Báo cáo của Ajinomoto- Tạo ra công ty thân thiện với môi trường

Vietsciences- Hồng Lê Thọ       25/09/2008   

 

Những bài cùng tác giả

Báo cáo của Ajinomoto (Phần 1)
Báo cáo của Ajinomoto (Phần 2)
Báo cáo của Ajinomoto (Phần 3)

Luật Bảo Vệ Môi trường

Phần Một

Một người thành công sẽ biết gặt hái từ những lỗi lầm và thử lại bằng cách khác.

- Dale Carnegie –

Hành động xả nước thải bí mật vào sông Thị Vải kéo dài 14 năm qua của công ty Vedan Việt Nam được phơi bày ra ánh sáng qua điều tra trong suốt mấy tháng nay của Tổng cục cảnh sát môi trường. Những kết quả ban đầu công bố trong cuối tuần qua—20/9/2008-- chứng tỏ hành động man trá nầy đã được tính toán từ khi Công ty Vedan lập thiết kế nhà máy tại Việt Nam, vi phạm có tổ chức và kế hoạch công phu. Phải chăng những loại thiết bị “xử lý” nước thải của Vedan hiện có chỉ “làm màu” che đậy mưu mô ác độc, không những phá hoại môi trường, hệ sinh thái mà còn gây biết bao bệnh tật, tai họa cho người dân vốn rất nghèo ở lưu vực các tỉnh Bà Rịa-Vũng tàu, Đồng Nai và Thành phố Hồ chí Minh.

Chúng tôi cung cấp một số thông tin từ Nhật bản qua tư liệu có được để bạn đọc tham khảo  kịp thời.

Phát triển không làm hại môi trường đã trở thành việc quan tâm chính của các công ty trong thế kỷ 21, đòi hỏi không ngừng tạo ra một mô thức phát triển sản xuất kinh doanh tốt nhất mà vẫn giữ gìn được môi trường thiên nhiên. Điều này chúng ta đã thấy ở chương 3 và 4, nói về việc tạo một khung sườn và các chiến lược có thề chấp nhận được cho việc trên.

Trong chương này, chúng tôi sẽ giải thích ngắn gọn về các vấn đề môi trường phát sinh khi một nhà máy công nghiệp lên men phải đối diện và phương cách vượt chướng ngại thông qua việc ứng dụng chiến thuật phát triển thân thiện môi trường.

1- GIỚI THIỆU

Acid amin là những acid hữu cơ hình thành tự nhiên, căn bản là những khối protein. Thực ra mà nói, acid amin là loại dưỡng chất được biết từ rất lâu, tồn tại trên trái đất và tạo ra sự sống từ thuở sơ khai. Có biết bao bộ phận trong cơ thể chúng ta hưởng lợi từ những acid này mà có bàn đến cả ngày cũng chưa hết.

Chúng được dùng chủ yếu để phục hồi cho cơ bắp, phần mềm, tuyến, móng, tóc, da và nội tạng. Một acid amin tối cần cho cơ thể là khi cơ thể không thể tự tổng hợp được nó với những gì có sẵn, mà cần phải bổ sung qua đường ăn uống. Có 8 loại acid amin thường được xem là tối cần cho con người: L-tryptophan, L-lysine, L-methionine, L-phenylalanine, L-threonine, L-valine, L-leucine và L-isoleucine. Hai loại khác tối cần cho trẻ em là L-histidine và L-arginine.

Công ty Ajinomota Nhật Bản đã có nhiều cải tiến trong việc phát triển các sản phẩm acid amin, tận dụng những tính chất độc đáo của acid amin này cả về mặt cơ bản lẫn mặt ứng dụng qua nghiên cứu. Kiến thức và kỹ năng có được qua phân tích các nhiệm vụ sinh học chuyên biệt và các chức năng của acid amin đã được áp dụng vào việc kinh doanh như trong lĩnh vực y dược.

