Xem phần 2
Florence Nightingale (1820-1910)
người mở đường cho sự thành lập Hội Hồng Thập Tự
Quốc Tế
Cam chịu!
Tôi chưa bao giờ hiểu tiếng đó hết!
Coi
bức họa do Verney vẽ hồi bà ba chục tuổi, ta chỉ
thấy bà có một vẻ đẹp thanh nhã, phảng phất như một
thiếu phụ phương Đông: người nhỏ nhắn, cân đối, yểu
điệu, mặt trái xoan, lông mày dài và cong, miệng
nhỏ, cặp mắt hơi lớn, thông minh, nghiêm trang và
thùy mị. Phải nhìn bức tượng bán thân do John Steel
nặn năm 1859 -chín năm sau ta mới nhận ra những nét
cương quyết trên vừng trán cao, rộng, hơi gồ và trên
làn môi mỏng và mím lại của con người suốt đời không
hề hiểu tiếng "cam chịu" ấy.
Đức kiên nhẫn và nghị lực của bà
thật là phi thường, đàn ông cũng ít người sánh kịp.
Một mình bà mà chống với bản thân và gia đình trong
mười bốn năm rồi chiến đấu với các chính khách Anh,
quân đội Anh ba mươi lăm năm nữa -trước sau gồm nửa
thế kỷ- để thực hiện lý tưởng của mình: làm cho nhà
cầm quyền Anh phải coi người lính không phải là hạng
thú vật mà là hạng người lương thiện.
Bà sinh trong một gia đình nền
nếp, sang trọng. Cha là William Edward Nightingale,
dòng dõi điền chủ, được hưởng một gia tải lớn,
sống một cách nhàn nhã, vui chơi suốt năm,
chẳng phải lo lắng gì cả; tính tình lịch thiệp, nhã
nhặn. Mẹ là Fanny dòng dõi phú thương, rất đẹp, hào
phóng nhưng cũng như chồng, chỉ ham vui. Hai ông bà
cưới nhau xong, qua châu Âu du lịch ba năm, được
một năm thì sinh một người con gái, đặt cho một tên
Hy Lạp là Parthenope; hai năm sau nữa (15-05-1820)
mong có một đứa con trai thì lại sinh thêm một gái
nữa, đặt tên là Florence, tên một tỉnh vui vẻ nhất ở
Ý.
Tính tình hai chị em rất khác
nhau: Cô Parthe (tức là Parthenope) thì đểnh đoảng,
không có ý tứ, giống mẹ: cô Flo (tức Florence) thì
rất ngăn nắp, có thứ tự và phương pháp. Gia đình
sống vui vẻ trong sự xa hoa: cha thì đi săn, đọc
sách, mẹ thì tiếp khách, nghe nhạc. Thỉnh thoảng lại
dắt nhau. Cô Flo thích nhất nước Ý, lại quý mến dân
Ý đã chiến đấu để đòi lại độc lập. Ông bà cho cô học
tiếng Pháp, tiếng Hy Lập, môn triết lý nhưng cô chỉ
thích môn toán Và sống trong cảnh nuông chiều, nhàn
nhã, phong lưu đó, cô vẫn thấy buồn, hồi mười chín
tuổi, cho đời mình là vô vị, thiết tha tìm một mục
đích. Trong năm năm cô suy nghĩ, dò đường đi, dần
dần thấy rằng com đường hợp với cô nhất là hy sinh,
để săn sóc bệnh nhân. Ngỏ ý với cha mẹ thì cha mẹ
ngăn cản, và suốt trong chín năm sau, luôn luôn có
sự xung đột giữa cô và gia đình.
Năm 1842 là năm dân Anh bị nạn
đói kinh khủng, kẻ nghèo chết như rạ. Trước cảnh khổ
đó, cô than thở: "Óc tôi suy nghĩ hoài về nỗi khổ
của loài người (...) Và lời các thi sĩ ca tụng những
cái rực rỡ của thế giới này, tôi thấy là sai sự
thực. Tất cả những người mà tôi gặp đều bị cảnh lo
lắng, hoặx nghèo khổ hoặc bệnh tật xâu xé."
Từ đó cô nhất định vô các dưỡng
đường hy sinh cho bệnh nhân như các bà phước bên
Thiên chúa giáo. Nhưng cô vẫn chưa biết lực lời ra
sao để xin phép cha mẹ, nên vẫn kéo dài cuộc đời
ngồi rồi, chán nản. Có bạn hỏi sao cô không làm văn
để tiêu khiển, vì cô có chút khiếu về văn chương, cô
đáp: "Không hoạt động được thì bất đắc dĩ mới phải
viết".
