Những bài cùng tác giả
*Giáo dục dạy nghề Bài I
*Giáo dục dạy nghề Bài II
*Sự
thay đổi trong đào tạo nghề sau phổ thông ở Nhật và Hàn quốc
*Giáo dục dạy nghề tại Đức
Lời mở đầu
Từ đầu năm Mậu Tý (2008) đến nay, vấn đề thiếu hụt lao động được đặt ra
một cách sôi nổi, không có ngày nào là không được đề cập trên các phương
tiện thông tin đại chúng, xem như một nguy cơ hay rào cản của việc tăng
tốc phát triển trong những năm tới. Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng cũng đã
nêu lên vấn đề nầy trong lần gặp gỡ báo chí, truyền thông đầu năm 2008.
Đặc biệt gần đây, Ban Chấp Hành Trung Ương cũng đã ra nghị quyết 20 về
vấn đề “Giai cấp công nhân” trong đó nhấn mạnh đến việc xây dựng một lực
lượng lao động có tay nghề, kỹ năng phù hợp với yêu cầu của giai đoạn
mới.
Có thể nói, vấn đề nguồn nhân lực, lao động có kỹ năng đã được toàn xã
hội quan tâm hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, việc nêu lên một hay nhiều giải
pháp để tháo gỡ (giải quyết) những gì đề ra vẫn còn bỏ ngỏ. Nhận thức
được yêu cầu bức xúc nầy, từ thời điểm Việt nam gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới, chúng tôi đã lên tiếng trong bài viết “Vấn đề Giáo dục và
đào tạo đẳng cấp quốc tế ở nước ta” tháng 3 năm 2007(1). Để triển khai
những ý kiến gợi mở cho việc hoạch định một chính sách phù hợp và lộ
trình giáo dục dạy nghề cho thế hệ trẻ, lần nầy chúng tôi đúc kết một số
kinh nghiệm của Nhật bản, là nước thành công trong những mô hình đào tạo
kỹ thuật và kỹ năng trong giáo dục phổ cập để giới thiệu trong bài viết
“Giáo dục dạy nghề ở Nhật Bản”(2) trước khi vào những phân tích và đề
nghị cụ thể trên những cứ liệu có được, qua bài viết thứ hai “Lỗ hổng
nghiêm trọng trong phát triển: lao động có kỹ năng”(3) kêu gọi thay đổi
tư duy dạy nghề từ “xoá đói giảm nghèo” sang “phát triển kinh tế” phù
hợp với đường lối “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” và “hội nhập” hiện
nay.
Tất nhiên không thể có một giải pháp riêng lẽ mà phải có những giải pháp
triệt để đồng bộ ở cấp vĩ mô theo quan điểm và chủ trương sâu sát với
tình hình thực tế, không ảo tưởng, tránh giáo điều và chồng chéo về mặt
tổ chức thực hiện mới có thể đạt mục đích to lớn mà chúng ta hằng mong
mỏi. Vì vậy, những bài viết nêu trên chỉ là một góc nhìn, có thể còn rất
nhiều vấn đề lẽ ra phải được đề cập. Do hạn chế về thời gian nên chúng
tôi chỉ mới nêu lên được những nét đại cương, hi vọng đề tài nầy sẽ còn
được tiếp tục, nghiên cứu sâu hơn của những ai quan tâm đến phát triển
nguồn nhân lực.
Những bài viết trên được sự góp ý và động viên của nhiều bạn bè gần xa,
đặc biết của các anh Nguyễn Xuân Xanh, Vũ Quang Việt và Hà Dương Tường
xin bày tỏ lòng biết ơn ở đây. Tuy nhiên nếu có sai sót gì thì đó thuộc
về trách nhiệm của tác giả, mong được bổ sung để hoàn chỉnh hơn.
Tháng 3/2008
(1) Đã được trích đăng ở nhiều nơi (Tuổi
Trẻ Cuối Tuần, Hồn Việt, Sài gòn Tiếp Thị, Khám phá…) tuy nhiên bản gốc
còn lưu lại trong cuốn “Những Vấn đề giáo dục hiện nay—Quan điểm & Giải
pháp” ( NXB Tri Thức) tháng 11/2007 hay trên trang website Vietsciences.
(2) đã được giới
thiệu tóm tắt trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần
(3) đã được tóm tắt
trên Báo Người lao Động (2 kỳ)
Trong phần phụ lục, chúng tôi kèm theo một bài nghiên cứu khá đặc sắc về
giáo dục dạy nghề và hướng nghiệp của Hàn Quốc và Nhật bản của các
chuyên gia, qua đó làm rõ thêm hệ thống giáo dục dạy nghề của Nhật bản
rất đa dạng và rối rắm.
Bài I
GIÁO DỤC DẠY NGHỀ Ở NHẬT BẢN
---CHÌA KHÓA ĐI VÀO HIỆN ĐẠI HÓA---
Những kinh nghiệm trong việc đào tạo kỹ thuật ở cấp giáo dục phổ cập tại
Nhật Bản
Bắt đầu từ Minh Trị Duy Tân…
 
