“Con voi toán học" hay
"Chiếc chén
thánh của chủ nghĩa hình thức"
Bà
Mẹ Tự Nhiên (The Mother Nature) đẻ ra không biết bao nhiêu đứa con kỳ
lạ, nhưng kỳ lạ nhất vẫn là con người, bởi vì chỉ có con người mới nhận
thức được sự tồn tại của chính Bà Mẹ đã đẻ ra nó. Nếu không có con
người, Tự Nhiên sẽ trở nên vô nghĩa. Nói cách khác, nhận thức là đặc đặc
trưng phân biệt con người với toàn bộ phần còn lại của vũ trụ. Chẳng thế
mà Pascal đã định nghĩa “Con người là một cây sậy, một thứ yếu ớt
nhất trong tự nhiên, nhưng là một cây sậy có tư tưởng”1,
còn Descartes thì tuyên bố: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”2.
Nhưng dù
nhận thức đóng vai trò đặc biệt đến mấy đi chăng nữa, nó vẫn chỉ là một
sản phẩm của tự nhiên, và do đó nó phải tuân thủ các định luật của tự
nhiên. Một trong các định luật cơ bản của tự nhiên mà nhận thức phải
tuân thủ là định luật về giới hạn: Nhận thức không bao giờ đạt
tới cái tuyệt đối, cái toàn bộ, cái tận cùng – lý lẽ không thể đi tới
cùng kỳ lý! Đó chính là điều John Saxe đã nói ngay từ thế kỷ 19 bằng
truyện ngụ ngôn “Thầy Bói Xem Voi”, và đã được Reutersvard hoặc
Penrose nhắc lại trong thế kỷ 20 dưới dạng “những mô hình bất khả”
(impossible models)3.
Tuy
nhiên, khát vọng nhận thức vốn là một lẽ sống, một hòn than vĩnh cửu
cháy âm ỉ trong lòng người, nên nhiều lúc nó bùng lên thành một ngọn lửa
lớn, đẩy con người vào những cuộc phiêu lưu đầy tham vọng – tham vọng
“biết hết mọi thứ”, “biết đến cùng kỳ lý của sự vật”! Điển hình là cuộc
phiêu lưu của Chủ Nghĩa Hình Thức (Formalism) trong toán học đầu
thế kỷ 20 hòng khám phá ra “Con Voi Toán Học”, y như chuyện
Sáu anh chàng ở xứ Indostan muốn khám phá ra con voi của họ.
“Con Voi
Toán Học” là gì? Xin tạm trả lời vắn tắt: Đó là một hệ thống chân lý
tuyệt đối của toán học (tuyệt đối logic, tuyệt đối phi mâu thuẫn)!
Hệ thống
chân lý ấy nếu tồn tại, ắt phải rất “thiêng liêng”, rất “vĩ đại”. Nhưng
chính toán học đã chứng minh rằng “Con Voi Toán Học” chỉ là một giấc mơ
không tưởng, và do đó nó đã được mệnh danh là “Chiếc Chén Thánh4
của Chủ Nghĩa Hình Thức” (The Holy Grail of Formalism).
Nhưng mặc
dù không tưởng, Chủ Nghĩa Hình Thức vẫn như một “bóng ma” ám ảnh mọi nền
giáo dục cho đến tận ngày hôm nay.
1]
“Bóng ma” của Chủ Nghĩa Hình Thức:
Nếu Chủ
Nghĩa Hình Thức chỉ đóng khung trong phạm vi nghiên cứu toán học thì đó
là chuyện riêng của các nhà toán học, nhưng vì nó đã xâm nhập vào giáo
dục, làm méo mó hệ thống giáo dục, vì thế nó đã trở thành một vấn đề xã
hội!
