Phần 5
Chất diệt cỏ nguy hiểm
hơn người ta nghĩ nhiều
NDĐT - Trong phần này, điều tra của tờ Chicago Tribune về
những tài liệu chưa công bố cho thấy rằng những quyết định
của quân đội Mỹ và các công ty hoá chất từng sản xuất ra các
loại chất diệt cỏ dùng trong Chiến tranh Việt Nam, đã tiến
hành việc rải hóa chất một cách nguy hiểm hơn là cách thức
mà lẽ ra, họ đã phải làm.

Những cánh rừng
đước ở Nam Việt Nam trước và sau khi bị rải chất làm rụng lá
vào năm 1965. (Ảnh: AP/ Chicago Tribune, 12-2009)
Năm 1965, khi quân
đội Mỹ bắt đầu đẩy mạnh tiến hành rải chất độc Da Cam ở miền
Nam Việt Nam, Chính phủ và các công ty hoá chất Mỹ chịu
trách nhiệm sản xuất các chất diệt cỏ này đã biết chúng gây
nguy hiểm cho sức khỏe của binh lính và những người khác nếu
họ bị nhiễm nhu thế nào.
Cũng năm đó, một văn
bản của Công ty hoá chất Dow đã gọi hợp chất trong Chất Da
Cam là “một trong những thứ nguy hiểm nhất được biết đến gây
ra không chỉ các tổn thương da mà còn phá huỷ cả cơ thể
sống”.
Tuy nhiên, bất chấp
những bằng chứng ngày càng rõ về mối đe doạ tới sức khoẻ của
các hoá chất ngày, bất chấp việc những hiểm họa của việc
phơi nhiễm đã được công bố, một góc nhìn của Tribune đã lật
lại những tài liệu toà án và dữ liệu của Trung Tâm lưu trữ
Quốc gia. Chiến dịch rải chất độc sẽ tiếp tục kéo dài trong
sáu năm.

Một đợt rải chất
làm rụng lá ở miền Nam Việt Nam trong chiến tranh. Bức ảnh
do Không quân Mỹ cung cấp cho thấy 4 chiếc C-123 trong chiến
dịch Ranch Hand đang rải các chất làm rụng lá vào khu vực
nghi ngờ lực lượng cộng sản đóng quân vào tháng 9-1965. Bốn
chiếc máy bay này được thiết kế đặc biệt để có thể rải trong
phạm vi 1000 foot bề ngang cho mỗi lần rải.(Ảnh: US Air
Force/ Chicago Tribune)
Các hồ sơ cũng cho
thấy có rất nhiều tranh cãi xoay quanh vấn để có thể tránh
được chất diệt cỏ không nếu các nhà sản xuất sử dụng những
kỹ thuật phù hợp nhằm giảm thiểu việc nhiễm dioxin và nếu
quân đội kiểm tra gắt gao hơn mức độ nguy hại trong các hợp
chất chết người này. Theo nhiều tài liệu của các luật sư của
các cựu chiến binh Mỹ chưa từng được công bố, Công ty hoá
chất Dow từ năm 1957 đã biết rõ kỹ thuật làm giảm thiểu
lượng dioxin trong các chất diệt cỏ bằng cách làm chậm quá
trình sản xuất.
Kể từ Chiến tranh
Việt Nam, chất dioxin đã được phát hiện như là chất gây ung
thư đồng hành với các chứng bệnh liệt rung Parkinson, dị tật
bẩm sinh và hàng chục các căn bệnh khác. Hàng ngàn cựu chiến
binh cũng như dân thường Viẹt Nam đã bị nhiễm trực tiếp chất
diệt cỏ do quân đội sử dụng.
Các bệnh tật liên
quan đến chất diệt cỏ được sử dụng trong Chiến tranh Việt
Nam, giờ đây mỗi năm tiêu tốn của ngân sách liên bang hàng
tỷ đôla và đó là tác nhân gia tăng nhanh chóng ngân sách chi
trả khuyết tật cho các cựu chiến binh kể từ năm 2003.