Thí dụ, L-glutamic acid để làm ra bột ngọt (MonoSodium Glutamate -MSG), một loại bột nêm sử dụng rộng rãi khắp thế giới. L-lysine là một axit amin phụ gia dùng trong thức ăn gia súc. Acid amin nối nhánh (BCAA), L-leucine, L-valine, L-iso-leucine được dùng bổ sung giúp duy trì cơ bắp luôn trong tình trạng tốt. L-glycine có hiệu quả giúp ngủ ngon.

Hầu hết acid amin được sản xuất bằng phương pháp lên men vi sinh và Ajinomoto là nhà cung cấp hàng đầu thế giới. Các công ty Nhật như Ajinomoto(AJT), Kyowa Hakko và Tanabe Pharmaceuticals là những nhà sản xuất tiên phong trong phương pháp lên men vi sinh tạo acid amin. Trong các loại acid amin, MSG và L-lysine được sản xuất với số lượng lớn. Sản lượng acid amin tỷ lệ thuận với phát triển dân số và phát triển các ứng dụng mới cho acid amin.

Trong việc nghiên cứu và phát triển kỹ thuật để sản xuất loại thực phẩm - sức khỏe chuyên biệt này, Ajinomoto tập trung cao về mặt môi trường. Ajinomoto xây dựng quy trình sản xuất thật hiệu quả với tác động ít nhất vào môi trường, kết hợp kỹ thuật lên men và sinh học; cải tiến quy trình sản xuất sao cho giảm thiểu năng lượng và ít ảnh hưởng nhất đến môi trường; tái xử dụng nguyên vật liệu dùng trong giai đoạn trung gian bằng cách xử lý triệt để gần như toàn bộ vật tư nguyên liệu đều trở thành sản phẩm có giá trị.

Để là một công ty có giải pháp môi trường hiệu quả cao, AJT đã lập một công ty độc lập quản lý về môi trường, FDG-Thái lan đã nổ lực hỗ trợ tập đoàn Ajinomoto Thailand trong việc giảm thiểu gánh nặng môi trường tại cộng đồng địa phương và giúp duy trì phát triển trong vùng (nói cụ thể là làm giảm tác hại ô nhiễm môi trường—HLT).

Quản lý về môi trường thường được xem là một phí tổn cần thiết; là những chi phí không né tránh đâu được để tuân thủ pháp luật, tuy nhiên chúng tôi sẽ chỉ cho thấy được bằng cách nào FDG-Thailand chẳng những giải quyết được bài toán về môi trường mà còn tận dụng được các kiến thức chuyên sâu về quản lý môi trường để mở rộng kinh doanh, đóng góp cho công nghiệp địa phương và nâng cao lơi nhuận của mình.

2- XÁC LẬP CÁC VẤN ĐỀ CỦA CÔNG NGHỆ LÊN MEN VI SINH

2-1 Những tác động trực tiếp đến môi trường và các vấn đề của công nghiệp lên men vi sinh tạo acid amin.

Acid amin dạng MSG và L-lysine được sản xuất trên khắp thế giới bằng công nghệ lên men vi sinh. Thí dụ, khoảng 2 triệu tấn MSG và 1 triệu tấn Lysine được sản xuất mỗi năm. Thị trường acid amin này vẫn đang phát triển 3 đến 7 phần trăm trên toàn thế giới, do đó gánh nặng môi trường sẽ tự động gia tăng nếu như không có những tác động giảm thiểu.

Sơ đồ của quy trình lên men vi sinh tạo acid amin.

Sự lên men cần nhiều nguyên liệu như các gốc carbon, chất khoáng, các gốc nitro(N) và nước.

Các vi sinh đặc biệt được dùng để tạo ra acid amin trong quy trình lên men này, sau đó nước bọt lên men được xử lý bằng quy trình phân tách để tạo ra tinh thể của acid amin.

Các chất lỏng và rắn còn thừa lại, sau khi bị rút tỉa và thoát hơi trong tiến trình, chính là các chất thải công nghiệp trong quá trình lên men vi sinh.

Thông thường, hơi ga thoát ra trong tiến trình được tẩy bằng dung dịch hóa chất và lọc sạch bởi các bộ lọc, nên không có ô nhiễm môi trường do hơi ga trong tiến trình này, chỉ trừ ra chất khí CO2 là nguồn gây hiệu ứng nhà kính.