Thật vậy,
Chủ Nghĩa Hình Thức vốn coi toán học là một hệ logic hình thức thuần
tuý, hoàn toàn tách rời khỏi thế giới hiện thực, nên một khi đã xâm nhập
vào giáo dục, nó biến thành một căn bệnh:
Bệnh sính
hình thức, sính biến cái đơn giản thành phức tạp, sính sử dụng ký hiệu
và ngôn ngữ “hàn lâm” trừu tượng thay cho ngôn ngữ đời sống, đề cao ngôn
ngữ này như “tiêu chuẩn” của chân lý, đến nỗi dám coi thường truyền
thống giảng dạy của cha ông, tuỳ tiện vứt bỏ hoặc đảo lộn các chương
trình kinh điển, rồi chủ quan áp đặt lên trẻ em một chương trình được
gọi là “mới” nhưng thực chất chẳng có gì mới, mà chỉ là một sự nhồi nhét
hàng đống kiến thức hình thức sáo rỗng, biến môn toán thành một môn học
khó hiểu, nặng nề, đẩy học sinh tới chỗ mất kiến thức cơ bản, phải lao
đi học thêm lu bù nhằm đối phó với thi cử, miễn sao giành được “miếng
cơm manh áo”. Đó chính là tình trạng “dạy giả + học giả” tràn lan hiện
nay.
Để chấn
chỉnh giáo dục, phải học kỹ lại bài học lịch sử về Chiếc Chén Thánh
của Chủ Nghĩa Hình Thức. Học lịch sử chính là học cách nhận thức!
Đó là
nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của giáo dục mà Henri Poincaré đã
từng nhắc nhở chúng ta ngay từ đầu thế kỷ 20: Nhiệm vụ của nhà giáo
dục là phải tạo điều kiện để cho nhận thức của trẻ em được trải nghiệm
lại tất cả những gì mà tổ tiên của các em đã từng trải qua. Sự trải
nghiệm lại phải tiến hành một cách nhanh chóng thông qua những chặng
nhất định, nhưng tuyệt nhiên không được lấp liếm bỏ sót một chặng nào
cả. Với quan điểm đó, lịch sử khoa học chính là người dẫn đường cho
chúng ta5.
Trong
những chặng đường của Chủ Nghĩa Hình Thức, có một chặng rất đặc biệt,
không thể lấp liếm bỏ qua, đó là chặng đường của Gottlob Frege, người
từng được coi là “Ngọn đèn pha của Chủ Nghĩa Hình Thức”.
|
HENRI POINCARÉ
(1854 – 1912)
·
Người được coi là Mozart của toán học.
·
Một trong ba nhà toán học có ảnh hưởng lớn nhất đến toán học thế
kỷ 20 (hai người kia là David Hilbert và Kurt Godel).
·
Đồng thời là nhà vật lý và triết học toán học vĩ đại.
·
Cùng với Hendrik Lorentz và Albert Einstein, được coi là một trong
ba đồng tác giả của Thuyết tương đối hẹp.
·
Về triết học, ông được coi là người nhìn xa trông rộng. Ông luôn
coi thực tiễn là linh hồn của toán học. Tư tưởng đó thể hiện trong
tuyên bố nổi tiếng: Nhà khoa học tách rời thực tiễn giống như một
hoạ sĩ bị tước đi vật mẫu. Vì thế, ngay từ đầu ông đã quyết liệt
chống đối Chủ Nghĩa Hình Thức của Hilbert. Lịch sử toán học thế kỷ
20 cho thấy ông đúng. Định Lý Godel đã bác bỏ Chủ Nghĩa Hình Thức. |
2] Ngọn
đèn pha của Chủ Nghĩa Hình Thức:
Ngay từ
thế kỷ 18, Immanuel Kant đã nói: “Hình học dựa trên trực giác không
gian; Số học dựa trên trực giác thời gian”6.
Bước vào
thế kỷ 20, David Hilbert phủ nhận Kant một cách tuyệt đối. Ông cho rằng
toán học thực chất là các quan hệ logic, do đó những quan hệ này càng
được hình thức hoá cao bao nhiêu thì toán học càng chính xác bấy nhiêu.
