Pierre de
Ferma
(1601-1665)
nhà toán học Pháp
đã thách đố những
bộ óc nhân loại trong 358 năm bằng định lý cuối cùng của ông
1/
Tiểu sử
2/
Fermat không phải là nhà toán học chuyên nghiệp
3/
Những công trình của Fermat
a) Lý thuyết số
b) Xác suất
c) Hình học giải tích
d) Toán vi phân
e) Định lý nhỏ của Fermat
f) Định lý cuối cùng của Fermat:
g)
Trở thành định lý Fermat-
Wiles
h)
Số
Fermat
i)
Đẳng thức
Pell-Fermat:
j)
Tổng số các lũy thừa 4
k)
Phương pháp phản chứng
4/ Tác
phẩm không in
5/ Link tới những trang nói về Fermat
6/ Sách dịch tiếng Việt về Định lý cuối cùng
của Fermat được Andrew Wiles giải
1/ Tiểu sử:
![](images/fermatj.jpg) Pierre
Fermat
sinh ngày 17
tháng 8, 1601 tại
Beaumont-de-Lomagne thuộc Tarn-et-Garonne.
Xuất thân từ một gia đình thương gia khá giả, ông
theo học ở Toulouse và có cử nhân luật dân sự.
Nguyên
văn tờ khai sinh của Pierre:
« Pierre, fils de
Dominique Fermat, Bourgoys et segont consul de la
ville de Beamont, a esté baptisé le 20 août 1601,
parrin Pierre Fermat, marchant et frère dudit
Dominique, marrine Jeanne Cazeneuve, par moy Dumas
vicaire »
Năm
1630 ông làm cố vấn cho vua tại Phòng thỉnh cầu
(Chambre des requêtes) tại Pháp viện (Parlement)
Toulouse và kể từ năm 1648 ông được
giữ những chức vụ quan trọng hơn tại Phòng
hình sự (Chambre criminelle) và Grand' Chambre. Từ
năm 1648 ông trở
thành hội viên
Phòng
Khiếu nại
tại
Castres
(Chambre de l'Edit de Castres)
mà vai
trò là giải
quyết những tranh chấp giữa những người Hồi
giáo và Thiên chúa giáo.
![Andrew Wiles, người đã giải đáp định lý cuối cùng của Fermat, một thách đố đã làm bối rối biết bao bộ óc vĩ đại nhất của nhân loại trong suốt 358 năm](images/wiles_andrew.jpg)
Chức vụ
chánh án (magistrat) bảo đảm cho ông lương bổng dồi
dào cùng với miếng đất 140
mẫu tây để trồng trọt. Và cũng nhờ chức vụ
cao ở Pháp viện mà họ ông được thêm chữ "de" quí tộc
và tên ông từ đó là Pierre de Fermat.
2/ Fermat không phải
là nhà toán học chuyên nghiệp
Người ta đã biết nhiều đến Fermat qua việc làm cùng
các công trình nghiên cứu của ông và sự giao dịch
giữa ông với những nhà trí thức đồng thời với ông.
Vào thế kỷ thứ 17, đã có một sự phát triển nhanh
chóng về khoa học và văn hóa, đưa đến nhiều phát
minh trong đó có những khám phá của Fermat. Tuy
nhiên thế giới khoa học lúc đó chưa được tổ chức, và
chưa có nghề chuyên về toán học. Fermat cũng như
những nhà thông thái đồng thời với ông khi đó, không
phải là một nhà toán học chuyên nghiệp. Phần lớn
những người say mê toán học là những người ở trong
ngành luật : Viète là một luật sư, Despagnet là nghị
viên trong Nghị viện thành
phố Bordeaux. Còn Carcavi, con một chủ ngân hàng,
đang mới vào làm nghị viên trong Nghị viện thành phố
Toulouse. Tại đây, Carvani đã làm quen với Fermat,
và hai người đã trở thành bạn tâm giao suốt cuộc đời
của họ. Chỉ riêng có Roberval là ngoại lệ mà thôi.
Năm
1632,
lần đầu tiên Fermat gặp
Pierre de Carcavi,
một cố vấn khác của Pháp viện Toulouse mà ông đã
chia sẻ niềm say mê tóan học. Fermat
đã cùng với Carvani và Mersenne giải những
bài toán về sự rơi các vật mà
Galilée
đã đưa ra.
Không
phải lúc nào Fermat cũng luôn luôn đồng ý với
René Descartes:
Descartes giải bằng hình học còn Fermat đi trực tiếp
bằng phương trình đại số để vẽ đường cong.
Fermat đã có những
công trình về toán giải tích dựa trên căn bản toán
vi phân mà
Isaac Newton
(1643 ; 1727)
và
Gottfried Wilhelm von Leibniz (1646-1716)
đã tiếp nối sau đó.
Fermat đi sát tới khái niệm về đạo hàm để tìm điểm
cực tiểu và cực đại cho những hàm số đa thức và
phát triển phương pháp tích phân gần giống như cái
mà chúng ta đang dùng hiện tại.