Chiến hạm của Mỹ do đô đốc Commodore Perry
Thiên hoàng Komei (Mutsuhito)
Từ khi chiến hạm của Mỹ do đô đốc Commodore Perry dẫn đầu kéo đến cảng
Uraga thuộc Edo (Tokyo) gây sức ép
(8/7/1853), Nhật bản buộc phải mở cửa, bãi bỏ
chính sách bế quan tỏa cảng kéo dài suốt 200 năm để giao thương. Ngày
31/3/1854 sau kí kết hoà ước với Mỹ, lịch sử nước Nhật đã chuyển sang
một thời kỳ mới, đó là công cuộc cải cách Minh trị Duy Tân bắt đầu vào
năm 1868 sau khi Thiên hoàng Komei (Mutsuhito) thâu tóm quyền lực nội
trị về một mối. Với tư duy mới để cải cách toàn diện chính trị, xã hội,
giáo dục… chính quyền Minh Trị ra sức “hiện đại hóa” đất nước theo tư
tưởng “thoát Á nhập Âu”—cách hội nhập vào trào lưu của giới thống trị--
trong đó tổ chức lại xã hội, cải cách nền giáo dục khoa bảng từ chương
theo lối Khổng-Mạnh sang nền giáo dục tiên tiến lấy kinh nghiệm của Hoa
kỳ và các nước phát triển châu Âu (Đức, Pháp, Hòa Lan…) để xây dựng một
mô hình giáo dục quốc gia phù hợp với chủ trương “Khai hoá văn minh”
(Bunmei Kaika):
Đối với chúng ta, những người sống ở phương Đông, trừ khi chúng ta có
quyết tâm vững chắc muốn chống lại xu thế văn minh phương Tây. Nhưng
liệu chúng ta có thể chống đỡ được không, còn nếu không tốt nhất là
chúng ta hãy cùng chia sẻ chung số mệnh với nền văn minh ấy. Nếu quan
sát kĩ lưỡng tình hình thế giới hiện nay, sẽ nhận thấy được rằng chúng
ta không tài nào kháng cự lại được sự tấn công dữ dội của nền văn minh
nầy. Vậy tại sao chúng ta không cùng nhau bơi trên mặt biển, cùng nhau
tạo ra một làn sóng, ra sức xây dựng và hưởng thụ những thành quả của
nền văn minh ấy?” (Thoát Á Luận, 16/3/1885—Fukuzawa Yukichi)
Đến nay, Nhật Bản đã trải qua 2 lần cải cách giáo dục một cách qui mô,
chịu ảnh hưởng rất lớn của Mỹ (cố vấn nổi tiếng là hai ông David Murray
và Marion McCarrell Scott thời Minh Trị Duy Tân và đoàn tham vấn về giáo
dục của chính phủ Hoa Kỳ sau thế chiến thứ hai) trong các chính sách và
biện pháp cải cách cụ thể.
Chỉ 4 năm kể từ khi nắm quyền binh
(1868),
thống nhất đất nước, kết thúc nạn cát cứ phiên bang, năm 1872 Minh Trị
thiên hoàng (Meiji-tennō 明治天皇)
đã áp dụng chính sách “hiện đại hóa” chế độ giáo dục và
chính sự thành công của việc cải cách nầy đã tạo ra tiền đề to lớn để
cải cách toàn xã hội, hay nói khác đi Minh Trị đã dùng Giáo dục để nâng
cao dân trí thông qua việc hoàn thiện hệ thống giáo dục mới, trong đó
chủ yếu phổ cập hoá cấp tiểu học trên toàn lãnh thổ đồng thời từng bước
xây dựng giáo dục cấp 2 (cơ sở) và 3 (phổ thông) nhưng trọng tâm là ưu
tiên tổ chức trường chuyên tu, dạy nghề cho thanh thiếu niên và trung
cấp chuyên nghiệp một cách có hiệu quả (xem bảng thống kê về số trường và
các loại trường từ năm 1873-1962) lấy đó làm đòn bẩy để xây dựng một xã
hội “phương tây kiểu Nhật Bản” mới, phù hợp với xu thế phát triển và
trong lúc các cường quốc đang tranh nhau cấu xé Trung Hoa.
Hệ thống giáo dục Nhật Bản được sửa đổi liên tục trong đó vấn đề giáo dục
cưỡng bách bằng cách ưu tiên phổ cập hóa hệ thống giáo dục tiểu học (năm
1920 đạt 99% phổ cập tiểu học) lập các loại trường dạy nghề cho thanh
niên đồng thời tổ chức đào tạo qua các khoá chuyên tu (nông, công, lâm,
ngư nghiệp, thủy sản, dệt…) cấp trung học cơ sở, tạo ra những bước đi
rất cơ bản trong việc hình thành lực lượng công nhân là người gánh vác
kế hoạch phát triển chắc chắn cho việc “hiện đại hoá” (tiếng Nhật sử
dụng thuật ngữ “Cận đại hoá”) nền kinh tế và xã hội trong suốt một thế
kỷ. “Đây cũng là tiền đề của hệ thống giáo dục ngày nay, một hệ thống mà
những nhân tố cấu thành đều được đặt đúng vị trí của nó một cách minh
bạch” (Wataru Hasegawa)[1]
, trong đó vai trò cơ bản của lao động có kỹ năng
và kỹ luật đã được xác lập trong suốt quá trình công nghiệp hoá.
Mặt khác chủ trương phát triển giáo dục cấp cao làm đầu
tàu cũng đã được quan tâm,và hình thành rất sớm: đó là hệ thống đại học
và sau đại học với các “Trường Chuyên Môn”(không kể loại
trường Cao đẳng Chuyên môn dành cho học sinh học hết cấp 2)[2]
trong đó những đóng góp hữu hiệu của các chuyên gia từ các nước tiên
tiến được đánh giá rất cao, giữ vai trò trọng yếu trong chiến lược “hiện
đại hoá” nền giáo dục nói chung và công cuộc cách mạng kỹ nghệ nói riêng
của Minh Trị Duy Tân.
Mặc dù có chậm hơn nhưng chính quyền Minh Trị quan tâm xây dựng từng
bước hệ thống giáo dục đại học bắt đầu từ 6 trường đại học “hoàng gia”
(lần lượt được thành lập từ năm 1877) công lập trên cả nước (Tokyo,
Kyoto, Kyushu, Tohoku, Hokkaido, Ôsaka) và cho phép thành lập đại học tư
thục (Waseda, Keio, Doshisha…) từ các “trường chuyên môn” (dạy nghề) khi
bước vào thế kỷ 20** . Nói tóm lại, trước nguy cơ đe doạ bị các cường
quốc phương tây “thuộc địa hóa” vào hậu bán thế kỷ 19, biện pháp “thông
minh” của Minh Trị Thiên hoàng là chọn con đường “hội nhập” để ứng phó,
tách mình ra khỏi ảnh hưởng cũng như số phận như Trung Quốc và Triều
Tiên, cướp thời cơ mở cửa với các liệt cường phương tây để nhanh chóng
đưa Nhật bản phát triển thành một cường quốc ngang ngửa trên vũ đài quốc
tế như chúng ta đã thấy qua hai cuộc chiến tranh Nhật –Thanh(1894) và
chiến tranh Nhật-Nga (1905) trong chiến lược “Phú quốc Cường binh” kéo
dài cho đến hai trận thế chiến I(1914-1918) và II (1939-1945) bùng nổ
sau nầy!
Với tư tưởng và chủ trương đầy tham vọng nêu trên, ngay từ đầu Nhà nước
Minh Trị đã “quản lý” chặt chẽ, theo sát mọi chính sách và biện pháp cải
cách giáo dục (với mục đích nhanh chóng sản sinh ra một lớp công nhân có
tay nghề thích hợp và cần thiết cho phát triển với một tinh thần “trách
nhiệm” trong thái độ lao động triệt để mà chúng ta đã thấy qua những
thành công to lớn và cơ bản trong việc quản lý chất lượng hàng hóa trong
sản xuất sau nầy) đưa Nhật Bản từ vị trí một nước nông nghiệp, lạc hậu
về kỹ thuật từ cuối thế kỷ 19 sang thành một nước có nền công nghiệp
phát triển rực rỡ từ những năm 60 của thế kỷ trước mặc dù là kẻ bại trận
liên tiếp trong hai cuộc chiến tranh thế giới, phải tháo bỏ chế độ quân
phiệt và trả lại những “tô giới” ở Triều Tiên, Trung quốc, Đài loan và
căn cứ quân sự và chế độ thực dân tại các nước Đông nam Á.
Có người cho rằng hệ thống giáo dục của Nhật Bản thời Minh Trị mô phỏng
theo hệ thống quản lý giáo dục của Pháp khi nghiên cứu “Trường Chuyên
Môn” (như là những Grandes Ecoles ở Pháp) tiền thân của hệ thống đại học
sau này. Nhưng khi xét về phần “Tư thục” thì có ý kiến mạnh mẽ kết luận
rằng Nhật bản chịu nhiều ảnh hưởng của Mỹ khi nhìn vào sự thành công rực
rỡ của quá trình hình thành hệ thống Trường tư thục qua mô hình “Lan
học” (1858) đầu tiên theo giáo dục phương tây (người Nhật gọi là “Lan
học” tức học theo Hoà Lan thay vì gọi là Tây học như ở VN) sau này phát
triển thành Đại Học Keio (1920) do Fukuzawa Yukichi (1835-1901), một nhà
tư tưởng và giáo dục nổi tiếng khởi xướng và sáng lập với sự hợp tác
chặt chẽ của Hoa Kỳ.
Thực tế cho thấy vào cuối hậu bán thế kỷ 19 đã có nhiều đoàn chuyên gia
cấp cao của Nhật Bản, tổng cộng 48 người ( đặc biệt là Iwakura Tomomi ,
đại sứ từng làm việc ở Mỹ 1860, Châu Âu lần 1 vào năm 1862 và lần 2 vào
năm 1863) lặn lội đi các nước từ Mỹ sang Châu Âu từ tháng 12/1871 đến
tháng 9/1872 để tìm kiếm phương cách đổi mới qua việc học tập kinh
nghiệm của Mỹ về Y khoa, Luật (tuy có phần lạc hậu so với Châu âu), kỹ
thuật quân sự; sang Châu âu để học Công nghiệp và Giáo dục kỹ thuật của
nước Anh, Y tế của Hòa Lan, tổ chức chính quyền theo kiểu Đức… Trong số
nầy có người đã trở thành thủ tướng, bộ trưởng quan trọng sau nầy của
chính quyền Minh trị như Ito Hirobumi, Okubo Toshimichi, Kido Takayoshi…
cho nên kết luận rằng Nhật Bản hấp thu kinh nghiệm của nhiều nước Âu-Mỹ
để xây dựng cho mình một chế độ giáo dục hiện đại là điều không thể chối
cãi (Wataru Hasegawa)*. Tuy nhiên cũng phải khách quan thừa nhận rằng
Nhật bản đã dần dà hình thành một nền giáo dục tiên tiến cho bản thân
mình trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống kết hợp với những tư
tưởng tiên tiến của nước ngoài (thời bấy giờ) một cách hiệu quả nhất
trong đó vai trò lãnh đạo tuyệt đối và cương quyết của chính quyền Minh
Trị đã trở thành nhân tố quyết định dẫn đến thành công trong công cuộc
cải cách. Vì vậy hai chữ “thoát Á” của Fukuzawa Yukichi hàm ý nghĩa là
Nhật bản phải rời bỏ tư tưởng hủ lậu và lỗi thời của triết học phương
đông, mặc cho mình chiếc áo mới tây phương phù hợp với thời đại của cuộc
cách mạng kỹ nghệ, rằng “chúng ta không những có thể thoát ra khỏi sự
trì trệ lạc hậu cũ kĩ của nước Nhật Bản mà còn có thể đặt lại được một
trật tự mới trên toàn châu Á” (Fukuzawa Yukichi), vẫn giữ những giá trị
văn hóa truyền thống, tôn thờ nhà vua, lễ giáo phong kiến… thể hiện qua
cách ứng phó nhạy bén và mềm dẻo (flexible) của người Nhật trong việc
“đón” tết theo lịch tây phương nhưng “ăn” tết theo kiểu đông phương là
một thí dụ điển hình cho thấy sự thức thời nầy hay sự tồn tại và phát
triển của những lễ hội truyền thống là vì thế, không mang màu sắc lai
căng hay nửa vời trong cải cách .
Điều đáng lưu ý là trước khi “Chế độ Giáo dục” mới chính thức được ban
hành vào năm 1872 thì ngay từ khi bắt tay soạn thảo những năm trước đó,
Chính phủ đã lập ra một hội đồng gồm 7 học giả “tây học”, 2 người theo
Hán học và Quốc học, 3 cán bộ hành chính(cũng là nhà giáo theo Tây học)
trong đó Ủy viên xuất thân học từ Pháp chiếm vị trí quan trọng hơn cả
(ngoài ra còn có các vị học từ Đức, Anh, Hòa Lan cũng có ảnh hưởng không
nhỏ). Thực tế nầy chứng tỏ ngay từ đầu Nhà nước Minh trị đã vận dụng mọi
khả năng để tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến của các nước một cách
cương quyết, buộc các tầng lớp trong xã hội, sĩ nông công thương, nam nữ
đều phải đi học (tiểu học), hủy bỏ chế độ ưu tiên cho tầng lớp quí tộc
.[3] Như vậy, có thể nói sự bình đẳng trong
giáo dục ở Nhật bản đã được xác lập rất sớm, mặc dù chính quyền đương
thời lúc đầu qui định học phí là người thụ hưởng (phụ huynh) phải thanh
toán, nhà nước chỉ chịu phần chi phí cho những chương trình giáo dục dạy
nghề công trong học trình. Mặt khác, đây cũng là lần đầu tiên khái niệm
về “trường chuyên môn”(dạy nghề) xuất hiện khi bộ luật nầy được bổ sung
vào năm sau (1873).
Cải cách giáo dục lần thứ nhất
Ngày 11 tháng 2 năm 1889 “Hiến Pháp Đế chế Đại Nhật Bản” đầu tiên được
ban hành (năm Minh Trị thứ 22) xác nhận quyền “tham chính” (được quyền
tham gia vào quốc hội, bầu cử, ứng cử…) của nhân dân trong chế độ tam
quyền phân lập (hành pháp, lập pháp và tư pháp) mặc dù đặt Thiên Hoàng
Minh Trị ở vị trí tuyệt đối, mang tư cách của “thần” trong Thần đạo, có
quyền ban bố những sắc lệnh hay mệnh lệnh bất chấp luật pháp hiện hành,
bắt đầu cho những chính sách độc đoán đưa đến chủ nghĩa phát xít cực
đoan sau nầy.
Mặt khác, với chính sách “Gầy dựng công nghiệp” thực hiện trong 20 năm
kể từ khi “duy tân”, Nhật bản đã hội đủ điều kiện để nhảy vào cuộc cách
mạng kỹ nghệ vào năm 1890. Bộ trưởng Giáo dục Inoue Kowashi đã đẩy mạnh
giáo dục-dạy nghề công nghiệp, đưa ra chương trình giáo dục “Thực
nghiệp-kỹ thuật và khoa học kết hợp” với sự tham gia giảng dạy của nhiều
chuyên gia nước ngoài, thích ứng với phát triển của cuộc cách mạng đang
xảy ra như vũ bảo không những ở Nhật bản mà trên toàn thế giới vào những
năm cuối thể kỷ 19. Hàng loạt trường Chuyên Môn, trường giáo dục Thực
nghiệp, loại trường là loại trường dạy nghề sau khi tốt nghiệp tiểu học. Ngoài ra còn có trường Thanh niên (đào tạo nghề ngắn hạn) đã ra đời
năm 1899, từ con số trăm trong những năm 1870 đã vọt lên con số hàng
chục nghìn khắp cả nước trong suốt một thời kỳ dài từ 1903-1947 khi Lệnh
lập “Trường Chuyên Môn” ban hành năm 1903, theo đó tùy vào từng địa
phương để linh hoạt xây dựng trường đào tạo ngành nghề phù hợp tương
ứng, trong đó trường dạy nghề tư thục cũng có điều kiện phát triển không
kém, thậm chí có nơi trường dạy nghề do người nước ngoài xây dựng cũng
đã trở nên phổ biến, lấn át cả hệ thống đào tạo nghề công lập với tỷ lệ
công-tư 4/6 hay 3/7.
Cải cách giáo dục lần 2
Tình trạng nầy kéo dài đến năm 1947 thì bãi bỏ. Nhật Bản thực hiện cải
cách giáo dục lần thứ hai dưới dự kiếm soát của G.H.Q (Tổng hành dinh
chỉ huy quân đội đồng minh, do tướng Douglas Mac Arthur của Mỹ làm tư lệnh) sau
khi Hiến pháp “dân chủ” mới, loại bỏ quyền lực tuyệt đối của Thiên
Hoàng, được ban hành vào ngày 3/11/1946. Theo đó qui định áp dụng chế độ
giáo dục cưỡng bách 9 năm tại Nhật bản, nâng cấp khả năng đào tạo của
những cơ sở dạy nghề cũng như hoàn thiện hệ thống giáo dục đại học theo
khuyến cáo của phía Hoa kỳ. Từ thời điểm nầy, chúng ta thấy con số thống
kê về trường trung học cơ sở (cấp 2) hay trung học phổ thông (cấp 3)
tăng nhanh một cách đáng kể. Các trường “chuyên môn” thời quân phiệt
trước đây bị huỷ bỏ thay thế bằng trường “dạy nghề” hoặc được nâng cấp
trở thành những trường đại học mới lập.
Năm 1961, Nhật Bản thay đổi qui định hệ thống giáo dục dạy nghề trong
Luật giáo dục, cho phép lập “Trường Cao đẳng Chuyên nghiệp” với học
trình 5 năm (gồm 3 năm trung học phổ thông và 2 năm chuyên tu) cùng tồn
tại song song với trường dạy nghề đã có. Năm 1975, để đáp ứng yêu cầu
nhân lực bổ sung cho hệ thống “đại học ngắn hạn”(2-3 năm) hay hệ thống
đại học chính qui với học trình 4 năm mà không mấy hiệu quả phản ánh qua
tỷ lệ tìm được việc làm khó khăn, Bộ Giáo dục Nhật Bản cho phép thành
lập Trường “chuyên tu kỹ thuật” gọn nhẹ và tập trung đào tạo cán sự kỹ
thuật. Mục đích để giảm bớt sức ép trong việc tranh nhau thi vào cửa hẹp
của đại học do nhân khẩu trưởng thành tăng đột biến (“baby boom” sau thế
chiến thứ hai), tạo cơ hội cho những học sinh bị đánh rớt trong kỳ thi
tuyển chọn vào đại học, hướng họ vào trường dạy nghề cụ thể với thời
gian ngắn hơn.
Như vậy, có thể hiểu, trước khi nền kinh tế tri thức được xác lập vào
những năm cuối thập kỷ 1990, học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở (cưỡng
bách) có thể vào đi vào học trường “Cao đẳng chuyên nghiệp”, trong khi
học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông (cấp 3) có thể theo học “Chuyên
tu kỹ thuật” với khả năng tìm được việc làm dễ dàng hơn vì có nghề và kỹ
năng hơn người có trình độ 4 năm ở đại học hay đại học “ngắn hạn” 2,3
năm (Tanki Daigaku với giáo trình chung chung không hiệu quả, chủ yếu là
lớp học ban đêm hay lớp dành cho phụ nữ với môn Nữ công gia chánh, giáo
viên tiểu học, máy móc cơ khí đơn giản…).
Tỷ lệ học sinh phổ thông và học sinh học nghề (1937-1952)
Tỷ lệ học sinh phổ thông và học
sinh học nghề (1937-1952)