Mãi hai năm sau, cô mới dám ngỏ
lời với ông bà, xin học ba tháng nghề điẻu dưỡng ở
bệnh xá Salisbury gần nhà (lúc đó gia đình ở cả
Embley. Thân mẫu cô kinh hoảng, cho là cô
điên; cô Parthe nổi cơn lên bảo là làm nhục gia
đình; còn thân phụ cô thì ghê tởm, chán ngán, bỏ nhà
đi Luân Đôn chơi. Ai cũng nghĩ: đương sống trên
nhung lụa được cả nhà chìu chuộng, muốn gì có nấy,
tài đó, sắc đó, ở trong gia đình đó thì thế nào
chẳng kiếm được một đứng phu quân xứng đáng, dòng
dõi thế phiệt, mà lại sinh chứng, muốn làm nghề nữ
điều dưỡng,
một nghề đê tiện chỉ hơn bọn gái
điếm và bọn ăn mày có một bực!
Quả thực nghề nữ điều dưỡng thời
đó là một nghề ghê tởm, Trừ một số bà phước
Pháp, hy sinh cho đạo, cho tín đồ, còn các nữ điều
dưỡng ở các dường đường đều bị khinh
bỉ, sống rất nhục nhã. Không một nhà danh giá nào
chịu cho con theo nghề đó.
Đọc tiểu sử Philippe
Semmelweis ta thấy tình cảnh dưỡng đường ở thế
kỷ trước tại Áo, Hung ra sao. Không có một chút vệ
sinh nào cả. Sinh viên y khoa vừa mổ xẻ thây
ma ở phòng mổ xẻ xong, tay còn đầy máu mủ, có khi
chỉ nhúng qua vào một thùng nước, khoăng khoắng mấy
cái, có khi vội vả không kịp nhúng nữa, chùi đại vào
áo choàng rồi chạy qua phòng bên, coi mạch cho bệnh
nhân, đỡ đẻ cho sản phụ, thành thử truyền vi trùng
của thây qua người mạnh. Thực là ghê tởm! Vì vậy mà
có nhiều sản phụ hoảng hốt khóc lóc, quỳ lạy van xin
y sĩ cho họ đẻ ở đầu đường, ở bờ rạch còn hơn. Hễ vô
nằm thì mười phần có chín phần mắc chứng sốt sản hậu
(fièvre puerpéral) rồi chết. Bệnh đó đặc biệt phát
ra ở dưỡng đường đến nôi dân chúng gọi nó là "bệnh
sốt dưỡng đường". Nó rất hay lây, nhưng hồi đó
Pasteur chưa tìm ra thuyết vi trùng nên người ta
không biết nguyên nhân ở đâu, mà các y sĩ thì chưa
có một ý niệm gì về vệ sinh cả.
Ở Anh, tình cảnh cũng như ở Ấn,
Hung, Đức, nếu không nói tệ hơn. Có phòng chứa cả
năm sáu chục bệnh nhân; nệm có khi cả tháng không
thay, đầy vết dơ, cứ người trước ra thì người sau
vào thế, thành thử bốn, năm con bệnh dùng chung một
cái nệm; nếu có một người bị bệnh truyền nhiễm thì
những người tới sau đều bị lây, thành thử có giường
làm cho bệnh nhân kinh khủng, ai vô nằm cũng chết.
Sàn, tường đều đầy máu mủ, mùi hôi thói xông ra
ngoài làm cho những người đi qua phải buồn mửa.
Các nữ điều dưỡng được ở một phòng
riêng, nhưng họ ngủ ở đó, ăn ở đó và nấu ăn cũng ở
đó. Có người phải coi tới bốn phòng mà lương không
đủ sông. Đa số say rượu đến nỗi tại Dưỡng đường
Luân Đôn, lớn nhất ở Anh, chỉ có hai nữ điều dưỡng
là đáng tin cậy, không cho bệnh nhân uống nhầm
thuốc. Một số làm điếm, khoe với người khác rằng
"Thân tôi dơ dáy, đê tiệnnhư vầy đây mà đạ cò lần
tôi được bận lụa và sa tanh thứ thiệt của Pháp đấy"'
Tóm lại không có người đứng đắn
nào chịu giao thiệp với bọn đó, chả trách gia đình
của Florence cho cô là làm nhục gia phong cương
quyêt ngăn cản cô là phải. Cô không dám cãi nhưng
vẫn giữ ý định, từ chối mấy nơi danh giá lại cầu
hôn, đi du lịch Ai Cập để tiêu sầu.