Những
hoạt động khoa học không chuyên nghiệp của ông làm
ông được xem như một thiên tài lúc bấy giờ. Ông yêu
toán, thích chứng minh và đề nghị nhiều phương
pháp mới mẻ. Tuy nhiên ông chỉ trao đổi thư từ với
các nhà khoa học khác như
Galilée
(1564 ; 1642),
René Descartes (1596
; 1650),
Blaise Pascal
(1623 ; 1662) ou
Marin Mersenne
(1588 ; 1648).
Nhưng
cái làm cho Fermat đam mê là những bài toán thời cổ
đại. Ông trình bày và phát triển các công trình số
học của Pythagore thành Samos
(-569 ; -475),
Euclide thành Alexandrie
(-320 ; -260),
Archimède
thành
Syracuse
(-287 ; -212), Eudoxe
thành
Cnide
(-408 ; -355)
và
Diophante
của
Alexandrie
(thế
kỷ thứ 3 niên đại chúng ta). Chính trong tác phẩm
của ông này mà Số học của Fermat chất chứa mọi
nghiên cứu trên lý tghuyết các số. Ông để lại nhiều
đề toán chưa chưa chứng minh mà nhà toán học
Leonhard Euler
(1707 ; 1783)
sẽ giải sau này. Đặc biệt là giả định Fermat: Phương
trình xn
+ yn = zn
không có nghiệm số với x, y, z >0 và n>2
Tác
phẩm này Fermat viết và con trai ông đã in ra ngay
sau khi ông mất.
Tóm
lại, Fermat là nhà đại toán học không chuyên nghiệp
nhưng đã để lại cho nhân loại rất nhiều:
3/ Những công trình của Fermat
*** Tổng quát
Ông phát minh ra rất nhiều thuyết.
Chúng ta chỉ biết về các công trình và
những ý tưởng của ông nhờ những lời dẫn giải trong các tác phẩm của
ông và rất nhiều thư từ ông đã viết cho các nhà bác học đồng thời với ông.
May thay, Samuel-Clément Fermat đã
ráng tìm giữ lại được những tài liệu đó. Nên một phần tác phẩm của Fermat đã
được in ra vào cuối thế kỷ thứ 17, rồi tái bản vào thế kỷ thứ 19. Và đang
dần dần tái bản trở lại.
Không có tác phẩm nào được in
ra trong lúc Fermat
còn sống. Người ta tìm lại được bài viết về hình học
được ra mắt năm 1660, phụ bản của quyển viết về
cycloïde và ký những chữ cái đứng đầu của tên ông,
do cha đạo Antoine de Laloubère in tại Toulouse.
Năm 1670, năm năm sau khi cha mất, Samuel Fermat cho
ra mắt quyển Diophante của
Bachet de Méziriac
chính tay
Pierre Fermat
chú giải cùng với một số thư từ của ông.
Năm 1675 các kết quả
của nghiên cứu của học được Christiaan Huygens
(1629 ; 1695) in ra trong tác
phẩm
"De
ratiociniis in ludo aleae".
Năm
1679, Samuel in ra dưới tựa đề
Varia Opera Mathématica,
những tác phẩm của cha mà ông đã gom góp lại.
Đầu thế
kỷ thứ 19, người ta chép lại những bài viết của
Fermat đã giữ lại được từ thời
Marin Mersenne
(1588
; 1648)
đem cất tại tu viện Minimes Paris. Phải đợi cuối
thế kỷ 19, hơn 230 năm sau khi ông mất người ta mới
tìm thất tất cả những tác phẩm của Fermat. Mặc dù
từ khi được tin ông mất, những người cùng thời đã
có ý quan tâm đến sự lưu trữ những công trình nghiên
cứu của ông. Như thư của
Christiaan
Huygens
(1629 ; 1695)
viết
cho Pierre
de Carcavi (1600-1684) :
"J'espère cependant qu'on ne laissera pas perdre ce
qu'il reste de ses écrits, et puis que vous avez
toujours esté de ses intimes amis, je ne doute pas
que vostre intervention auprès de ses héritiers ne
soit de grande efficace pour tirer de l'obscurité de
si excellentes reliques".
Năm
1843, bộ trưởng bộ văn hóa cho ra một dự án in toàn
bộ tác phẩm của Fermat bằng ngân quỹ nhà nước.
Năm
1844,
Guillaume Libri loan
tin có đọc thấy một bài báo trong tờ
Journal des
Savants
ra năm 1839 viết rằng đã tìm thấy được một số thư từ
của Fermat chưa từng xuất bản được bán tại Metz.
Guillaume
Libri giao
cho
Théodore Despeyrous,
một nhà toán học trẻ tuổi đầy hứa hẹn, gốc tại
Beaumont
de Lomagne
lo dự án in ấn các tác phẩm của Fermat.
Guillaume Libri
đã kéo dài dự án cho tới năm 1848 người ta mới khám
phá ra là ông ta đã biển thủ, bán các tác phẩm và
bản thảo viết tay của Fermat
1879,
Charles Henry in ra một tác phẩm tựa đề "Nghiên cứu
các bản thảo của Pierre de Fermat" (Recherches
sur les manuscrits de Pierre de Fermat).
