tôi đã bị đặt vào tình thế này do vừa nhận được một lá thư từ
ngài Bertrand Russell”(10).
Nhà
khoa học có thể gặp nhiều nỗi cay đắng, nhưng hiếm có nỗi cay đắng
nào giống như của Frege: Ông mất năm 1925 với tâm trạng của một
kẻ tin rằng công trình của cả cuộc đời mình chỉ dẫn tới sự vô ích.
Cái chết của ông không được cộng đồng khoa học biết tới(11).
Thật
là đau đớn, chua chát, nhưng có lẽ nỗi chua chát lớn nhất đối với
Frege là sự vô tình của người đời trước những lời trăng trối vô
cùng tha thiết của ông – những lời sám hối mà lẽ ra mọi người phải
biết rõ.
4]
Những lời sám hối của Frege:
Năm
1924, tức một năm trước khi mất, Frege trăng trối: “Nghịch lý
tập hợp đã huỷ hoại lý thuyết tập hợp”. Rồi ông nói tiếp: “Tôi
càng suy nghĩ về điều này thì tôi càng đi đến chỗ tin rằng số học và
hình học đều nẩy sinh từ cùng một nền tảng, thực ra là từ nền tảng
hình học; Do đó toàn bộ toán học thực ra là hình học”(12).
Nghĩa
là ông đã vĩnh biệt giấc mơ hão huyền của chủ nghĩa hình thức để trở
về với cái nôi hiện thực – cái nôi đã đẻ ra toán học. Để thấu hiểu
cuộc “lột xác” này, xin độc giả nhớ lại quan điểm của Frege về hình
học:
Về
hình học, ngay từ đầu Frege đã là một môn đệ trung thành của trường
phái Kant, coi hình học là khoa học dựa trên trực giác, tức là dựa
trên thực tiễn, và do đó đối kháng 100% với David Hilbert khi
Hilbert muốn biến hình học thành một hệ logic hình thức thuần tuý.
Hilbert
vốn đã nổi tiếng nhưng lại càng nổi tiếng hơn vì một tuyên bố “bất
hủ” của ông: “Bất kể lúc nào người ta cũng có thể nói về điểm,
đường, mặt như là nói về cái bàn, cái ghế, và cốc bia”(13).
Có nghĩa điểm, đường, mặt trong thực tế là cái gì cũng không quan
trọng, điều quan trọng là chúng có thoả mãn các mệnh đề logic (tiên
đề, định lý) của hình học hay không.
Ngược
lại, đối với Frege, ý nghĩa của một mệnh đề hình học gắn chặt với ý
nghĩa của những đối tượng hình học nằm trong mệnh đề đó. Nếu không
hiểu hoặc hiểu sai những đối tượng này thì mệnh đề hình học cũng bị
hiểu sai hoặc trở nên vô nghĩa. Ông viết: “Chừng nào mà tôi hiểu
những từ như “đường thẳng”, “song song”, “giao điểm” như tôi vẫn
hiểu, thì chừng ấy tôi không thể không chấp nhận tiên đề đường song
song. Nếu ai đó không chấp nhận nó, tôi chỉ có thể cho rằng người ấy
hiểu những từ ngữ này không giống tôi. Ý nghĩa của những từ ngữ đó
gắn chặt với tiên đề đường song song”(14).
Điều đó có nghĩa là Hilbert hoàn toàn sai khi không đếm xỉa đến ý
nghĩa thực tế của các đối tượng hình học như điểm, đường, mặt.
Trong
thực tế, mâu thuẫn quan điểm hình học giữa Frege và Hilbert đã bùng
nổ thành một cuộc tranh cãi không thể thoả hiệp, như Reuben Hersh đã
kể lại như sau:
Quan
điểm theo trường phái Kant của Frege về hình học đã dẫn ông tới chỗ
tấn công Hilbert. Ông nói với Hilbert rằng Hilbert không biết phân
biệt một định nghĩa với một tiên đề. Hilbert đã trả lời thư đầu tiên
của Frege hoặc hai thư. Sau đó Hilbert lờ đi. Nhưng Frege tiếp tục
lớn tiếng. Thậm chí ông nói xa nói gần rằng Hilbert không dám tiếp
tục tranh cãi nữa vì sợ những kết quả của mình có thể sai!(15)
5]
Kết:
Henri
Poincaré, một trong những nhà toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại,
ngay từ đầu đã quyết liệt chống đối chủ nghĩa logic hình thức. Khi
Nghịch Lý Russell ra đời, ông không cần che giấu sự thoả mãn
khi công khai bình luận ý nghĩa tích cực của nghịch lý này với một
giọng đầy giễu cợt đối với chủ nghĩa logic hình thức: “Chủ nghĩa
logic cuối cùng cũng đã chứng minh được rằng nó không hoàn toàn vô
ích. Phút chót nó cũng đã sinh đẻ được, nhưng lại đẻ ra một nghịch
lý”(16).