Ở hầu hết các nước phát triển, nơi Nghị định thư Kyoto được phê chuẩn, chính phủ quan tâm sâu sát đến việc hạ thấp khí thải CO2. Mặc dù Thái Lan không tham gia Nghị định thư Kyoto hay có các điều luật về chất khí gây hiệu ứng nhà kính, Tập đoàn Ajinomoto trên cương vị dẫn đầu công nghiệp lên men vi sinh, vẫn tiếp tục tìm tòi các phương pháp giảm thiểu khí CO2 phát sinh qua sử dụng nhiên liệu hóa thạch để bảo vệ môi trường (trong báo cáo của tập đoàn Ajinomoto về môi trường năm 2004).

Khí Freon R12 (dichloro-fluorométhane)

Khí Freon rò rỉ ra môi trường từ các hệ thống làm lạnh sử dụng khí freon. Sử dụng khí freon bị nghiêm cấm bởi công ước quốc tế và các công ty phải theo luật để giảm thiểu việc hủy hoại tầng ozone. Chất thải rắn, gồm vi khuẩn, hạt nhựa trao đổi ion, các chất hữu cơ đã qua sử dụng, phát sinh trong quá trình lên men, cùng các chất thải gốc các-bon cần phải được đổ xá ngoài trời mà không có phương án chuyên biệt nào nhằm tận dụng loại chất thải này.

Vì Ajinomoto tránh dùng các chất độc hại nên các chất thải của nó có thể tái sinh, tuy nhiên cũng có vài công ty dùng một chất độc hại nhằm tăng cường hiệu quả của tiến trình lên men, từ đó phát sinh chất thải công nghiệp có hại cho sức khỏe con người lẫn môi trường thiên nhiên - thí dụ như muối Clorua natri (sodium chloride -NaCl) làm hại cho cây trồng.

Thật không may, một số công ty vẫn còn đổ xá chất thải rắn (loại có hại lẫn loại vô hại), và do mặt bằng đổ xá cũng có giới hạn đặc biệt ở vùng ngoại ô, nên điều này đã gây nhiều bức xúc trong xã hội ở nhiều quốc gia. Vì mặt bằng đổ xá chất thải được cho phép thì rất hiếm, nên việc xả thải bất hợp pháp làm vấn đề càng trầm trọng hơn. Như đã nêu, xả thải bất hợp pháp đã trở thành bức xúc xã hội ở Thái Lan và là một vấn nạn phổ biến cho mọi nhà máy trên khắp thế giới.

Tập đoàn Ajinomoto xử lý chất thải lỏng chứa nhu cầu oxy sinh học (BOD) thấp bằng thiết bị xử lý chất thải nhằm tách tạp chất hữu cơ, gọi là phương pháp sử lý bằng bùn hoạt hóa (Activated Sludge), tách BOD bằng vi sinh.

Xưa kia khi chất thải công nghiệp có thể đổ ra biển một cách hợp pháp, Ajinomoto cũng thường làm như thế (theo báo cáo môi trường của Ajinomoto năm 2004). Tuy nhiên, sau khi tham gia phê chuẩn Công Ước Luân Đôn năm 1972, Ajinomoto đã chấm dứt việc trên và bắt đầu bán chất thải này để làm phân bón (Báo cáo Kizen năm 2004).

Thật không may, ở Thái Lan và vài nước đang phát triển khác, các nhà máy công nghệ vi sinh vẫn còn xả bỏ lén chất thải có BOD cao không qua xử lý, gây tổn hại đến danh tiếng của ngành công nghiệp vi sinh.

Nhân tiện cũng xin báo, trước khi AJT-Thailand xây dựng nhà máy MSG thứ nhì ở tỉnh Kamphaengphet Thái Lan, AJT-Thailand đã bị tai tiếng do tin đồn rằng một nhà máy lên men vi sinh sẽ làm nhiễm độc dòng sông và làm hư hại mùa màng tại khu vực xây dựng nhà máy. Xuất phát từ tin đồn này là từ hoạt động của một nhà máy bột ngọt khác ở Thái Lan đã đổ lén khối lượng lớn nước thải lỏng xuống dòng sông, gây thiệt hại lớn cho mùa vụ nông nghiệp.