Các tài liệu cũng
cho thấy rằng trước chương trình chất diệt cỏ được thực hiện
vào năm 1961, Bộ Quốc phòng Mỹ đã cắt giảm kinh phí và nhân
lực cho việc phát triển các chất hóa học này theo những mục
tiêu không gây chết người. Thay vào đó, Bộ Quốc phòng lại lệ
thuộc nặng nề vào hướng dẫn kỹ thuật của các công ty hoá
chất vốn đang bị sức ép phải tăng công suất sản xuất để đáp
ứng các yêu cầu quân sự.
Việc sử dụng chất
diệt cỏ dẫn tới những vụ kiện rộng rãi do cựu chiến binh và
công dân Việt Nam đứng tên chống lại các công ty hoá chất.
Các công ty này đã phải dàn xếp với các cựu chiến binh Mỹ
trong những vụ kiện đầu tiên về vấn đề này trong năm 1984
với 180 triệu đôla.
Kể từ đó, các công
ty hoá chất biện bạch một cách "đắc thắng" rằng họ được miễn
truy tố theo các điểu khoản của luật bảo vệ các hợp đồng của
Chính phủ Mỹ. Các toà án cũng cho rằng, quân đội nhận thức
rõ về sự tàn phá của chất dioxin, nhưng vẫn sử dụng các chất
diệt cỏ bởi vì các công ty hoá chất giúp họ bảo vệ binh lính
Mỹ.
Một báo cáo vào năm
1990 gửi Bộ trưởng Bộ các vấn đề cựu binh Mỹ cho thấy rằng,
quân đội mặc dù biết chất Da Cam rất nguy hiểm tới con người
song chỉ tiến hành rất ít các biện pháp dự phòng để hạn chế
phơi nhiễm. Báo cáo trích một bức thư viết năm 1988 của
James Clary, một nhà khoa học thuộc bộ phận phát triển vũ
khí hoá học trực thuộc Phòng Thí nghiệm phát triển vũ khí
của không quân Mỹ gửi Thượng nghị sĩ Tom Dasschle, người
đang thúc đẩy sự trợ giúp pháp lý cho các cựu chiến binh bị
mắc các bệnh tật liên quan tới chất diệt cỏ.
“Khi chúng tôi khởi
xướng chương trình chất diệt cỏ vào những năm 60s, chúng tôi
đã ý thức được sự tàn phá tiềm tàng của chất dioxin trong
các chất diệt cỏ” – Clary viết. “Chúng tôi thậm chí còn biết
rằng công thức hóa học do phía quân sự đặt hàng còn chứa một
lượng dioxin tập trung hơn công thức mà phía dân sự đưa ra,
tất cả chỉ để đặt mục tiêu giảm chi phí xuống mức thấp hơn
với thời gian sản xuất nhanh hơn. Tuy nhiên, do chất hóa học
này được nói là chỉ được sử dụng đối với “kẻ thù”, nên không
ai trong số chúng tôi quá quan tâm đến nó”.
Giới khoa học quân
sự đã từng biết đến các chất diệt cỏ từ những năm 40 của thế
kỷ trước, song do kinh phí nghiên cứu bị cắt vào năm 1958
nên đã khiến rất ít nguồn lực được tập trung cho việc đánh
giá đầy đủ tác hại của các loại hoá chất được sử dụng ở Viẹt
nam.
“ Người ta nói mất
khoảng 10 ngày để đến Việt Nam thực hiện “nghiên cứu” về các
nhiệm vụ nói trên - Thiếu tá James Brown của Đội nghiên cứu
và Phát triển Hoá chất đặc biệt viết trong một báo cáo vào
tháng 10-1961 ngay khi chương trình chất diệt cỏ vừa khởi
động: “Một đơn đặt hàng rất lớn đã được áp đặt lên cố gắng
nghiên cứu vốn chỉ nhận được sự ủng hộ rất khiêm tốn".