Nhưng vào khoảng 1850, một số
người sáng suốt ở Anh đã bắt đầu lưu tâm tới các
dưỡng đường, tỏ lòng thương các bệnh nhân nằm trong
đó và tìm cách giúp đỡ họ. Tháng sáu 1851, cô
Florence qua Đức chơi, vào thăm viện Kaiserworth do
một mục sư lập. Viện gồm có một bệnh xá, một trường
học, một nhà nuôi trẻ mồ côi. Cô xin phép cha mẹ ở
đó ba tháng học cách săn sóc bệnh nhân, rồi vế nước.
Đầu năm 1833 cô qua Pháp thăm các
dưỡng đường ở Paris, rồi lần này, không xin phép nà,
tự ý vô nhà tu Maison de la Providence học
thêm nghề săn sóc bệnh nhân và khi về nước, cô không
ở chung với gia đình nữa, vô giúp việc cho một bệnh
xá do hội Thiện lập ở Harley street. Vậy là đến năm
ba mươi ba tuổi, cô mới được làm theo sở nguyện.
Năm sau, có chiến tranh giữa Nga
một bên Anh, Pháp, Thổ một bên, trong lịch sử gọi là
chiến tranh Crimée, Nga hoàng Nicolas I muốn chiếm
Constantinople hồi đó nằm ở trong tay Thổ - để tìm
đường ra Địa Trung Hải, nên đem quân lại bán đảo
Crimée, lấy cớ rằng để bênh vực các tín đồ Thiên
chúa giáo bị người Thổ ngược đãi. Anh và Pháp đều
không muốn cho Nga chiếm Comstantinople, vì nếu
chiếm được hì hạm đội Nga sẽ tung hoành trên Địa
Trung Hải, con đường của Anh qua Ấn sẽ lâm nguy mà
thuộc địa của Pháp ở Syrie cũng không được yên ổn.
Cả hai đều giúp Thổ chống Nga, thà để Constantinople
cho Thổ vì Thổ yếu, không làm hại được mình, chứ
không chịu để cho Nga.
Người Anh chắc chắn thế nào cũng
thắng -ba nước đánh một mà!- nên quân sĩ hùng dũng,
tự tin ra trận, lập căn cứ tại Scutari để công phá
căn cứ của Nga ở Sébastopol; nhưng họ khinh địchquá,
lại không tổ chức gì cả: 3 vạn lính Anh tới Varma mà
không có xe để chở. Nực cười nhất là họ ra chiến
trường mà như cắm trại; khách du lịch các nước bu
lại coi, sống chung với quân lính như coi một cuộc
đấu quyền. Bọn du lịch đó, người Anh gọi là T.G, (Travelling gentlemen).
Không ngờ quân Nga chống cự kịch
liệt, rồi bệnh dịch tả phát trong quân đội Anh. Lớp
đầu, một ngàn bệnh nhân đưa về Scutari rồi tiếp tới
một ngàn bệnh nhân nữa; bệnh xá của quân đội không
còn đủ chỗ chứa, thiếu đủ thứ, từ y sĩ, điều dưỡng
đến lao công, thức ăn, thức uống. Một chỗ bình
thường chứa 150 người thì bây giờ phải chứa 1500
người; không có giường cho họ nằm, bếp cũng không có
để nấu nướng, mà dơ dáy thì không thể tả nổi. Ở Anh
người ta chỉ nghe các tướng báo cáo về lòng dũng cảm
của quân lính, không ngờ tình trạng lại bi thảm như
vậy. Một phóng viên của tờ Times phẫn uất viết bào
tường thuật cảnh hỗn độn, thiếu thốn, vô tổ chức đó,
so sánh với bệnh xá quân đội Pháp, sạch sẽ hơn, lại
có những bà Phước rất giỏi, rất tận tâm săn sóc
thương binh, và đặt câu hỏi: "Tại sao người Anh
không có bà phước như Pháp?".