Nói cách khác, toán học không phải là một khoa học thực dụng như vật lý,
hoá học, bởi nó không nghiên cứu bản chất vật chất của các đối tượng, mà
chỉ nghiên cứu mối quan hệ logic giữa các đối tượng đó mà thôi. Nếu toán
học vấp phải nghịch lý, ấy là vì toán học trước đây vẫn còn vướng quá
nhiều “bụi trần”, tức là chưa thật sự toán học, chưa thật sự là một hệ
logic thuần tuý hình thức. Muốn có một nền toán học chân chính, phải
giải phóng toán học một cách tuyệt đối khỏi thế giới hiện thực, phải
hình thức hoá toán học một cách tuyệt đối từ nền móng cho tới thượng
tầng. Muốn vậy, phải xây dựng lại toàn bộ cơ sở của toán học, hướng tới
mục tiêu cuối cùng là hệ thống “siêu-toán-học” (metamathematics)
– một hệ thống logic tuyệt đối siêu hình, hoàn toàn độc lập với thế giới
hiện thực, cho phép giải thích và chứng minh mọi mệnh đề toán học cho
tới cùng kỳ lý, loại trừ hoàn toàn mọi nghịch lý, mâu thuẫn. Hilbert
tin chắc rằng với một phương pháp nghiên cứu đúng đắn, trước sau toán
học sẽ đạt tới mục tiêu đó. Câu châm ngôn nổi tiếng của ông, “Chúng
ta phải biết, Chúng ta sẽ biết” (Wir müssen wissen, wir werden
wissen), được khắc trên bia mộ ông đã nói lên tham vọng “vá trời lấp
biển” của ông.
Để chứng
minh tư tưởng của mình là đúng và khả thi, bản thân Hilbert đã bỏ công
xây dựng lại Hình Học Euclid. Xuất phát từ một hệ 20 tiên đề7,
ông đã xây dựng nên một thứ hình học thuần tuý hình thức, không cần hình
vẽ, được gọi là Hình Học Hilbert, ra mắt năm 1899 dưới tên gọi Cơ Sở
Hình Học (Grundlagen der Geometrie). Nhưng không thoả mãn với những
gì đã làm được, Hilbert kêu gọi toàn thế giới toán học cùng bắt tay vào
việc tái thiết toà lâu đài toán học theo “thiết kế” của Chủ Nghĩa Hình
Thức.
Mục tiêu
tiếp theo là Số Học: Hãy xây dựng cho số học một hệ tiên đề hình thức
đầy đủ, độc lập, phi mâu thuẫn, để từ đó xây dựng nên một lý thuyết số
học tuyệt đối hình thức. Đó chính là nội dung cơ bản của Bài Toán
Số 2 trong số những bài toán ông nêu lên tại Hội Nghị Toán Học Thế
Giới ở Paris năm 1900, như một thách thức đối với toán học thế kỷ 20.
Với uy
tín lừng lẫy của bản thân, Hilbert đã tập hợp được phần lớn các nhà toán
học đương thời dưới ngọn cờ của mình, bao gồm cả một kẻ thù vốn không
đội trời chung với ông về hình học, đó là Gottlob Frege.
Thật vậy,
Frege đồng ý với Kant rằng hình học dựa trên trực giác, và do đó đã
quyết liệt chống đối Hilbert trong ý tưởng biến hình học thành một mớ
logic hình thức thuần tuý. Nhưng trớ trêu thay, Frege lại đồng quan điểm
với Hilbert khi cho rằng số học dựa trên logic, do đó đã trở thành cứu
tinh của Hilbert về mặt số học: Frege đã lao vào làm một cuộc cách mạng
về số học, nhằm biến số học thành một hệ logic hình thức thuần tuý, đúng
như Hilbert mong muốn!
Để làm
cuộc cách mạng đó, Frege bắt đầu xây dựng lại số học từ nền móng – định
nghĩa lại khái niệm về số. Với Frege, từ nay số 2 không được hiểu một
cách “tầm thường” là 2 con gà, 2 con vịt, … mà phải hiểu là tập hợp của
các cặp đôi (pairs); 3 là tập hợp của các “bộ 3” (triples), một cách
tổng quát, số là tập hợp của các tập hợp.