Nước bị ô nhiễm được xem là vấn đề nghiêm trọng về môi trường tại Thái Lan, do đó tin đồn về nguồn nước bị ô nhiễm có thể khơi dậy sự phản kháng của nông dân trong việc xây dựng nhà máy.

Thật không may, công nghiệp lên men vi sinh đôi khi cũng có xả thải lén ra môi trường. Một số nhà máy ở Trung Quốc có đi ống ngầm thoát ra dòng sông gần đó nên có thể xả thải ra sông không ai thấy. Một vài nơi trên thế giới, đặc biệt tại Châu Á, nạn tham nhũng đôi khi làm các vấn đề về môi trường tệ hại thêm. Xả thải công nghiệp bất hợp pháp đôi khi bị lờ đi vì các giới chức tham nhũng.

2-2 Điều gì ngăn cản các công ty trở nên thân thiện môi trường ?

Ngày nay các vấn đề về môi trường là hiển nhiên và rõ ràng với tất cả mọi người, đến nổi chúng ta phải quan tâm đến môi trường mới có thể duy trì được việc phát triển kinh doanh. Tuy nhiên, nhiều công ty đã thất bại khi muốn tạo một hoạt động làm sạch mang tính chất môi trường nhằm giảm thiểu gánh nặng cho môi trường.

Tại sao nhiều xí nghiệp và công ty thất bại khi tiến hành các công việc mang tính chất làm thân thiện môi trường ? Rất nhiều công ty lên men vi sinh tạo acid amin vẫn còn ở mức độ sơ khai của nhận thức về môi trường, hoặc tệ hơn nữa là họ lén lút đổ chất độc hại ra môi trường. (mà Công ty Vedan Việt Nam là một thí dụ gần nhất ! HLT)

Nguyên nhân phải dựa vào lịch sử, văn hóa và cách thức làm ăn bừa bãi, vô trách nhiệm mà họ đã quen thuộc khi đưa vào áp dụng trong kinh doanh sản xuất. Tóm lại, gọi đó là thói quen chậm phát triển hoặc sự trì trệ hay chây lì. Mitchell et al. giải thích rằng sự trì trệ là những thói quen ngăn cản chúng ta làm việc hiệu quả:

Thói quen, tốt và xấu, được hình thành khi trí não chúng ta phát triển, bao gồm những kiểu mẫu hành vi dựa trên đáp ứng của chúng ta khi bị kích thích, rất giống hành động của con chó trong thí nghiệm Pavlov khi phối hợp cho ăn và lắc chuông. Kết quả là chúng ta có thể thực hiện nhiều hoạt động với rất ít nhận thức suy nghĩ... Chúng ta thảy đều có những thói quen mà chính nó lại ngăn cản chúng ta đạt hiệu quả cao nhất trong công việc cũng như khi ở nhà.

Mỗi nhà máy và mỗi công ty đều có tính cách riêng trong hoạt động, mặc cho bản thân nó có nhận thức hay không. Hiển nhiên là ngành công nghiệp lên men vi sinh còn có nhiều nhà máy chây lười trong nhận thức, mang đến hiểu lầm cho toàn ngành. Nhiều công ty lên men vi sinh không đạt cấp độ thân thiện môi trường và họ không nghĩ rằng như thế là rất tệ hại trong điều hành kinh doanh, hoặc họ biết như thế là kém nhưng không còn cách nào khác (vì lợi nhuận ! HLT).

Chúng tôi đã làm trong ngành công nghiệp này hơn hai mươi năm qua và chúng tôi biết loại hình trì trệ nào trong ngành vẫn còn. Trong số đó, thứ trì trệ nhất mà ngành công nghiệp lên men vi sinh phải khắc phục là sự tin tưởng cho rằng:

Đồng hành với môi trường sẽ gánh thêm chi phí cao đến nỗi nó sẽ làm mất đi tính cạnh tranh và lợi nhuận.