Những bài báo đó làm dư luận chấn
động và chính quyền Anh cậy ông Redeliffe mời cô
Florence tiếp tay. Thực hợp với ý cô vì ngay từ đầu
chiến tranh cô đã có ý và đã có dự bị qua
Constantinople giúp thương binh ồi. Cô xúc tiến công
việc, tuyển 14 nữ điều dưỡng chuyên nghiệp và 24
người nũa trong số hội viên của các cơ quan tôn
giáo, rồi ngày 21 tháng 10 đó, cô lên đường với họ,
mang theo 1000 anh kim với một bức thư nhà cầm quyền
giới thiệu cô với bác sĩ Menzies , giám đốc dưỡng
đường quân đội ở Scutari. Cô giữ chức giám đốc cơ
quan nữ điều dưỡng của các duỡng đường Anh tại Thổ,
tuy phải theo mệnh lệnh bác sĩ Menzies nhưng được
toàn quyền chỉ huy những nữ điều dưỡng ở dưới quyền
mình. Bà Tanny và cô Parthe lúc này chẳng những
không buồn là cô làm nhục gia đình nữa mà còn khoe
với mọi người rằng "cô có một nhiệm vụ lớn lao
và cao cả". Trò đời là như vậy!
Đã từ lâu rồi, cái tinh thần tự
tôn, tự hạ hay trong Thánh Kinh, tinh thần rửa chân
cho những người thuộc hạng đê tiện, đã tiêu tan
không còn lưu một dấu vết gì trong bọn quý phái ở Âu
nữa. Các bà các cô trông các hội Thiện do các
tôn giáo lập ratự cho mình chỉ có bổn phận săn sóc
linh hồn, nhĩa là tụng kinh cho các bệnh nhân trong
bệnh xá thôi, còn cái thân thể của họ, cái vật dơ
dáy đó, họ không thèm ngó tới. Không những vậy, các
bà các cô cũng không chịu ngồi chung, ăn chung với
hạng nữ điểu dưỡng chuyên nghiệp. Cô Florence phải
kiên nhẫn giảng giải, thuyết phục rất lâu, các
bà các cô đó mới chịu rời cuốn Thánh kinh mà tiếp
tay với cô, và mới chịu hạ mình tiếp xúc các bạn
chuyên nghiệp.
Tjáng sau tàu ghé Scutari. Thật
là một cảnh kinh khủng, đến thi sĩ Dante cũng
không sao tưởng tượng nổi trong phần đầu , phần tả
địa ngục, của tâp thơ bất hủ La Divine Comédie của
ông. Ở bệnh xá của trại lính có tới 2400 bệnh nhân,
nếu họ có đủ giường nằm mà giường kê liền nhau thì
thành một dãy dài năm cây số. Già nửa là say tí bỉ:
vì không co` người nào không uống rượu. Họ chết vì
đói lạnh, vì bệnh dịch tả, chết vì truyền nhiễm. Hai
ngàn ba trăm bốn mươi chín người vô nằm thì hai ngàn
ba trăm mười lăm người chết, chỉ còn ba mươi bốn
người sống sót, trở ra mặt trận được. Lính chết mà
ngựa cũng chết. Cả hai đều chết mà không kịp chôn.
Có` giường thì mười người thay phiên nhau vô nằm thì
chết cả mười. Có người vô nằm nửa tháng mà vẫn chưa
được bác sĩ coi mạch vì thiếu bác sĩ. Có người vô
nằm hai mươi bốn giờ mà không được ăn cũng không
được uống nước. Mà nước thì đục ngàu và hôi. Họ
không có đủ giường để nằm, không có quần áo để thay
mà cũng không có cả nỉa muỗng, dao để dùng nữa. Hai,
ba ngưòi ăn uống, rửa mặt trong một cái thùng nhỏ.
Thực ghê tởm ! Họ không còn là người nữa, không bằng
con thú nữa. Ai chịu trách nhiệm về tình trạng đó?
Thưa, không có ai cả. Viên bác sĩ giám đốc bệnh xá
bảo: "Tôi chỉ lo việc coi mạch, ra toa thôi vấn đề ăn
mặc do sĩ quan cung cấp lương thực" Viên này lại
bảo: " Tôi chỉ có bổn phận cung cấp những món
ăn thường dùng thôi, còn những món ăn đặc biệt cho
những bệnh nhân ăn riêng thì ra ngoài nhiệm vụ
của tôi. Lính không có muỗng, nỉa, dao, dĩa là tại
họ. Quân lệnh bắt họ đi đâu cũng phải mang
theo những thứ đó, nếu họ đánh mất hay bỏ quên thì
mặc họ!". Họ không đánh mất, cũng không
bỏ quên, họ đã được lệnh của sĩ quan của họ ở
quận Calamita bảo để lại những thứ đó, cho người sau
dùng, về Scutari sẽ có đủ. Và bây giờ về Scutari họ
phải ăn bốc.