Nhận xét: Sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở tỷ lệ học sinh học nghề
chiếm 33-35% trong khi phổ thông chiếm 63-67% và khuynh hướng tỷ lệ học
nghề trên 30% kéo dài cho đến 1980 mới bắt đầu giảm dần.
Đây là điểm đáng tham khảo, cho thấy không phải tốt nghiệp đại học là
tìm ngay được việc làm, trừ một số ngành đặc biệt, đang hiếm như Dịch
thuật, Thương mại, CNTT, Ngân hàng…là những ngành nghề có mức tăng
trưởng cao trong thời kỳ kinh tế phát triển. Báo cáo năm 2006 của OECD
về Giáo dục nhận xét Nhật Bản là nước đứng đầu trong các nước nhóm nầy
về đào tạo cấp giáo dục phổ cập cả về số lượng lẫn chất lượng. 89% học
sinh Nam (bình quân của OECD là 82%) và 60% nữ (OECD là 65%) tốt nghiệp
trung học phổ thông đều có việc làm, trong khi số nam học sinh tốt
nghiệp trung học cơ sở (cưỡng bách) thì 79% có việc làm ngay và nữ là
53% (vẫn cao hơn bình quân của OECD) trong trường hợp không đi học tiếp
lên cấp 3.[4]
Điều này cho thấy nhu cầu về lao động có trình độ cấp 3 vẫn cao hơn cấp
2 vào thời kì phát triển, và càng về sau càng đòi hỏi lao động có trình
độ cao hơn, khác hẳn với thời kỳ 1955-1960 (xem thêm Tài liệu tham khảo
đính kèm: Nhu Cầu…). Phản ánh nhu cầu của nền kinh tế tri thức ở giai
đoạn Nhật bản bước vào thời kỳ quốc tế hoá và đa quốc tịch hoá nền công
nghiệp trong nước qua việc tăng gia đầu tư ra nước ngoài (xuất khẩu tư
bản kỹ thuật) hay chuyển dịch cơ sở sản xuất sang các nước. (Tham khảo
các bảng thống kê và biểu đồ thuộc chương nầy—kết quả cải cách lần 2).
Hiện tượng nầy khá giống với tình hình khan hiếm lao động có kỹ năng
hiện nay ở Việt Nam, nhiều em sinh viên khoa cơ khí, hoá chất, vật liệu…
ra trường Bách Khoa nổi tiếng nhưng không kiếm được việc làm phải chuyển
nghề, đi học lại hay thất nghiệp kéo dài vì thiếu kỹ năng cụ thể. Thậm
chí có em học một lúc hai ba ngành tại đại học khác nhau nhưng chỉ có
những mảnh bằng trên giấy!
Khái quát về hệ thống giáo dục tại Nhật Bản