Quân đội đã khởi
động chương trình chất diệt cỏ hạn chế vào năm 1962 trong đó
bao gồm 47 nhiệm vụ. Đồng thời, người ta biết được rất ít về
các tác hại tới sức khỏe của dioxn một phần bởi bệnh ung thư
và các bệnh tật khác có thể phải mất hàng thập kỷ để tìm
hiểu và các chất diệt cỏ chỉ mới được sử dụng rộng rãi kể từ
năm 1947.

Bản đồ về các địa
điểm rải chất độc da cam/dioxin ở miền Nam Việt Nam, mật độ,
khối lượng rải và biểu đồ về mức độ bồi thường cho các CCB
Mỹ trong các cuộc chiến tranh: Việt Nam, Triều Tiên, Vùng
Vịnh, Thế chiến II, trong đó bồi thường trong chiến tranh
Việt Nam cao kỷ lục (Ảnh: Bộ các vấn
đề Cựu chiến binh Mỹ- Max Rust và Philgeib- Chicago Tribune)
Nhưng các tài liệu
đã được các luật sư của các cựu chiến binh cho thấy các công
ty hóa chất đã biết rằng các thành phần hoá học trong chất
Da Cam và các chất diệt cỏ khác có thể nguy hiểm. Vào
khoảng đầu năm 1955, các hồ sơ cho biết một công ty hoá chất
của Đức tên là Boehringer đã bắt đầu ký hợp đồng với công ty
Dow về chất Chloracne và các vấn đề về cơ thể tại một nhà
máy của Công ty Boehringer, nơi đã sản xuất ra chất 2,4,5
-T một thành phần có trong chất Da Cam và các chất diệt cỏ
khác bị nhiễm chất độc dioxin.
Không giống các công
ty hoá chất Mỹ, công ty Boehringer đã dừng sản xuất và tháo
dỡ các bộ phận của nhà máy sau khi họ khám phá ra việc công
nhân bị bệnh. Công ty đã nghiên cứu vấn đề này gần ba năm
trước khi tái sản xuất lại chất 2,4,5-T.
Bằng cách đó, công
ty đã phát hiện ra rằng dioxin là thủ phạm và rằng họ có thể
hạn chế chất độc hại bằng cách đun các hoá chất trong nhiệt
độ thấp- một giải pháp sẽ làm cho quá trình sản xuất bị chậm
lại.
Trả lời các câu hỏi
của phóng viên Tribune, Công ty Dow nói họ không mua thông
tin độc quyền về kỹ thuật này cho đến năm 1964 và cho đến
năm 1965 hãng này mới sử dụng thông tin đó. Các hồ sơ cho
thấy Công ty Dow đã không hề thông báo cho các nhà máy khác
cũng như thông báo cho Chính phủ về kỹ thuật này cho đến khi
quân đội bắt đầu kế hoạch xây dựng nhà máy hoá chất của
riêng mình để sản xuất các chất diệt cỏ vào năm 1967.
Vào thời diểm đó,
Công ty Dow cũng phát triển một quy trình kiểm nghiệm nồng
độ dioxin trong các mẻ sản phẩm của chất 2,4,5-T. Công ty đã
cung cấp kỹ thuật đó cho các công ty khác vào năm 1965 nhưng
không cung cấp cho quân đội cho đến năm 1967.
Từ đầu thập kỷ, gần
hai mươi quan chức quân sự và các nhà khoa học trong lĩnh
vực hoá chất công nghiệp đã gặp gỡ nhau vào tháng 4-1963 để
đưa ra một "tuyên bố chung" về vấn đề liên quan tới sức khoẻ
của các chất 2,4-D và 2,4,5-T. Nhưng không ai đưa ra những
quan ngại về việc sử dụng các hoá chất ở Việt Nam- theo
tuyên bố của hội nghị.