Trước tình cảnh đó, các nữ điều
dưỡng chán nản: họ có ba mươi tám người làm sao săn
sóc non hai ngàn rưởi bệnh nhân được? Cô Florence,
trái lại, hăng hái muốn bắt tay vào việc ngay; việc
càng nhiều thì lại càng phải làm gấp. Cô xin bác sĩ
Menzies phát cho bệnh nhân nệm và quần áo sạch để
thay, cho họ mỗi ngày một món xúp và có đủ trà để
uống. Bác sĩ đáp: "Những xa xỉ phẩm đó, không nên
cho bọn lính hưởng". Sự thực là không có đủ để phân
phát cho lính. Mà các sĩ quan cao cấp thì có dư
săm-banh để uống và để tiếp đãi các T.G.
Ngay từ khi cô mới tới, bác sĩ
Menzies đã có ác cảm với cô rồi. "Bọn phụ nữ này tới
đây làm gì cho vướng chân mình? Cái ngữ đó mà giúp
đỡ được cái gì? Chỉ tổ phải hầu hạ họ!". Ông ta nghĩ
vậy mà không dám nói ra "chưa biết chừng họ do cơ
quan mật vụ gởi tới để canh chừng mình đây!
Nhất là cô Florence đó nghe nói quen nhiều giới "bự"
ở Luân Đôn. Thái độ của ông là mặc kệ không
giao việc cho bọn cô, thí cho bốn căn phòng tại bệnh
xá - tính ra mười người một phòng.
Cô Florence không phản đối
vì theo lệnh trên, cô phải thuộc quyền bác sĩ.
Nhưng ít bữa sau, tình thế
thay đổi. Mùa Đông tới, mà mùa Đông năm đó lạnh vô
cùng. Bện nhân dồn tới mỗi ngày mỗi đông: họ bị
bệnh lị, bị chứng hoại huyết và họ đói. Bác sĩ
Menzies xoay sở không xong, đành phải nhờ bọn cô
giúp sức.
Cô bắt tay vào việc với một nghị
lực và một sức chịu đựng phi thường. Công việc đầu
tiên là lau quét, dọn dẹp cái phòng cái giường cho
tạm sạch, thu xếp cho có một chỗ khuất để bác sĩ làm
công việc giải phẫu. Trước kia không có một bàn
riêng để giải phẫu nữa, bệnh nhân cứ nằm tại giường
của mình người ta cột tay khóa chân họ lại rồi mổ,
ngay trước mắt những bệnh nhân ở xung quanh, làm cho
họ phải nhắm mắt, bịt tai lại. Nhờ số tiền mang
theo, cô tuyển thêm nữ điều dưỡng ở tại miềm, chỉ
bảo họ, rồi lại thuyết phục vợ họ đừng ở không nữa
mà tiếp tay với cô.
Vừa mới sắp đặt có trật tự được
một chút thì một cơn giông dữ dội nổi lên, quét sạch
hết lều trại, người, ngựa cũng bị thổi đi. Quần áo
tơi bời, bệnh nhân nằm trên bàn, hôi thối. Có kẻ
thấy một nữ điều dưỡng tới giúp đỡ mình, vội xua tay
hét: "Đi chỗ khác, đừng lại gần tôi,
tôi dơ dáy lắm!"
Số bệnh nhân cũng tăng lên 500
nữa. Sau cơn dông, phải xây cất, dọn dẹp lại. Vừa
mới yên thì ở mặt trận lại gởi thêm thương binh về,
và tháng giêng năm 1855, bệnh nhân lên tới số kỷ
lục, kinh khủng là 12.000 người, mà trước sau chỉ có
85 người -kể cả cô Florence- để săn sóc họ!
Cô làm việc suốt ngày, mỗi đêm
chỉ nghỉ được bốn năm giờ, quyên tiền trong quân
đội, trongbọn T.G. tức khách du lịch; viết thư về
Anh, gõ mọi cửa để xin gởi gấp qua quần áo, mền,
nệm, thức ăn, dĩa, muỗng... Cô viết không biết bao
nhiêu thư và phúc trình, rồi tiếp khách, thăm bịnh
nhân; ngày nào cũng đi thăm hết các phòng một lượt,
người nào sắp chết thì cô ngồi lại chuyện trò một
lúc, rồi cắt đặt nữ điều dưỡng phải ở luôn bên cạnh
cho đến khi họ tắt thở. Cô không muốn rằng đồng bào
cô xa nhà, xa quê, lại đã hy sinh choi tổ quốc mà
chết trong cảnh cô đơn, không có một ai ở bên cạnh
để vuốt mắt.