Định
nghĩa ấy thể hiện tham vọng chính xác hoá các khái niệm toán học đến vô
chừng vô độ: Frege đã tìm mọi cách “tẩy rửa”, vứt bỏ mọi ý nghĩa dính
dáng đến vật chất cụ thể của số, vì chừng nào số còn gắn với ý nghĩa vật
chất cụ thể thì chừng ấy số vẫn chứa đựng bên trong nó những “hạt sạn
phi-toán-học” – nguồn gốc dẫn tới nghịch lý mâu thuẫn. Một nhà toán học
đã bình luận rằng với Frege, 3 không phải là “number three” (số 3), mà
là “the threeness” (cái 3) (!).
Sau khi
thanh tẩy và hình thức hoá tuyệt đối các khái niệm cơ sở của của số học,
Frege đã xây dựng nên hàng trăm định lý của số học dưới dạng hình thức
tuyệt đối. Toàn bộ lý thuyết của ông đã được công bố trong bộ sách đồ sộ
mang tên Cơ Sở Số Học (Grundlagen der Arithmetik), một bộ sách đã
làm rung chuyển thế giới toán học. Thật vậy, các nhà toán học theo Chủ
Nghĩa Hình Thức đã thật sự bị choáng ngợp trước “vẻ đẹp siêu thoát tinh
tuyền hình thức” trong lý thuyết của Frege. Họ phấn chấn đến mức tưởng
rằng sắp tìm thấy “Chiếc Chén Thánh”, và tưởng rằng “thiên đường của chủ
nghĩa hình thức” đã lấp ló đâu đó ở phía chân trời!
Đó là lúc
cuộc đời Frege đạt tới tột đỉnh vinh quang. Tên tuổi của ông nổi lên như
sóng cồn. Người ta gọi ông là “ngọn đèn pha của Chủ Nghĩa Hình Thức”.
Cuốn Cơ Sở Số Học của ông được tôn vinh như một kiệt tác toán
học, sánh vai với những tác phẩm toán học vĩ đại khác, như bộ Cơ Sở
của Euclid chẳng hạn, và thậm chí được ca ngợi như cuốn “Kinh Koran
của chủ nghĩa logic hình thức”, … (!)



Immanuel Kant (1724-1804) David Hilbert (1862-1943) Gottlob Frege (1848-1925)
Nếu câu
chuyện dừng lại ở đây, thì quả thật không sao nói hết được sự thán phục
mà người đời đã dành cho ông, và từ đó cũng có thể hiểu được vì sao
Frege đã có một ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài trong giới toán học và giáo
dục toán học đến như thế: Sâu đậm và lâu dài đến nỗi sau khi lý
thuyết của ông sụp đổ, ảnh hưởng của ông vẫn tiếp tục tồn tại – tồn
tại không chỉ trong thời của ông và tại quê hương ông, mà tồn tại kéo
dài cho tới tận ngày nay trên khắp thế giới, ngay cả trong những nền
giáo dục xa lắc xa lơ với ông về mặt không gian lẫn thời gian, trong đó
có nền giáo dục Việt Nam. Ảnh hưởng ấy phổ biến đến nỗi được coi như
một thứ chủ nghĩa, được gọi là “chủ nghĩa Frege mới”
(Neo-Fregeanism), hoặc chủ-nghĩa-lý-thuyết-logic-tập-hợp
(logic-set theoreticism), vì công cụ chủ yếu Frege sử dụng để xây dựng
Cơ Sở Số Học là logic và lý thuyết tập hợp.
3] Chủ
nghĩa Frege mới:
Cách đây
hơn 40 năm, tôi thấy chủ-nghĩa-lý-thuyết-logic-tập-hợp chỉ mới xuất
hiện trên trường đại học, mặc dù không nghe thấy vị giáo sư nào nhắc đến
cái tên Gottlob Frege. Nhưng hiện nay chủ nghĩa này đã tràn xuống trường
phổ thông, mặc dù hầu như không thầy cô giáo dạy toán nào ý thức được
rằng mình đang thực hành cái chủ nghĩa do Frege khởi xướng từ một thế kỷ
trước đây.