Chú thích bổ sung bảng 1:
Trong mục các loại trường kỹ thuật, có loại đào tạo sau:
§
Loại chỉ đào tạo trong 3 năm cho các em tốt nghiệp
Trung học cơ sở (gọi là Trung học Kỹ thuật hay Trung học Chuyên
nghiệp, kết hợp giữa giáo dục phổ cập và dạy nghề) và
§
Loại 5 năm (THKT + 2 năm) gọi là Cao đẳng kỹ thuật),
khác với trường Cao Đẳng ở Việt Nam, chỉ mở cho học sinh sau THPT mà
thôi.
§
Trường đào tạo chuyên ngành như y tế
cộng đồng, y tá, dược tá, chăm sóc người già…của nhà nước (2-3 năm
theo yêu cầu của bộ môn)
§
Trường chuyên tu (tư nhân) là những cơ
sở dạy nghề cụ thể như Hớt tóc, Cắm hoa, dạy tiếng nước ngoài, thư
đạo, văn hóa đời sống, đầu bếp…Thường là 1-2 năm , nằm ngoài hệ thống
đào tạo của giáo dục của nhà nước.
§
Ngoài ra còn có Trung tâm Huấn luyện Nghề (của
quận huyện thành phố…) công lập là cơ sở đào tạo nghề mới(hoàn toàn
miễn phí) cho những người muốn đổi nghề, về hưu…không giới hạn tuổi
tác để giải quyết tình trạng thất nghiệp (xóa đói giảm nghèo như ở
Việt nam)
Trong những năm gần đây, những thành tựu rực rỡ về công nghiệp và giáo
dục của Nhật Bản đã gây được nhiều sự chú ý trên thế giới. Mặc dù có
nhiều sự quan tâm dành cho nền công nghiệp và giáo dục , nhưng vẫn còn
rất ít những nghiên cứu có liên quan về việc đào tạo kỹ thuật cấp giáo
dục phổ cập tại Nhật Bản. Vì vậy ngoài phần miêu tả lịch sử dạy nghề
hình thành trong thời kỳ Minh Trị Duy Tân, tiếp theo đây là nêu rõ tình
trạng hiện nay và những thách thức trong tương lai của việc đào tạo kỹ
thuật ở Nhật Bản. Sỡ dĩ như vậy là vì chúng có mối quan hệ rất khắng
khít, các vấn đề về đào tạo kỹ thuật ở trường cấp 2 cơ sở, Môn Kỹ
thuật và đào tạo nghề kỹ thuật ở trường phổ thông trung học và sau
trung học,
Môn Giáo dục dạy nghề đều được đề cập trong bài nghiên cứu này.
Như trên đã nói, cấu trúc của hệ thống giáo dục công tại Nhật bản được
dựa theo mô hình của hệ thống giáo dục Hoa Kỳ được thông qua sau Thế
Chiến II. Bảng 1 cho thấy các loại trường chủ yếu được duy trì một cách
rõ rệt. Cơ sở của hệ thống giáo dục Nhật Bản hiện đại chủ yếu là giáo
dục phổ cập 9 năm thuộc giáo dục cưỡng bách. Chế độ cưỡng bách giáo dục
với 9 năm bao nầy gồm trong hệ thống giáo dục phổ cập là 6 năm tại
trường tiểu học và 3 năm tại trường trung học cơ sở (cấp 2). Trên thực
tế, tất cả (gần 100%) học sinh Nhật Bản hoàn tất chương trình giáo dục
phổ cập (cưỡng bách) này. Sau khi tốt nghiệp cấp 2, khoảng 95% học sinh
tiếp tục lên cấp 3 phổ thông hoặc vào trường Cao đẳng chuyên nghiệp.
Trong số đó, khoảng dưới 2% học sinh bỏ học trước khi tốt nghiệp. (Bộ
giáo dục, khoa học và văn hoá, 1991).
Tỷ lệ người biết chữ cao nhất trên thế giới có thể xem là một thành tựu
đáng nể của nền giáo dục từ Thế Chiến II, số người Nhật trẻ tuổi gia
nhập vào lực lượng lao động với trình độ văn hoá cao hơn nhiều so với
trước đây. So với con số vào năm 1950, 45.2% học sinh Nhật tốt nghiệp
cấp 2 bắt đầu đi làm việc ở độ tuổi 15 sau khi hoàn tất chương trình
giáo dục cưỡng bách, trong khi 43% học sinh tiếp tục vào trung học phổ
thông thì nay đã vượt đến mức 95-97% . Cũng bởi lý do đó, lực lượng lao
động Nhật Bản trong ba thập kỷ 1960-1980 là một sự pha trộn giữa những
người lao động lớn tuổi với trình độ văn hoá thấp nhưng tay nghề cao,
ngày càng giảm dần và những người lao động trẻ tuổi với trình độ văn hóa
cao hơn nhưng ngược lại tay nghề kém phải “đào tạo lại” sau khi được thu
nhận vào xí nghiệp.
Chương trình giảng dạy trong thời kỳ chuyển tiếp
Không giống như Hoa Kỳ, Nhật Bản có hệ thống giáo dục công lập mạnh mẽ,
chiếm đa số tuyệt đối, hơn 95%-98% ở cấp tiểu học và phổ thông cơ sở là
thuộc nhà nước quản lý . Mọi chương trình giảng dạy cho bậc tiểu học,
cấp 2 cơ sở và phổ thông trung học được ban hành và quản lý chặt chẽ bởi
Bộ giáo dục. Cứ khoảng 10 năm, Bộ giáo dục lại ban hành giáo trình và
sách giáo khoa theo tiêu chuẩn mới, với nội dung chi tiết hướng dẫn được
viết ra cụ thể cho mỗi môn học tại trường tiểu học và các trường cấp 2
để hướng dẫn cho giáo viên. Những đề nghị cho việc chỉnh sửa các chương
trình giảng dạy và sách giáo khoa được đề ra bởi các hội đồng chuyên môn
khác nhau bao gồm các chuyên gia về giáo trình, giáo sư tại các trường
đại học, giáo viên, thành viên của các ban ngành giáo dục tại địa phương
và những bậc thức giả có kinh nghiệm khác trong xã hội.
Tương tự như vậy, những cải tiến chương trình đào tạo kỹ thuật tại Nhật
Bản sau Thế Chiến II có thể được xem xét dưới bối cảnh của 5 giai đoạn
theo lộ trình phát triển kinh tế:
1-Thời kỳ tái thiết(1950-1960)
2-Thời kỳ phát triển tốc độ cao(1960-1974)
3-Thời kỳ kinh tế ổn định(1975-1979)
4-Thời kỳ quốc tế hoá nền kinh tế(1980-1995)
5-Thời kỳ “Kinh tế tri thức”(1995-thế kỷ 21)
Bảng 2. dưới đây cho thấy các điều kiện kinh tế-xã hội với đặc tính của
từng thời kỳ, và tỷ lệ phần trăm tốt nghiệp phổ thông trung học và số
người đi học cấp cao hơn.
Việc xây dựng môn giáo dục dạy nghề kỹ thuật như là một môn bắt buộc
Chính sách tích cực đối với giáo dục đào tạo nghề tại Nhật Bản có một
quá trình lịch sử lâu dài. Trong bài diễn văn ở Hạ Viện vào năm 1894, Bộ
trưởng bộ Giáo dục Nhật Bản phát biểu:
“Chúng ta có thể thấy rất rõ ràng là cuộc chạy đua trên thế giới chủ yếu
là phát triển công nghiệp chứ không phải là quân sự. Nền khoa học của
chúng ta đã phát triển một cách thoả đáng, thế nhưng việc đào tạo về kỹ
thuật thì vẫn còn ở mức độ thấp. Tình trạng này cũng giống như quân đội
có đầy đủ các chiến thuật tốt nhưng lại không đủ binh lực chiến đấu.
(Passin, 1982, p.97).
Việc Bộ trưởng Giáo dục Nhật Bản gợi lại hình ảnh của quân đội dựa theo
bối cảnh của cuộc chiến tranh Nhật-Thanh hay Nhật-Nga xưa kia với ngụ ý
rằng Nhật Bản ngày nay không còn chạy theo chính sách “Phú quốc cường
binh”. Sau khi chiến tranh Nhật-Nga xảy ra (1905), Bộ luật giáo dục dạy
nghề quốc gia đầu tiên ra đời, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong vấn đề
đạo tạo nguồn lao động có kỹ năng như đã đề cập ở trên. Từ năm 1899, các
ngành nông nghiệp, thuỷ sản, rừng và các chương trình công nghiệp được
chính thức đưa vào chương trình trung học cấp 2. Tuy có thay đổi về chủ
trương giáo dục sau thế chiến với những khuyến cáo của phía Mỹ nhưng
việc dạy nghề trong nhà trường vẫn được tiếp tục xác lập trở lại từ năm
1958. Giáo dục hướng nghiệp ở cấp phổ cập với nội dung được tóm tắt như
sau:
Bảng 2. Phát triển kinh tế xã hội và đào tạo dạy nghề
(1950-1990)