Bằng chứng tập trung
lớn nhất là vào sự thật rằng hơn 300.000 gallon chất độc đã
được sử dụng ở trong nước Mỹ từ 1947, thậm chí loại chất sử
dụng cho Việt Nam cũng còn xa mới bằng về mức độ tập trung
và hàm chứa dioxin. Tuy nhiên Dow nói với Tribune rằng công
ty đã chia sẻ thông tin về các vấn đề sức khoẻ với quân đội.
"Trên thực tế, các nhà máy hoá chất bao gồm cả của hãng Dow,
đã đối thoại với Chính phủ Mỹ khi xem xét đến mối nguy hiểm
tiềm tàng của chất chloracne trong quá trình sản xuất mà
công nhân bắt đầu mắc phải vào đầu năm 1949, tiếp tục gặp
phải qua những năm 60. "Người phát ngôn của Công ty Dow
Perter Paul van de Wijs nói trong một trả lời phóng vấn.
Vào năm 1965, các
công ty hoá chất liên quan dến việc sản xuất chất diệt cỏ đã
gặp nhau ở tổng hành dinh của công ty Dow ở Midland nhằm
thảo luận về sự đe dọa của chất độc này đối với khách hàng.
"Thứ hoá chất này (dioxin) là một chất độc khác thường; nó
có một tiềm năng khủng khiếp để tạo ra chất chlornace và làm
tổn thương hệ thống". Chuyên gia hàng đầu về chất độc của
hãng Dow V.K Rowe viết cho các công ty khác vào ngày
24-6-1965.
Nhưng theo các luật
sư, cho đến tận cuối năm 1967, không có công ty nào thông
báo cho các quan chức quân đội chịu trách nhiệm việc giám
sát các hợp đồng sản xuất chất diệt cỏ bởi các mối quan tâm
về sự an toàn.
Các tài liệu nội bộ
từ các công ty cũng chỉ ra rằng họ đã quan ngại về sự kiểm
tra kiểm soát chạt chẽ hơn.

Cựu chiến binh
George Claxton đã dành gần 30 năm sau chiến tranh để nghiên
cứu hậu quả đối với binh lính của chất dioxin và các hóa
chất độc hại khác trong thành phần các chất làm rụng lá được
sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (Ảnh: Chris Walker/
Chicago Tribune , 10-8-2009)
Chỉ sau khi nghiên
cứu của Uỷ ban quốc gia về sức khoẻ cho thấy rằng, chất
2,4,6-T gây ra dị tật bẩm sinh trên động vật thí nghiệm thì
quân đội mới chấm dứt sử dụng chất Da Cam vào năm 1970.
Alan Oates một cựu
chiến binh Việt Nam, hiện là Chủ tịch Uỷ ban Da Cam cho các
CCB Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam nói, các cựu binh có rất
ít cơ hội trong cuộc chiến pháp lý đòi bồi thường kể từ vụ
khiếu kiện năm 1988.
Các cựu binh đã
tranh biện bất thành trước toà rằng, khiếu kiện là không đủ
bởi việc khiếu kiện đã diễn ra quá sớm đối với hàng ngàn
người mà bệnh tật của họ chưa phát lộ cho đến khi sau khi
phí tổn kiện tụng đã hết.
Một vấn đề chưa được
giải quyết- theo Oates, là liệu các công ty hóa chất có thể
lãnh trách nhiệm về các chi phí cho sức khỏe nảy sinh cùng
với các ca dị tật bẩm sinh được thấy ở trẻ em là con em cựu
chiến binh Việt Nam không?
"Giờ đây, đó là lúc
bắt đầu cho thấy các công ty Mỹ có ảnh hưởng đến các thế hệ
tương lai, thì điều gì là nguyên nhân của những câu chuyện
này"- Oates nói.
Phóng sự do Jason
Grotto, Chicago Tribune thực hiện.
Song Hà
biên dịch theo: http://www.chicagotribune.com/health/agentorange/chi-agent-orange-dioxindec17,0,674174.story
|