Có lẽ các
nhà biên soạn sách giáo khoa và các thầy cô giáo dạy toán của chúng ta
hiện nay không ý thức được rằng họ đang hàng ngày sử dụng những ký hiệu
và ngôn ngữ của một lý thuyết đã sụp đổ, chẳng hạn ký hiệu "
(mọi), $
(tồn tại), v.v. vì đó chính là những ký hiệu và ngôn ngữ do Frege sáng
tác ra khi ông biên soạn bộ Cơ Sở Số Học. Cũng có thể các nhà
biên soạn sách giáo khoa và các thầy cô giáo dạy toán của chúng ta càng
không ý thức được rằng họ đang bắt chước Frege trong cách trình bầy toán
học, sính diễn đạt toán học bằng những ký hiệu trừu tượng hình thức, xa
rời ngôn ngữ đời sống, mà hoàn toàn không biết rằng chính Frege cuối
cùng đã tự phủ nhận tư tưởng toán học của bản thân mình.
Đó là một
sự thật trớ trêu, quá trớ trêu, bởi vì người ta đua nhau bắt chước một
phong cách của một tác giả mà chính tác giả ấy đã tự chê bai và từ bỏ.
Sự trớ trêu ấy đã làm cho nhà toán học Philip Kitcher phải chua chát
thốt lên rằng: “Triết học toán học 30 năm qua chỉ là một chuỗi những
ghi chú cho Frege”. Một nhà toán học khác là Reuben Hersh8,
tác giả cuốn “What is Mathematics, Really?” (Thực ra Toán Học là gì?),
cũng buồn rầu thừa nhận: “Bất chấp sự thất bại về mặt triết học, chủ
nghĩa lý thuyết logic tập hợp vẫn thống trị nền triết học toán học ngày
nay”.
Thật vậy,
bất chấp những lời trăng trối do chính Frege để lại, hậu thế vẫn tiếp
tục đi theo vết xe đổ của ông. Đó là một hiện tượng kỳ quái, khó hiểu,
và có thể là độc nhất vô nhị trong lịch sử khoa học nói chung và toán
học nói riêng. Để “giải mã” hiện tượng kỳ quái đó, có người vội đặt dấu
hỏi nghi vấn: Phải chăng trong di sản của Frege vẫn có cái hay cái đẹp
đáng bắt chước, vì thế mới có “chủ nghĩa Frege mới”?
Xin trả
lời ngay rằng KHÔNG!
Những ai
còn nghĩ như thế thì chỉ chứng tỏ rằng người đó không biết gì về Frege,
không biết gì về những lời trăng trối của Frege, không biết gì về lịch
sử toán học thế kỷ 20, không biết gì về những bài học đã được rút ra từ
lịch sử đó. Những người này có thể từng được coi là “giỏi toán”, có một
vốn liếng toán học tiếp thu từ những thập kỷ cách đây vài chục năm,
nhưng sau đó chỉ đem những vốn liếng đó ra hành nghề giảng dạy mà không
chịu tiếp tục học hỏi mở mang thêm, không biết rằng thế giới đã thay
đổi, đặc biệt từ cuối thế kỷ 20 cho đến nay, do đó vẫn tiếp tục “nằm
trong chăn” để tụng niệm ngôn ngữ của Frege, coi đó là ngôn ngữ chân
chính và duy nhất của toán học, và do đó vô tình tiếp tục nuôi dưỡng Chủ
Nghĩa Hình Thức.
Với những
người mê ngủ đó, cần phải gõ lên tiếng kẻng báo động: Chủ Nghĩa Hình
Thức đã lỗi thời rồi, thậm chí đã chết rồi, chỉ còn cái “bóng ma” của nó
vẫn cứ ám ảnh những nhà giáo dục mê ngủ mà thôi!
Thật vậy,
cả Hilbert lẫn Frege đều đã bị chứng minh là nhầm lẫn. Định Lý Bất
Toàn (Theorem of Incompleteness) của Kurt Gödel đã phủ nhận toàn bộ
chương trình Hilbert, phủ nhận toàn bộ công trình hình thức hoá số học
của Frege.