*Nguồn: Bộ Giáo dục, Khoa học và văn hóa. 1991
Từ năm 1958, giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề đã được đưa vào cả những
trường phổ thông trung học phổ thông và lẫn trường cấp 2 có dạy nghề .
Mặc dù khái niệm hướng nghiệp trong trường trung học phổ cập hỗn hợp
(vừa dạy chữ vừa dạy nghề) là một trong những mục tiêu của cải cách giáo
dục dạy nghề ở Hoa Kỳ, nhưng nó chưa bao giờ trở thành mẫu hình chiếm ưu
thế tại Nhật Bản. Khoảng hơn phân nửa các trường phổ thông trung học tại
Nhật Bản chỉ cung cấp các chương trình lý thuyết, phần trường còn lại
chia đều ra 2 loại: trường hỗn hợp (vừa dạy chữ vừa dạy nghề) và trường
dạy nghề (phỏng theo mô hành của Bộ Giáo dục Hoa Kỳ, 1987). Nói một cách
khác, hầu hết các trường phổ thông trung học tại Nhật Bản cung cấp các
chương trình lý thuyết nhằm chuẩn bị cho học sinh bước lên bậc học cao
hơn mà không có các khoá học hướng nghiệp hay dạy nghề cụ thể. Vì thế,
hầu hết các học sinh Nhật Bản tham gia vào các khoá học hướng nghiệp dạy
nghề cụ thể đều phải theo học thêm một số môn của các trường dạy nghề
như Cao đẳng chuyên nghiệp Kỹ thuật hay trường Chuyên tu. Thí dụ trong
năm học 1990, có khoảng 26% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào
các trường học hướng nghiệp, dạy nghề tức khoảng ¼ số học sinh rời ghế
nhà trường phổ thông để đi vào trường Cao đẳng Chuyên nghiệp kỹ thuật
(hoặc Chuyên tu) và tỷ lệ nầy có khuynh hướng tăng lên 30% vào những năm
kế tiếp.
Theo Bảng 2. trong suốt thời kỳ tái thiết kinh tế, khoảng phân nửa học
sinh cấp 2 (phổ thông cơ sở) bắt đầu ra xã hội làm việc ngay sau khi tốt
nghiệp. Ở giai đoạn nầy, môn học giáo dục hướng nghiệp-dạy nghề là một
trong những môn học bắt buộc đối với tất cả học sinh nam và học sinh nữ
tại các trường cấp 2 cơ sở, bao gồm các môn học liên quan đến nông
nghiệp, công nghiệp, thương mại và kinh tế gia đình. Chương trình giảng
dạy đa dạng tuỳ theo qui mô của trường và phụ thuộc vào từng địa phương.
Một trong những mục tiêu của giáo dục hướng nghiệp dạy nghề là đào tạo
tay nghề thông qua học tập (lý thuyết) từ những kinh nghiệm thực tế.
Việc đưa vào bộ môn đào tạo kỹ thuật
Sự kiện Liên xô phóng thành công vệ tinh “Sputnik” vào quỹ đạo, đánh dấu
bước ngoặt về khoa học-kỹ thuật của loài người trong việc chinh phục
không gian, cũng giống như các quốc gia khác trên thế giới, Nhật Bản đã
ý thức được tầm quan trọng của việc đẩy mạnh sự phát triển các chương
trình giáo dục khoa học và kỹ thuật. Một trong những chính sách được
chính phủ Nhật Bản áp dụng vào cuối năm 1957 là việc đưa Môn kỹ thuật
thành một môn bắt buộc tại tất cả các trường cấp 2 cơ sở bắt đầu vào năm
1958 .[5]
. Với việc đưa chương trình đào tạo kỹ thuật vào các trường cấp
2 cơ sở, môn giáo dục hướng nghiệp dạy nghề đã có trước đây được chuyển
sang các trường phổ thông trung học (cấp 3) như là một môn học tự chọn.
Vào năm 1958, các mục tiêu chủ yếu của môn đào tạo kỹ thuật ở trường cấp
2 cơ sở nhằm giúp học sinh nắm các kỹ năng cơ bản thông qua kinh nghiệm
sáng tạo/sản xuất , am hiểu công nghệ hiện đại, và thúc đẩy những hiểu
biết và thái độ cần thiết để ứng dụng:
• thông qua kinh nghiệm về thiết kế và thực hành, nuôi dưỡng các kỹ năng
thuyết trình, sáng tạo, và những thái độ hợp lý trong khi giải quyết sự
việc.
• thông qua kinh nghiệm sản xuất/điều hành máy móc/thiết bị, giúp học
sinh hiểu mối quan hệ mật thiết giữa công nghệ và cuộc sống, và nuôi
dưỡng mối quan tâm phát triển công nghệ và ứng dụng trong cuộc sống hàng
ngày. Nội dung chủ yếu bao gồm thiết kế và đồ hoạ; chế biến gỗ và nghề
kim loại; máy móc, điện tử, và chăn nuôi trồng trọt… Chương trình đào
tạo công nghệ được phân phối với tổng số 105 giờ trong mỗi cấp lớp ở
trường cấp 2 cơ sở.
Vào năm 1960, chính phủ Nhật Bản bắt đầu nhân đôi số lượng các trường
trung học kỹ thuật. Trong suốt thời kỳ này, các trường trung học kỹ
thuật 5 năm(gọi là trường Cao đẳng Chuyên nghiệp) dành cho học sinh tốt
nghiệp cấp 2 cơ sở được thành lập bởi Bộ Giáo dục
[6]. Nhằm đáp ứng tình
trạng thiếu hụt giáo viên môn kỹ thuật có tay nghề, Trường cao đẳng sư
phạm kỹ thuật 3 năm cũng đã được thành lập để bổ sung.
Tất cả các chính sách này đều liên quan đến “Chương trình nhân đôi thu
nhập quốc gia” nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản. Vào
khoảng đầu thời kỳ này, Bộ Giáo dục đã gửi chuyên gia phụ trách chương
trình đào tạo và giảng dạy trong lĩnh vực giáo dục kỹ thuật đến Hoa Kỳ
nhằm thu thập thông tin và kinh nghiệm về các môn học liên quan đến kỹ
thuật
[7] để xây dựng chương trình đào tạo giáo
viên dạy nghề, kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu thiếu hụt giáo viên dạy ở
những trường Cao đẳng Chuyên nghiệp trầm trọng.
Các trường cao đẳng này được liên kết với Khoa Kỹ thuật công nghệ tại
các trường đại học công lập Nhật Bản. Trong suốt những năm 1960, mỗi
trường cao đẳng đào tạo nghề này thu nhận khoảng 900 sinh viên/ năm và
chỉ sau 3 năm đào tạo bổ sung, lực lượng giáo viên dạy nghề sẽ tăng thêm
một cách nhanh chóng từ 15,000-20,000 người nếu nhìn trên qui mô cả nước
với hàng trăm cơ sở đào tạo sư phạm dạy nghề liên thông.
Đưa vào các môn học cơ sở và cơ hội bình đẳng trong giáo dục
Trong suốt thời kỳ phát triển tăng tốc về kinh tế, tỷ lệ phần trăm học
sinh Nhật Bản tiếp tục vào trường trung học phổ thông và các cấp học cao
hơn tiếp tục tăng mạnh. Tuy nhiên, kiến thức và kỹ năng cần có tại nơi
làm việc lại thay đổi một cách sâu sắc. Trong các lĩnh vực liên quan đến
kỹ thuật, các nhà tuyển dụng mong muốn nhân viên của họ có khả năng linh
hoạt và khả năng có thể tiếp tục đào tạo cao hơn. Trong suốt thời kỳ
này, Bộ Giáo dục đưa các môn học cơ sở như cơ học, đồ họa,toán trung
cấp… vào các khoá học dạy nghề kỹ thuật và đồng thời cũng đưa vào các
khoá học tổng quát các hoạt động về kỹ năng và kinh nghiệm làm việc như
quản lý chất lượng, kế hoạch, kỹ thuật thống kê kho tàng…vào trường Cao
đẳng chuyên nghiệp.
Mặt khác, các vấn đề liên quan đến cơ hội bình đẳng “giới” trong giáo
dục trung học trở nên cấp thiết. Trong thời kì nầy, tất cả học sinh nam
tham gia vào các lớp đào tạo kỹ thuật trong khi tất cả học sinh nữ tham
gia vào các lớp kinh tế gia đình. Nhằm mang đến cơ hội học tập công bằng
như nhau, đầu năm 1977, Bộ Giáo dục yêu cầu tất cả học sinh nam tham gia
vào ít nhất 1 lớp kinh tế gia đình và tất cả học sinh nữ tham gia vào ít
nhất 1 lớp đào tạo kỹ thuật. Ở các trường phổ thông trung học, học sinh
theo học chương trình hướng nghiệp dạy nghề kỹ thuật bắt buộc phải học
các môn cơ sở như “Cơ sở kỹ thuật”, “Toán kỹ thuật”, và “Thực hành”. Mục
đích của những môn học này là nhằm tăng cường kiến thức và kỹ năng cơ
bản của học sinh, cũng như sử dụng tài liệu và phương pháp giảng dạy mới
và cập nhật trong giáo trình
[8]. Đồng thời
môn học về các kỹ năng và kinh nghiệm làm việc được đưa vào các khoá học
tổng quát cho tất cả học sinh các cấp phổ cập .
5/ Việc đưa môn “Cơ bản của Công nghệ thông tin” vào trường cấp 2 và “Dự án
nghiên cứu độc lập” vào trường phổ thông trung học.
Để đáp ứng những sự thay đổi tại nơi làm việc và ngoài xã hội, Bộ Giáo
dục đã khởi xướng một vài thay đổi vào cuối những năm 1980. Một trong
những thay đổi chủ yếu là đưa một môn học lý thuyết máy tính mới vào
chương trình giáo dục kỹ thuật tại trường cấp 2(không phải cấp 1 như ở
VN). Mục tiêu chính của môn học mới này là nhằm giúp học sinh hiểu được
vai trò và chức năng của máy tính, và phát triển năng lực sử dụng máy
tính và thông tin. Nội dung chủ yếu bao gồm máy tính và xã hội, phần
cứng máy tính, và các ứng dụng phần mềm máy tính.
Ở cấp 2, dù môn tin học không phải là một trong bốn môn học bắt buộc
(chế biến gỗ, điện tử, thực phẩm, đời sống gia đình) nhưng nó là một
trong những môn được các em chọn nhiều nhất. Theo kết quả một nghiên cứu
của Bộ Giáo dục (1991), có 76% sinh viên muốn học lớp tin học mới này.
Đối với cấp Phổ thông trung học, Bộ Giáo dục đã điều chỉnh lại các lớp
kỹ thuật để khuyến khích phát triển các kỹ năng cơ bản và sự linh động
trong ứng dụng. Trong các môn học cơ bản, Bộ Giáo dục khuyến khích sử
dụng máy vi tính cho bộ môn khoa học và toán học. Tất cả các sinh viên
học nghề đều phải học một môn công nghệ thông tin có liên quan đến
chuyên ngành của họ như xử lý thông tin nông nghiệp và xử lý thông tin
kinh tế gia đình. Một trong những nội dung chấn chỉnh quan trọng nhất
của các lớp kỹ thuật ở cấp phổ thông trung học là phần giới thiệu các
lớp giải quyết vấn đề phức hợp như “cơ điện tử”, “ứng dụng cơ điện tử”
và nghiên cứu dự án độc lập/ bắt buộc.
Mục tiêu chính yếu của lớp cơ điện tử mới là để nâng cao hiểu biết về
các kiến thức và kỹ năng cơ bản về cơ điện tử (cơ học và điện tử). Bảng
2 trình bày các công cụ và máy móc cơ bản, máy cảm biến, máy chuyển A/D,
mạch logic, thiết bị truyền động, cơ học và dụng cụ dẫn lực.
Bảng 3
Các thí dụ về Nội dung một khóa học cấp quốc gia
Mục tiêu |
Nội dung |
Cơ học:
đạt được các kiến thức và kỹ năng cơ bản về cơ học, đào tạo kỹ năng ứng
dụng vào thực tiễn. |
1) Sự kết hợp cơ học và điện
tử trong các máy móc và dụng cụ.
2) Các nguyên lý và đặc điểm
của thiết bị cảm biến 3) Thiết bị cảm biến và máy vi tính; đổi tương tự;
mạch logic, tín hiệu.
4) Đặc điểm và các dạng cơ
cấu truyền động.
5) Điều khiển cơ cấu truyền
động.
6) Cơ học và dụng cụ dẫn
lực. |
Nói chung, tại Nhật đã có xu hướng ngày càng nghiêng về đào tạo kỹ thuật
và đào tạo nghề ở cấp Trung học phổ thông trở lên. Tuy nhiên, phương
pháp rộng và kém “tập trung vào một môn cụ thể” có thể chỉ đem lại kết
quả là kinh nghiệm giáo dục dàn trãi nông cạn. Mục đích cơ bản của
nghiên cứu dự án độc lập là làm cho học sinhhiểu sâu hơn và kết hợp các
kíên thức và kỹ năng thông qua việc làm quen với nghiên cứu các phương
pháp giải quyết vấn đề và các dự án công nghiệp. Các nội dung chính bao
gồm thiết kế, sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm, nghiên cứu thực tiễn nơi
làm việc, các chứng chỉ nghề hoặc bằng cấp chuyên ngành. Những ví dụ về
các dự án bao gồm thíêt kế và sản xuất robot và các mô hình điều khiển
từ xa .[9]
6/ Các phương pháp đào tạo kỹ thuật
Ngay từ đầu, phương pháp giảng dạy kỹ thuật của Nhật theo thực nghiệm,
dựa trên phương pháp luận của việc lập trình. Các lớp kỹ thuật thường
được chia ra thành lớp lý thuyết và lớp thực hành. Các lớp thực hành
(thí nghiệm) thường có ít sinh viên hơn các lớp lý thuyết. Trung bình