Chỉ trong có vài tháng lính
thương cô như mẹ -sau này, cô bảo với bạn: "Tôi
không lập gia đình, nhưng đã có 15.000 người con
rồi". -Có kẻ chỉ ngóng giờ cô đi qua để được nhìn nụ
cười và nét hiền từ của cô và bảo: "Chỉ bóng cô lướt
qua giường tôi, tôi cũng sung sướng tưởng như
được cô vuốt ve rồi vậy..." Từ trước tới nay, có lẽ
chưa một phụ nữ Anh nào được dân chúng quý mến tới
bực đó.
Chính
nữ hoàng Victoria cũng phải
cảm động, khâm phục, đòi đọc tất cả những bản báo
của cô, viết thư khen cô và hỏi cô muốnn gì, bà sẽ
giúp.
Khi công việc săn cóc bệnh nhân
đã tổ chức đàng hoàng rồi -đàng hoàng đến nỗi lính
Anh đồn với nhau: "Nằm ở bệnh xá Scutari sướng như
lên Thiên Đường"- Cô tiến một bước nữa, cải thiện
đời sống tinh thần và sửa đổi tánh nết của lính.
Thời đó người ta có quan niệm
rằng hạng lính là hạng hạ tiện, gần như thú vật,
phải kích thích thú tính của họ thì họ mới
hăng hái chiến đấu. Phải cho họ uống thật nhiều rượu
để họ khỏi sợ chết, mà hóa ra hung tợn, khát máu.
Lại phải cho họ trụy lạc, cướp bóc, hiếp dâm thì họ
mới khỏi cái sầu để họ vui vẻ ra trận. Cô Florence
cho quan niệm đó là sai. Tiếp xúc với thương binh,
cô thấy rằng lòng kính Chúa và tình gia đình của họ
có khi rất cảm động, rằng họ là những người lương
thiện như cô và không có lý gì lại coi họ như loài
thú được.
Cô đề nghị với các sĩ quan cấm
rượu và cho lính được phép gởi tiền về nhà. Lúc đó
uy tín của cô đã lớn: lính nghe cô răm rắp mà ở Anh,
từ nữ hoàng đến dân chúng ai cũng ngưởng mộ cô, nên
bọn sĩ quan ngu xuẩn tuy mới đầu phản đối, rồi sau
cũng phải nghe cô. Kết quả là mỗi tháng, lính ở
Scutari gởi về cho gia đình được một
ngàn Anh kim, và trong sáu tháng, tất cả lính trong
quân đội Anh ở Crimée gởi về nhà được 71.000 Anh
kim. Cô lại bận thêm biết bao nhiêu công việc: làm
ngân phiếu, giữ sổ sách vì lính chỉ muốn giao tiền
cho cô thôi. Mà cô không có được phòng giấy
riêng, chỉ có mỗi một cái bàn kê ở cạnh giường, và
bất kỳ binh sĩ, khách khứa, ai vào hỏi cô việc gì,
lúc nào cũng vào được. Trong hoàn cảnh đó mà cô làm
việc nhiều gấp mười các sĩ quan quả thực là năng lực
của cô siêu quần. Cô lập một thư viện cho quân đội
-tác phẩm binh sĩ thích đọc nhất là bản dịch Les
mystères de Pavos của Eugene Sue- mở lớp dạy học
cho quân đội và lập sân banh cho họ tiêu khiển, tổ
chức lại quản lý bệnh xá, huấn luyện các sĩ quan về
cách đối xử nhân đạo với quânm lính. Rút cục, ở
Scutari cô chỉ huy hết thảy và các bác sĩ, tướng tá
đều gần như vô dụng. Tất nhiên có một số người ghen
ghét, gièm pha, nhưng từ xưa đến nay, kẻ nào được
lòng dân thì còn sợ ai nữa?
Tới tháng sáu năm 1856, hòa ước
ký với Nga ở Paris. Hai bên đều thiệt hại nặng.
Constantinople vẫn về Thổ. Cô Florence về xứ.
Xem phần 2
|