Kết luận
trên có thể làm cho một số “học giả” dẫy nẩy lên phản ứng: Phủ nhận hình
thức hoá là phủ nhận toán học, vì hình thức hoá là một phương tiện không
thể thiếu của toán học, nhờ hình hức hoá mới có toán học ngày nay, chẳng
hạn, nếu không hình thức hoá thì làm gì có số ảo i =
,
làm gì có lý thuyết số phức, làm gì có khoa học logic, và do đó làm gì
có khoa học computer ngày nay, v.v. Vậy phủ nhận hình thức hoá tức là
chống lại toán học, chống lại khoa học (!).
Với những
“học giả” đó, cần phải nhắc lại điệp khúc “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”,
và đặc biệt, phải trích ý kiến của Reuben Hersh trong cuốn “Thực ra Toán
Học là gì?” (đã dẫn). Hersh viết:
Logic
là gì? Phải chăng đó là những quy luật tư duy chính xác? Kinh nghiệm
thường ngày và những nghiên cứu phong phú của các nhà tâm lý học cho
thấy phần lớn tư duy của chúng ta không tuân theo logic. Từ đó suy ra
rằng, hoặc phần lớn tư duy của con người là sai, hoặc logic chỉ tác động
trong một phạm vi quá hẹp. Computers chính là những chiếc máy tuân thủ
logic, đó chính là câu trả lời! Logic là những quy tắc của máy tính!
Logic cũng áp dụng cho con người khi con người cố gắng biến mình thành
những chiếc máy tính!
Xin nói
rõ thêm: Bài viết này không phản đối nhu cầu hình thức hoá trong
nghiên cứu toán học, nhưng phản đối việc hình thức hoá, máy móc hoá,
chương trình hoá bộ não của học sinh! Học sinh là con người chứ
không phải những chiếc máy tính, đúng như Hersh đã nói! Xin đừng cố gắng
biến học sinh thành máy tính! Xin các nhà giáo dục hiểu cho rằng đối
tượng của giáo dục là con người chứ không phải những chiếc máy! Nghệ
thuật của sư phạm có những đặc điểm riêng mà một người “giỏi toán” có
thể không hiểu, bởi vì bản chất của giáo dục là KHAI TÂM chứ không phải
là nhồi nhét kiến thức! Ngay cả đối với sinh viên đại học chứ đừng nói
tới học sinh, việc khai tâm vẫn quan trọng hơn khai trí, bởi vì một khi
tâm đã động thì học sinh và sinh viên có thể tự học, tự nghiên cứu, tự
mở mang, và sẽ trở thành một trí thức chân chính, trong khi những con
vẹt được điểm 10 trong thi cử sẽ chỉ trở thành những chiếc máy tính loại
xoàng. Rất tiếc là lối dạy học nhồi nhét hình thức ngày nay chủ yếu chỉ
tạo ra những con vẹt nhiều hơn là những trí thức chân chính!
4]
Thay lời kết:
Riêng
Frege, không cần đợi đến khi Định Lý Bất Toàn ra đời, ông đã thay đổi
quan điểm, tự ông đã phê phán tính hão huyền của Chủ Nghĩa Hình Thức.
Tại sao bỗng nhiên Frege thay đổi, và Frege đã thay đổi như thế nào? Đó
là một bí mật lý thú cần phải làm sáng tỏ, và sẽ được làm sáng tỏ.
Rất tiếc
là nhiều nhà giáo dục hiện nay đang bắt chước Frege lại không hề biết
điều đó, và do đó họ không ý thức được rằng việc ra sức nhồi nhét vào
đầu trẻ em những khái niệm trừu tượng xa rời thực tiễn không những chứng
tỏ sự thiếu hiểu biết về lịch sử toán học, đồng thời còn tỏ ra thiếu
hiểu biết về nghệ thuật sư phạm.
Tất cả
những nhận định trên sẽ được trình bầy rõ hơn trong bài kỳ sau:
Từ
lời trăng trối của Frege đến Định Lý Bất Toàn!
Sydney
ngày 12 tháng 02 năm 2009
Phạm Việt Hưng