mỗi lớp học gồm 40 học viên. Gần đây, các hoạt động mới của lập trình
đang cố gắng kết hợp các lĩnh vực kỹ thuật khác nhau với nội dung lý
thuyết tương ứng phù hợp.
7/ Hỗ trợ cho đào tạo kỹ thuật
Luật “Khuyến khích đào tạo nghề” được ban hành vào năm 1951. Qua đó,
thông qua Bộ Giáo dục, Chính phủ bắcác chương trình đào
tạo công nghệ và khuyến khích các chính quyền địa phương hỗ trợ cho công
tác này. Sau khi hoàn thiện từng chương trình giảng dạy chuẩn, Bộ Giáo
dục ban hành các tiêu chuẩn cho trang thiết bị đào tạo kỹ thuật và đào
tạo dạy nghề kỹ thuật tương ứng. Chính phủ trợ cấp các trường phổ thông
trung học(trường tư) gần một phần ba ngân sách dành cho đào tạo dạy nghề
kỹ thuật và các trang thiết bị. Giáo viên dạy nghề tại các trường phổ
thông trung học quốc gia và trường công được lĩnh thêm trợ cấp hàng
tháng bằng 10% lương theo Luật trợ cấp đào tạo nghề năm 1957 tức cao hơn
mức lương của công chức cùng ngạch ở ngành nghề khác.
a/ Đào tạo giáo viên mới hoặc giáo viên đang giảng dạy
Việc đào tạo giáo viên mới giảng dạy công nghệ và đào tạo nghề kỹ thuật
chủ yếu là ở các trường Đại học kỹ thuật hoặc ở khoa công nghệ của các
trường đại học quốc gia. Do công nghệ luôn thay đổi nhanh chóng nên việc
tổ chức tập huấn cho các giáo viên kỹ thuật và đào tạo dạy nghề kỹ thuật
là rất cần thiết. Sau mỗi lần chỉnh sửa chương trình giảng dạy (thường
chu kỳ 10 năm), Bộ Giáo dục sẽ lên kế hoạch và thực hiện với ngân sách
của nhà nước các chương trình tập huấn các giáo viên đang giảng dạy.
Một ví dụ điển hình là nổ lực cho việc chuẩn bị một lực lượng 16.000
giáo viên kỹ thuật để giảng dạy các khóa vi tính mới. Trong giai đoạn
đầu của chương trình, có khoảng 160 giáo viên kỹ thuật được tập huấn 2
tuần trong chương trình đào tạo toàn phần. Sau khoảng thời gian hơn 3
năm, mỗi cở sở đào tạo dược 480 giáo viên đầu đàn, đáp ứng được nhu cầu
về giáo viên giảng dạy kỹ thuật ở các trường phổ cập . Bên cạnh 2 tuần
được đào tạo chuyên sâu, các giáo viên này có nghĩa vụ tự nghiên cứu về
vi tính. Mỗi gíao viên đã được tập huấn sẽ về địa phương mình và đào tạo
lại các giáo viên kỹ thuật khác của địa phương. Chương trình đào tạo
giáo viên đang giảng dạy cấp địa phương được tiếp tục thực hiện trong 4
năm (từ 1988 đến 1992) đã đáp ứng được một cách hoàn hảo mọi yêu cẩu về
giáo viên kỹ thuật của Nhật .[10]
b/ Các trung tâm đào tạo kỹ thuật
Trong 47 tỉnh, thành phố của Nhật, mỗi nơi đều có ít nhất một trung tâm
đào tạo gồm một khoa đào tạo công nghệ/công nghiệp (cả công nghệ thông
tin) không kể loại trường chuyên tu/chuyên môn dạy nghề của tư nhân
chiếm tỷ lệ 80%-90% trong tổng số trường dạy nghề trên cả nước, trong đó
ngành công nghệ thông tin chiếm đa số tuyệt đối. Ở một vài tỉnh lớn có
các trung tâm đào tạo công nghệ thông tin và kỹ thuật hoạt động độc lập.
Các trung tâm này có chức năng đào tạo giáo viên đang giảng dạy, hoàn
thiện tài liệu giảng dạy và nghiên cứu phương pháp giảng dạy. Để sử dụng
hiệu quả các nguồn ngân sách của nhà nước, các trung tâm đào tạo các
tỉnh được trang bị các trang thíêt bị đắt tiền như các hệ thống máy vi
tính quy mô lớn và các trung tâm cơ khí hiện đại
c/Duyệt sách và những trợ cấp cho sách giáo khoa bắt buộc
Các loại sách giáo khoa sử dụng trong các trường giáo dục bắt buộc và
các trường phổ thông trung học đều được các công ty xuất bản tư nhân
biên soạn và phát hành theo sự kiểm định và chấp thuận của Bộ Giáo dục.
Tất cả các sách giáo khoa bắt buộc, cả sách giảng dạy kỹ thuật, đều được
phát miễn phí cho học sinh. . Ví dụ như một văn bản về cơ khí đã được
duyệt phải có nội dung liên quan trực tiếp tới nội dung Bảng 3.
8/ Những thách thức của đào tạo công nghệ tại Nhật hiện nay
Theo GS Murata(Nhật) và GS Sterm(Mỹ) cho rằng Nhật bản hiện đang đứng
trước 4 thách thức lớn đặt ra trong việc đào tạo công nghệ , vấn đề là
liệu nước nầy có khả năng giải quyết được những thách thức đó như thế
nào sẽ là nhân tố quyết định bản chất và hiệu quả của việc đào tạo công
nghệ trong tương lai.[11] Đó là:
a/ Áp lực kiểm tra đầu vào
Tại Nhật bản, các kỳ thi kiểm tra đầu vào gắt gao có ý nghĩa rất quan
trọng trong nền giáo dục, nhất là các kỳ thi tuyển sinh đại học để chọn
sinh viên vào học tại các trường đại học có uy tín. Chính vì việc thi
đậu vào các trường đại học có uy tín sẽ đem lại nhiều thuận lợi sau này
mà các bậc cha mẹ đều khuyến khích con em mình có sự chuẩn bị học tập
tốt từ khi còn rất nhỏ. Các kỳ thi tuyển sinh đại học quốc gia có 5 môn
chính: toán, tiếng Anh, tiếng Nhật, khoa học tự nhiên, khoa học nhân
văn, không có nội dung về công nghệ, kinh tế gia đình, mỹ thuật hoặc
giáo dục y tế. Vì vậy, các bậc cha mẹ có khuynh hướng xem đấy là những
môn phụ so với các môn có trong nội dung thi của các kỳ thi tuyển sinh.
Điều nầy vô hình trung phủ nhận giá trị của việc học môn kỹ thuật hay
môn mỹ thuật…ở bậc trung học cơ sở dẫn đến việc các em học sinh xem nhẹ
những môn học nầy trong giáo trình.
b/ Khó khăn trong thay đổi chương trình
Quãng thời gian 10 năm đề thay đổi chương trình cho phù hợp với những
thay đổi trong kỹ thuật và nơi làm việc là quá dài. Đây là một thách
thức đặc biệt quan trọng trong đào tạo kỹ thuật do nội dung đào tạo kỹ
thuật luôn có quan hệ mật thiết với thế giới kỹ thuật và môi trường (kỹ
thuật)nơi làm việc.Tốc độ cải tiến và phát minh trong công nghệ thông
tin, các ngành sản xuất chế biến hay phương thức quản lý bắt được nhịp
tăng trưởng là một thách đố buôc các nhà giáo dục phải có chính sách ứng
phó linh hoạt hơn, nhất là khi nền kinh tế tri thức đã bắt đầu hình
thành trong một thế giới phẳng như nhiều nhà khoa học đã lên tiếng trong
những năm cuối thế kỷ 20. Với cơ chế cứng nhắc trong chương trình đào
tạo cũng như sách giáo khoa không cập nhật sẽ trở thành rào cản vô hình
cho những cập nhật đáp ứng yêu cầu thực tế sau khi ra trường.
c/ Đào tạo kỹ thuật và cơ hội bình đẳng trong đào tạo
Vào thập niên 1990, Nhật bản bắt đầu một cuộc thí nghiệm về một tuần làm
việc 5 ngày thay vì 6 ngày vì thế một tuần học tập của học sinh các cấp
cũng rút ngắn hơn. Trong suốt năm học 1992-1993, các trường của Nhật đã
cho nghỉ học một ngày thứ bảy trong tháng. Điều này đồng nghĩa với việc
giảng dạy sẽ ít đi.Tháng 4/2002, Bộ Giáo dục đưa ra đề cương cải cách
chương trình mới, cắt giảm 30% nội dung giảng dạy phù hợp với thời gian
học tập được rút ngắn, 5 ngày trong tuần nhằm tạo ra một sự thoải
mái(yutori) hơn trong học tập sau khi nhiều tệ nạn học đường bùng nổ từ
giữa thập niên 80(Nạn bỏ học, chọc phá, bỏ lớp, bạo lực…).
Đây được một số người xem là cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba. Người ta
lo ngại rằng do áp lực nặng nề của kỳ thi tuyển sinh vào đại học, sinh
viên sẽ phải học nhiều lớp luyện thi hơn nữa( juku). Việc giảm thiểu
thời gian học ở trường đã đặt ra một thách thức quan trọng cho việc đào
tạo kỹ thuật và kinh tế gia đình. Để đảm bảo tính công bằng cho nam và
nữ, Bộ Giáo dục đã cho giảm 50% thời lượng giảng dạy môn kỹ thuật và
kinh tế gia đình. Mặc dù ngày càng có nhiều sinh viên cả nam và nữ học
môn kỹ thuật và kinh tế gia đình nhưng thời gian dành cho chúng thì ít
hơn. Điều nầy nói lên một thực tế là phải nâng cao khả năng “tự học” của
mỗi em sau giờ lên lớp tại trường, trong đó sự vênh nhau về học lực
trong cùng cấp học sẽ hiện rõ vì yếu tố nổ lực cá nhân của mỗi em khác
nhau, đây cũng là một điểm nan giải trong chủ trương “công bằng”trong
học tập và đào tạo nếu không có biện pháp khắc phục.
d/ Thiếu nguồn cho đào tạo kỹ thuật
Tương tự như các nước khác, việc đào tạo kỹ thuật tại Nhật bản gặp khó
khăn vì thiếu nguồn, cả tài chính lẫn nhân lực trước thực tế ngành nghề
ngày càng đa dạng, phong phú do phát triển kinh tế và quốc tế hoá giao
thương. Đào tạo kỹ thuật yêu cầu phải có đầu tư tài chính vào các trang
thiết bị và tài liệu giảng dạy nhưng hơn cả là việc tuyển chọn giáo viên
kỹ thuật giảng dạy ngày càng trở nên khó khăn hơn, nhất là nền kinh tế
đang bước vào thời kỳ đa quốc tịch và đa phương hoá.Mối liên kết chặt
chẽ về kỹ thuật cũng như kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới ngày
càng khắng khít, sự cọ xát ngày càng trở nên nóng bỏng khi vai trò điều
hoà của những tổ chức quốc tế ngày càng giảm sút, sự cạnh tranh sống còn
về kinh tế cũng như kỹ thuật mỗi lúc một gay gắt hơn.(xem ý kiến của TS
Nguyễn xuân Xanh)
9/ Tình hình hiện nay
Nhìn chung lượng học sinh cấp 3 chọn học ở đại học
(4 năm) chiếm tỷ lệ
cao nhất (41.8%) kế đến là các trường chuyên tu/cao đẳng chuyên nghiệp
(18.2%) trong đó chọn học chuyên tu(khoa chuyên môn) là 88.9% cho thấy
khuynh hướng chọn học nghề cụ thể chiếm đa số tuyệt đối. Mặt khác trong
tổng số 3,441 trường Cao đẳng/Chuyên tu thì 93.9% thuộc hệ dân lập trong
khi trường của nhà nước chỉ có 11 trường (0.3%) và số trường công lập
(của tỉnh, thành, quận huyện) cũng chỉ có 199 trường (0.58%). Đây là con
số phản ánh xu hướng học nghề, chuyên tu ngày càng được tư nhân hoá rất
cao đáp ứng sự đa dạng của việc đào tạo nghề cho thanh niên. Số học sinh
trung học cơ sở (cấp 2) tiến thẳng lên cấp 3 phổ thông rồi mới học nghề
thay vì chuyển hướng học nghề từ trung học cơ sở(cấp 2) như những năm
1960. Hơn thế nữa nếu nhìn vào ngành nghề cụ thể thì các ngành công
nghiệp và Văn hoá-Giáo dưỡng những bộ môn chiểm tý lệ cao hơn cả, từ
15-17% không kể ngành y tế chiếm tỷ lệ vượt trội 31-34%, ngoài ra ngành
vệ sinh công cộng cũng đạt 12-14% trong khi ngành nông nghiệp chỉ còn
0.5 % phản ánh khuynh hướng “ly nông” rất rõ rệt.
Điểm đáng chú ý là lượng học sinh vào học các trường đại học ngắn hạn
(2-3 năm) đã giảm sút so với số học sinh lên Chuyên Tu/Cao đẳng chuyên
nghiệp. Ở Đại học ngắn hạn(Tanki Daigaku), trong đó học sinh nữ chiếm
70% vì các môn học như nữ công gia chính, kế toán, quản lý nghiệp vụ văn
phòng, sinh ngữ…là môn học chủ yếu. Dù có sự thay đổi nầy, nhưng chúng
ta vẫn có thể kết luận được rằng việc đào tạo nghề qua các trường chuyên
tu hay cao đẳng vẫn còn chiếm một tỷ lệ khá lớn 18-19%, nếu so với những
năm 1975-85 tỷ lệ nầy là 30-32% thì có sụt giảm nhưng việc giảm nầy là
do nền kinh tế Nhật bản đã chuyển sang sản xuất ở nước ngoài là chủ yếu,
đặc biệt các dây chuyền công nghệ lắp ráp kim khí điện máy, cơ khí, hoá
chất…đã chuyển ra nước ngoài qua con đường xuất khẩu kỹ thuật hay đầu tư
nước ngoài tăng nhanh trong hơn 20 năm qua (xem bảng thống kê 2006).
Số trường, học sinh theo Cao
đẳng/ Chuyên tu(2006)
nguồn:
Bộ Giáo dục-Văn hoá-Khoa học