Henri Poincaré:
“Nhà toán học thuần tuý giống như một hoạ sĩ biết cách
kết hợp hài hoà mầu sắc nhưng lại bị tước đi vật mẫu!”.
Có lẽ
Frege cũng nghĩ như vậy nên mới đi đến chỗ sám hối và “lột xác” 100%
trong những năm cuối đời. Sự sám hối của ông là bài học vô giá, giúp
chúng ta nhận ra rằng:
· Nghịch lý
Russell đã huỷ hoại lý thuyết tập hợp. Nếu nó chưa đủ sức khai tử
Chương Trình Hilbert như 29 năm sau Định Lý Bất Toàn của Godel sẽ
làm, thì ít nhất nó cũng đã cho thấy lý thuyết tập hợp thực ra cũng
chẳng phải “lý tưởng”, “chính xác”, và “tuyệt đối” như người ta đã
kỳ vọng quá nhiều vào nó – kỳ vọng đến nỗi coi nó là nền tảng của
toán học, muốn dùng nó làm cơ sở để diễn đạt toàn bộ toán học, và
thậm chí, ra sức nhồi nhét ngôn ngữ tập hợp vào đầu học sinh phổ
thông.
Thiết
tưởng lời giễu cợt của Poincaré nói trên và sự sám hối của Frege
cũng đã quá đủ để cho những ai có những kỳ vọng đó phải hồi tâm suy
nghĩ lại. Nếu uy tín của Poincaré và Frege chưa đủ để “lay chuyển”
sức ỳ của những bộ não sính hình thức chủ nghĩa thì xin cung cấp
thêm một nhận định của Bách Khoa Toàn Thư Triết Học Stanford
(Stanford Encyclopedia of Phylosophy) của Đại Học Stanford ở Mỹ như
sau:
Ý
nghĩa của Nghịch Lý Russell có thể cảm nhận được rõ ràng một khi
hiểu ra rằng dựa trên logic cổ điển, mọi mệnh đề đều dẫn tới mâu
thuẫn. Do đó trong con mắt của nhiều người, dường như không có một
chứng minh toán học nào đáng tin cậy, một khi logic và lý thuyết tập
hợp vốn là nền tảng của toán học lại là mâu thuẫn(17).
Điều
này có nghĩa là gì? Có nghĩa là toán học cũng chỉ chính xác đến một
mức độ tương đối nào đó mà thôi, thay vì có thể đạt tới sự chính xác
tuyệt đối như nhiều người vẫn tưởng. Sự đề cao thái quá ngôn ngữ
logic và tập hợp như “cây đũa thần” của toán học chỉ để lộ ra sự
thiếu hiểu biết về bản chất của toán học! Nếu bài học của Frege vẫn
chưa đủ để nhắc nhở những người mắc bệnh sính hình thức trong giáo
dục cần xem xét lại phương pháp giảng dạy của mình thì có lẽ nên nói
thêm về Định Lý Bất Toàn của Kurt Godel, Sự Cố Dừng
của Alan Turing, Số Omega của Gregory Chaitin. Nhưng xin dành
những chuyện đó cho bài kỳ sau.
Sydney ngày 21 tháng 04 năm 2009
Phạm Việt Hưng
Ghi
Chú:
(1) “Die
Grundlagen der Arithmetik”, Gottlob Frege, Tập I ra mắt năm 1884,
Tập II ra mắt vào năm 1902, ngay sau khi Frege được biết Nghịch Lý
Russell.
(2) (3) (4) (7)
“What is Mathematics, Really?”, Reuben Hersh, Vintage, London,
1998, Trang 151.
(5) “Pour la
SCIENCE, Les Génies de la Science, Henri Poincaré, Phylosophe et
Mathématicien”, T.21
(6) “Die
Grundlagen der Geometrie”, David Hilbert, xuất bản lần đầu năm
1899, tái bản và sửa chữa rất nhiều lần. Để hiểu thêm tài liệu
này, xin đọc thêm “Hệ tiên đề Hilbert có hoàn hảo?” của Phạm Việt
Hưng, Tia Sáng Tháng 08-2002.
(8) (9) (10)
“Engines of Logic, Mathematicians & the Origin of the Computer",
Martin Davis, WW Norton & Company, New York, London 2000, T.41
(13) (14)
“Frege and Hilbert on the Foundations of Geometry”, Susan G.
Sterrett
(17) Stanford
Encyclopedia of Philosophy, Russell’s Paradoxe
http://stanford.library.usyd.edu.au/archives/sum1999/entries/russell-paradox/