(thực tế trong hơn 10 năm qua báo cáo tài chính hằng năm của công ty Vedan Việt Nam luôn tăng trưởng rất cao, 8 tháng đầu năm 2008 là 17% ! HLT)

Việc đó còn dẫn đến suy diễn sai lầm thêm về tính vị kỷ của công ty, cho rằng:

* Một ít chất ô nhiễm đưa vào môi trường sẽ được phép nếu như nó không gây hại trực tiếp

đến sức khỏe con người và nếu không ai để ý.

* Lợi dụng thông số cho phép cao nhất của tiêu chuẩn ô nhiễm hiện hành, dù cho công ty

có thể làm tốt hơn để giảm gánh nặng cho môi trường qua các ứng dụng xử lý tốt hơn.

* Tiêu chuẩn về môi trường phải được nới lỏng để mời gọi các công ty đầu tư phát triển công nghiệp trong nước.

Thí dụ như đề nghị chính phủ Thái Lan từ bỏ giới hạn BOD trong nước thải đã xử lý của nhà máy khi công ty quyết định đầu tư một nhà máy tại Thái Lan. Đòi hỏi này xét ra cũng công bằng, vì là nhà máy sẽ đóng góp vào sự phát triển nền công nghiệp của Thái Lan.

Những dẫn chứng trên áp dụng không những cho công nghiệp lên men vi sinh mà còn cho các ngành công nghiệp khác nữa.

Đó là nguồn gốc của sự quản lý kém trong công ty; thất bại trong việc tuân thủ các tiêu chuẩn về môi trường tạo tiếng xấu cho ngành.

Ngành công nghiệp lên men vi sinh tạo acid amin hiển nhiên cần phải thay đổi tư duy và các công ty lên

men vi sinh phải thay đổi thái độ. Đối phó lại sự hủy hoại môi trường không phát sinh chi phí cho hoạt động sản xuất, là những khoản đầu tư cho sự phát triển sau này của ngành và hạ tầng cơ sở xã hội, chủ động nhận về cho mình phần chi phí xã hội cho các vấn đề về môi trường.(Vedan Việt Nam hoàn toàn chạy theo lợi nhuận siêu ngạch bằng mọi giá--HLT)

2-3 Tấn công vào sự trì trệ để ngành công nghiệp trở nên thân thiện với môi trường

Công ty công nghiệp lên men vi sinh cho rằng việc quan tâm đến khắc phục về môi trường là tốn kém và hy sinh lợi nhuận cũng như làm giảm tính cạnh tranh. Theo chúng tôi Ngành công nghiệp nầy phải xóa sạch hoàn toàn tư tưởng trì trệ này, phải tìm những cách thức khác để điều hành kinh doanh trong đường lối thân thiện môi trường và mở rộng khái niệm để tìm kiếm phương cách chuyển đổi làm gia tăng giá trị.

Nếu các phương án thay thế có được kết quả là tăng cơ hội phát triển và mang về lợi nhuận thì không công ty nào trong ngành mà lại chần chừ không áp dụng. Những phương án chuyển đổi nào tạo thân thiện với môi trường, vừa mang lại lợi nhuận thì sẽ tác động rất hiệu quả đến việc công phá vào sự trì trệ, gở bỏ tiếng xấu cho ngành. Mitchell et al. (1999) giải thích về 3 giai đoạn trong việc công phá vào sự trì trệ đó như sau:

* Xác lập những truyền thống và mục đích yêu cầu của tổ chức hay ngành công nghiệp.

* Xác lập những "truyền thống nhấn mạnh" mà ta có thể dùng để cải tiến hoạt động.

* Thành lập những truyền thống mới hoặc được sửa đổi.

Tháng 9/2008

Nguyễn thanh Quyền dịch, Hồng lê Thọ hiệu đính

Ghi chú: những chữ trong ngọăc đơn có thêm HLT là do Hồng lê Thọ chú thích

(còn tiếp)

Xin đón đọc phần 2

 

 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org Hồng Lê Thọ