Nhà nước: ngân sách của Bộ
Công lập: ngân sách của tỉnh,
thành phố, phủ, huyện…
Trong đó

Số học sinh tốt nghiệp cấp 3
vào:
*trường Cao đẳng/Chuyên tu
213,075 hs (18.2 %)
*đại học 4
năm 489,848 hs (41.8 %)
*đại học ngắn hạn(2-3
năm) 83,217 hs (7.1 %)
Lời kết
Qua phân tích khái quát trên, chúng ta có thể nhận thức được mối quan
tâm của các nhà xây dựng chính sách giáo dục trong đó họ tìm cách đẩy
mạnh việc hướng nghiệp-đào tạo nghề cho lứa tuổi trung học cơ sở lẫn
trung học phổ thông với nhiều phương cách linh hoạt nhằm đáp ứng kịp
thời nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội Nhật bản một cách hợp lý nhất
trong đường lối chiến lược “Kỹ thuật Lập quốc”, nghĩa là dùng khoa học
kỹ thuật để vươn tới, xây dựng một đất nước Nhật bản hùng mạnh về Kỹ
thuật thay vì đường lối “Phú quốc Cường Binh” như thời “công nghiệp hoá”
của Minh Trị Duy Tân. Tất nhiên, việc cải cách giáo dục là một lộ trình
không có điểm dừng chân, phát triển từng nấc theo yêu cầu và đặc điểm
của phát triển theo từng giai đoạn vì vậy khả năng “tự làm mới” nền giáo
dục chính là chìa khoá mở ra những khả năng phát triển cho tương lai,
vực dậy những tiềm năng sáng tạo của con người—thế hệ mới—không những
ngăn chận khả năng tụt hậu của quốc gia như chúng ta thấy kinh nghiệm
đau đớn và chua xót của các nước Tây âu đã thua kém Nhật Bản, Đức hay
Hoa Kỳ… như thế nào trong 50 năm qua khi nền giáo dục-phát triển kỹ
thuật của những nước không bắt kịp thời đại “vi tính hoá”(IT) và “rô bô
hoá” trong khoa học kỹ thuật. Lối giáo dục “nhân văn” cũ xưa đã trở
thành lạc hậu trước những bước tiến đột phá trong công nghệ về mọi mặt
trên thế giới, đòi hỏi phải xây dựng hệ thống giáo dục theo một nền văn
hoá-nhân văn mới phù hợp với “thế giới phẳng” ngày nay. Nhịp bước “10
năm cải tiến giáo dục” (có nghĩa là sách giáo khoa có giá trị sử dụng
trong học tập trong 10 năm trong khi ở VN thì thay đổi sách giáo khoa
xoành xoạch) một lần của Nhật bản đã bị các nhà nghiên cứu trong nước
phê phán phát xuất từ tấm gương thất bại nầy của Châu âu, luôn đòi hỏi
chính phủ, cụ thể là Bộ Giáo dục-Văn hoá-Khoa học ngày nay phải dốc sức
duyệt lại với một chu kỳ ngắn hơn cho phù hợp và cập nhật.
Mặc dù thế giới đã có nhiều thay đổi khi bước vào thế kỷ 21, mối quan hệ
quốc tế ngày nay cũng đang trong một trật tự và hệ thống mới trong đó
Việt nam đã là thành viên của nhiều tổ chức và cơ cấu quốc tế tuy nhiên
những ý kiến và kinh nghiệm của Nhật bản trong việc đào tạo một tầng lớp
công nhân có kỹ năng thích ứng được với tốc độ phát triển nêu trên hi
vọng sẽ đem lại một cách nhìn mới cho nền giáo dục của nước ta ở giai
đoạn hội nhập và cạnh tranh gay gắt, trong thời kỳ mà nhu cầu lao động
có kỹ năng và kỹ thuật cao đang trở thành một đòi hỏi bức thiết, mang
tính sống còn đối với một nước có nền kinh tế vốn không được bền vững
(nhập siêu liên tục trong những năm vừa qua là một thí dụ), chưa bắt kịp
nhịp điệu tăng tốc của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước khi
Việt nam đang có cơ hội để ra biển lớn.
Hồng lê Thọ
2/2008
**Kèm theo đó là những mặt trái tàn khốc của thời kỳ tích lũy nguyên
thuỷ tư bản trong quá trình hình thành chế độ tư bản chủ nghĩa tại Nhật
bản với chính sách bóc lột gần một triệu công nhân bị cưỡng ép di dân từ
Triều tiên, Đài Loan(thuộc địa của Nhật bản) sang khai khoáng, lao động
hầm mỏ, hay vấn đề triệt để truy bức nữ công nhân ngành dệt...vào cuối
thế kỷ 19 cũng như chế độ thực dân hà khắc ở Triều tiên trong hơn 36 năm
thống trị và đồng hoá…là những dấu ấn khó phai trong giai đoạn Minh Trị
thực hiện cuộc cách mạng kỹ nghệ mà bất cứ nhà nghiên cứu nào cũng không
thể bỏ qua. Hơn thế nữa, chính sách Đại đông á, xây dựng “Mãn Châu quốc”
ở Trung Quốc trong thế chiến thứ hai với tội ác kinh hoàng của Phát xít
Nhật ở khắp nơi trong đó có sự kiện 2 triệu người chết đói tại Miền Bắc
Việt nam là những sự kiện cần phải được chú ý trong khi nghiên cứu lịch
sử và đánh giá đúng mức. Nhiều nhà phân tích kinh tế của Nhật bản còn
cho rằng yếu tố kích thích nền kinh tế Nhật bản sỡ dĩ vực lên được nhanh
chóng là nhờ nằm trong” chiếc dù hạt nhân” của Mỹ thời chiến tranh lạnh,
được chính phủ Hoa kỳ tích cực viện trợ qua chính sách Marshall, ưu tiên
đóng vai trò làm căn cứ hậu cần cho cuộc chiến tranh của Mỹ ở Triều
tiên(1953) và cuộc chiến tranh ở Việt nam(1960-1975) mà ngân sách dành
cho việc mua sắm quân nhu, nơi nghĩ dưỡng của quân đội Mỹ ở Thái Bình
dương lên đến 250 tỷ đô la. Tuy nhiên đề tài nầy không thuộc chủ đề giáo
dục, hi vọng chúng tôi sẽ có dịp trở lại trong một lần khác.
Riêng ở Pháp thì sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở (Brevet) nhà trường
cho các em tự chọn học lên cấp 3 hay học trừơng hướng nghiệp cụ thể
(như Chuyên tu hay Cao đẳng chuyên nghiệp của Nhật Bản) việc học nghề
của các em ở lứa tuổi (15 tuổi) nầy hoàn toàn miễn phí để khuyến khích, và
sẽ phải đóng học phí rất đắt khi quá tuổi qui định.(HLT)
Ý kiến bổ sung
của TS Nguyễn Xuân Xanh về giáo dục dạy nghề ở Đức:
Xin bấm để
đọc
Tham khảo:
1) Japan’s System of Post-Secondary
Education—Hasegawa Wataru, Columbia University.
2) Bộ Giáo dục, khoa học và văn hóa. (1989).
Kotogakko gakushu shidoyoryo [Upper secondary course of study]. Tokyo:
Murata
3) Bộ giáo dục, khoa học và văn hóa. (1991). Gakko
kihon chosa [Basic School Statistics].
4) Murata, S. (1990). Những xu hướng mới trong giáo
dục hướng nghiệp dạy nghề kỹ thuật ở các trường cấp 2 cơ sở Nhật Bản. Paris:
OECD Hội đồng giáo dục
5) Passin, H. (1982). Xã hội và giáo dục tại Nhật
Bản. Tokyo: Kodansha.
6) Stern, S. & Matsuda, T. (1988, April). Nhật Bản
đào tạo học sinh về kỹ thuật và máy tính. School Shop, 47(9), 41-43.
7) Suzuki, H. & Murata, S. (1990). Gijutsu kyoiku no
rekishi to tenbo [Lịch sử và quan điểm về đào tạo kỹ thuật. Tokyo: Nichibun.
8) Tamura, S., Arai, I. & Murata, S. (1985).
Kinrotaiken gakushu no nerai to jissen [Mục tiêu và thực tiễn của các hoạt
động kinh nghiệm làm việc]. Tokyo: Gyosei.
9) U.S. Department of Education. (1987). Giáo dục
Nhật Bản ngày nay. Washington D.C
10) The evolution of social policy in Japan. Okada Konosuke, WB 2003
11) Education at a Glance 2006(OECD)
12) The Impact of New Technology To Japanese Vocational Education. Shigeru
Nakayama, UNESCO 1991
13) Vocational Content in Mass Higher Education. Roger Goodman et al
(Oxford Univ.)
14) Hội Trí thức Meirokusha và tư tưởng khai sáng ở Nhật bản(Vietsciences).
Vĩnh Sính
15) Nihon no Sangyo Kakumei(Iwanami shoten). Oe Shinobu
16) Meijiishin No Kyoikushi(Mizusawa Shoten). Oe Shinobu
17) Kyoiku Hakusho –Tokei 1963,85,90,2000,2005 Mombu Kagaku Gijitsu Sho
Cùng một thuật ngữ, từ gijutsu ka được sử dụng để miêu tả các lớp học kỹ
thuật công nghiệp tại các trường cấp 2 tại Nhật Bản từ khi bộ môn này được
đưa vào chương trình năm 1958. Gijutsu có nghĩa là kỹ thuật và “ka” có nghĩa
là môn học.
Thống kê về các loại trường học từ Minh Trị đến năm 1962
Number of Schools by Type of School, 1873-1962

.gif)

.gif)




Number of Schools by Type of School, 1873-1962 (Continued)
Những điểm quan trọng có thể nhận thấy qua bảng thông kê nầy:
(1) Ngay từ những năm đầu, chính quyền Minh Trị đã tích cực phổ cập hóa nền
giáo dục học qua số trương tiểu học ngày càng tăng cao, và Nhật bản luôn duy
trì trên dưới 30,000 trường thuộc hệ công lập.
(2) Từ năm 1903 đến năm 1947 số trường Thanh Niên(dạy nghề) và trường Chuyên
môn, Dạy nghề tăng vọt lên mức 15,000-18,000 trường(cho Thanh niên đã tốt
nghiệp tiểu học) từ con số 400 trường năm 1902, và Dạy nghề lên 1,500
trường(vào năm 1947) và hệ chuyên tu(hay trung học chuyên nghiệp đặc biệt
hình thành sớm hơn, đã có từ năm 1878 và tăng vọt vào những năm sau thế
chiến thứ hai, đạt mức 4,500-5,000 trường và ngày nay con số nầy đã lên tới
hàng vạn trong đó 90% là trường chuyên tu dân lập.
(3) sau thế chiến thứ hai, từ năm 1947, Nhật bản mới tăng tốc hệ thống giáo
dục cấp trung học cơ sở(cấp 2) và cấp phổ thông (cấp 3)
(4) số trường đại học cũng được thành lập rất nhanh thời hậu chiến(thứ
hai)trên cơ sở nâng cấp các trường chuyên môn sẵn có, gọi là “đại học tân
lập”
*tham khảo thêm bài viết về “Lỗ hổng nghiêm trọng trong phát triển:Lao động
có kỹ năng”của cùng tác giả ( trang 28).
Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, tác giả chưa thể đi sâu vào các nội
dung như chi phí cho giáo dục, giáo trình dạy nghề của Nhật bản qua các thời
kỳ. Xin hẹn dịp khác.
Phần thống kê kết quả cải cách giáo dục lần 2 (sau thế chiến thứ hai)
Tỷ lệ học sinh cấp 3 lên Cao Đẳng, Đại học ở Nhật bản
2.9 % (1947)
38 % (1960)
60 % (1975)
81.3 % (2006)
Phản ánh Nhật bản bước vào nền kinh tế Tri thức.

Số cơ sở đào tạo và số học sinh theo từng loại trường(tháng 5/1989)

Nguồn: Technical and Vocational Education in Japan
Các loại trường ngày nay ở Nhật bản (2006)

Số trường Học chính khoá Số học sinh
Nguồn: Bộ Giáo dục-Văn hoá-thể thao-khoa học-kỹ thuật 1/5/2006
Nhận xét: số trường Tiểu học và Trung học
cơ sở hầu như ít thay đổi kể từ cải cach giáo dục lần 1 & 2 trước đây
Trung học chuyên nghiệp kỹ thuật giảm hẳn nhưng số sinh viên học Đại học
tăng cao và hệ chuyên tu + Dạy nghề vẫn ở mức trên 5,000 cơ sở tuy có
giảm so với thống kê năm 1989 do cách thống kê về cơ sở dạy nghề khác
nhau..

Nguồn: như trên
Nhận xét: số sinh viên vào học cấp Thạc sĩ
và Tiến sĩ ở trường công lập đều cao hơn trường
tư

Nguồn: như trên
Nhận xét: số học sinh vào trường Cao đẳng kỹ thuật và đại học
ngắn hạn tương nhau trong khi vào Đại học thấp hơn mặc dù nhìn chung thì
cả 3 loại nầy đều tăng nhanh trong hơn 3 thập kỷ(1950-1980) . Bắt đầu từ
thập kỷ 90 thì số sinh viên theo học đại học ngắn ngày(hơn 70% là nữ
giới) có khuynh hướng giảm sút rõ rệt.
Biểu
đồ 2: Khuynh hướng nhận việc và tìm việc cho
học sinh tốt nghiệp phổ thông tại Nhật bản

Nguồn: Bộ Lao động-Y tế và Phúc lợi
Nhật Bản/Văn phòng Bảo hiểm Lao động
Nhận xét:
1985-1988: số chỗ trống ngang bằng với số học sinh tốt nghiệp cấp
3 xin việc (tỷ lệ 1:1)
1989-1995: số chỗ
trống hơn hẳn nhu cầu xin việc
1995-1999: tỷ lệ
trở lại 1:1
2000-2005: số chỗ
trống bắt đầu ít hơn số người xin việc,
từ năm 2000, kinh
tế Nhật Bản bước vào giai đoạn kinh tế tri thức, nhu cầu về lao
động có học vấn (đại học hay cao đảng kỹ thuật) cao hơn.
Biểu đồ 3: Các giả thuyết giải thích cho sự
suy giảm nhu cầu tuyển dụng
lao động tốt nghiệp phổ thông và lao động trẻ tuổi tại Nhật Bản

Tư liệu tham khảo
(1)Bộ giáo dục, khoa học và văn hóa.
(1991). Gakko kihon chosa [Basic School Statistics].
(2)Passin, H. (1982). Xã hội và giáo dục
tại Nhật Bản. Tokyo: Kodansha.
(3)Stern, S. & Matsuda, T. (1988,
April). Nhật Bản đào tạo học sinh về kỹ thuật và máy tính. School Shop,
47(9)
(4)Suzuki, H. & Murata, S. (1990).
Gijutsu kyoiku no rekishi to tenbo “Triển vọng nghiên cứu về lịch sử đào
tạo kỹ thuật” Tokyo: Nichibun.
(5)Tamura, S., Arai, I. & Murata, S.
(1985). Kinrotaiken gakushu no nerai to jissen [Mục tiêu và thực tiễn của
việc học tập về kinh nghiệm lao động]. Tokyo: Gyosei.
(6)U.S. Department of Education. (1987).
Giáo dục Nhật Bản ngày nay. Washington D.C
(7) The evolution of social policy in
Japan. Okada Konosuke, WB 2003
(8) The Impact of New Technology To
Japanese Vocational Education. Shigeru Nakayama, UNESCO 1991
(9) Vocational Content in Mass Higher
Education. Roger Goodman et al (Oxford Univ.)
(10) Hội Trí thức Meirokusha và tư tưởng
khai sáng ở Nhật bản(Vietsciences). Vĩnh Sính
(11) Nihon no Sangyo Kakumei(Iwanami
shoten)”Cách mạng kỹ nghệ ở Nhật bản”. Oe Shinobu
(12) Meijiishin No Kyoikushi(Mizusawa
Shoten)”Lịch sử giáo dục thời Minh Trị Duy Tân”. Oe Shinobu
(13) Kyoiku Hakusho—Sách Trắng về Giáo
dục –(Thống kê) 1963,85,90,2000,2005 Mombu Kagaku Gijitsu Sho(Bộ giáo
dục-khoa học kỹ thuật Nhật bản)
[1] Japan’s
System of Post-Secondary Education—Hasegawa Wataru, Columbia University.
[2] Trường Cao
đẳng Chuyên môn(Koto senmon gakko) là trường dành cho học sinh sau
khi tốt nghiệp cấp 2, tồn tại trong khoảng thời gian 1947-65. Từ “Cao
đẳng” ở đây có nghĩa là cấp 3 trong tiếng Nhật, không có nghĩa
như ở VN là cấp học sau tốt nghiệp phổ thông như ngày nay.
[3] Tầng lớp quí
tộc gồm “Hoa tộc” là hoàng thân quốc thích, lãnh chúa, và những người có
công với triều đình. Tầng lớp này từ 1867 đổi thành 5 đẳng cấp Công,
Hầu, Bá, Tử Nam tước như Châu âu. Việc phân chia đẳng cấp này kết thúc
vào năm 1947.
[4] Education at
a Glance 2006 (OECD)
[6] Coi chú thích
2 ở trên. .
[7] Suzuki, H. &
Murata, S. (1990). Gijutsu kyoiku no rekishi to tenbo [Lịch sử và quan
điểm về đào tạo kỹ thuật. Tokyo: Nichibun.
[8] Suzuki, H. &
Murata, S. (1990). Gijutsu kyoiku no rekishi to tenbo “Triển vọng nghiên
cứu về lịch sử đào tạo kỹ thuật” Tokyo: Nichibun.
[9] Bộ Giáo dục,
khoa học và văn hóa. (1989). Kotogakko gakushu shidoyoryo [Upper
secondary course of study]. Tokyo: Murata
[10] Stern, S. &
Matsuda, T. (1988, April). Nhật Bản đào tạo học sinh về kỹ thuật và máy
tính. School Shop, 47(9), 41-43.
[11] Stern, S. &
Matsuda. Tlđd.
Đăng
lần đầu 14/03/2008
Cập nhật ngày 03/05/2008
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Hồng Lê Thọ
|