Liền sau đó ông nhận thư của ông Hoàng
Baldassare Boncompagni báo tin là
ông ta có giữ hai bản thảo chứa những bài viết
chưa hề được in của
Fermat mà ông sẵn sàng in ra.
16 tháng 2, 1882, một
đề nghị cho ra luật mới: các tác phẩm chuẩn bị in sẽ được giao phó cho Paul
Tannery và Charles Henry, in ấn sẽ do nhà xuất bản
Gauthier Villars.
Năm 1896, cuối cùng
các tác phẩm của Fermat đã được in ra thành 4 cuốn,
nhờ đó mà các thế hệ sau tìm hiểu phần nào các công trình của ông.
http://www.cdg82.fr/beaumont/histoire/fermat/genie.htm
Như đã nói trên, Fermat đã viết rất nhiều. Sau đây là một
vài lý thuyết tượng trưng của ông:
a)
Lý thuyết số
-
Ông
có sự đóng góp thiết yếu cho Lý thuyết số.
Fermat
để lại nhiều định lý không chứng minh; Euler đã
chứng minh một số lớn.
Ông nghiên cứu số học thâm cứu (arithmétiques
approfondies)
b)
Xác suất
-
Ông là người tiên phong,
trao
đổi nhau qua thư từ
với
Blaise Pascal
về
Phép tính xác suất
"Trong
trò chơi súc sắc, phải thảy bao nhiêu lần với 2 con
súc sắc mới hy vọng có hai mặt sáu?"
c)
Hình học giải tích
-
Ông xây dựng cùng lúc với
Descartes ngành Hình học giải tích
*
Sáng chế phương pháp toạ độ để định vị trí một điểm
trong một mặt phẳng.
*
Quan
niệm các đường cong như những quỹ tích các điểm
(nghĩa là tổng hợp các điểm để xác định một đẳng
thức.)
* Người
đầu tiên khởi xướng phương pháp tổng quát để xác
định các tiếp tuyến tới một đường cong phẳng.
* Hợp nhất hai lãnh vực đại số và
hình học.
La nguoi mo dau cho phep tinh vi phan , ong co
su dong
gop thiet yeu cho Ly thuyet so . Sau cung ,
voi
Pascal , ong la nguoi xuat su cua Phep tinh xac suat
.
d)
Toán vi phân
-
Là người mở đầu cho phép tính vi phân
e) Định lý nhỏ của
Fermat
a p -
(a
chia chẵn cho
p)
p
là số nguyên tố (nombre
premier)
a |
a 7 |
a 7
chia cho
7 |
Còn lại |
1 |
1 |
0 |
1 |
2 |
128 |
18 |
2 |
3 |
2 187 |
312 |
3 |
4 |
16
384 |
2
340 |
4 |
5 |
78
125 |
11
160 |
5 |
6 |
279
936 |
39
990 |
6 |
Lạ lùng thay, số dư bằng số đấu tiên
Ô ng
chỉ nhận xét thấy vậy nhưng từ đó rút ra một định
lý:
Chia một số lũy thừa p cho p
sẽ có
cùng số dư
f) Định
lý cuối cùng của Fermat:
Năm
1840,
tất cả các giả định đều được chứng minh hay không
đúng
Trừ một
:
giả định gọi là định lý lớn của Fermat đã được
Andrew Wiles giải tháng 9 năm 1994
Một hệ thức chỉ
diễn tả một cách giản dị là
Xn + Yn = Zn
Không có một lời giải nào khi n là số nguyên và
n > 2
Công thức chính xác:
Nếu n là một số nguyên lớn hơn 2; đẳng thức
Xn + Yn = Zn
vô nghiệm, với X, Y, X khác không
g) Trở
thành định lý Fermat-
Wiles
xn + yn = zn
vô nghiệm khi n>2
h) Số
Fermat
F =
2 2^n
+ 1
= Dn + 1
F
là
Fermat
D
là lũy thừa hai (Deux)
2k + 1 với k = 2n
i)
Đẳng thức
Pell-Fermat:
y² - ax² =
± 1
Bất cứ số nguyên tố nào có dạng 4n+1 là tổng của
hai số bình phương (Được chứng minh bởi Euler)
Bất
cứ số nào cũng tự phân tích ra thành 3 theo hình tam
giác, 4 theo hình vuông, 5 theo hình ngũ giác...
http://membres.lycos.fr/villemingerard/Geometri/Image926.gif
Thay vi tong so cac luy thua 4 , nen viet : tong
cua
nhung luy thua bac 4 .
j)
Tổng của những lũy thừa bậc 4
Đẳng
thức
s4 + t4 = 1
không có nghiệm số nguyên
http://membres.lycos.fr/villemingerard/Addition/Partiti2.htm#courbes4
Couple
amiable: 17 296 et 18 416 (4e paire)
http://membres.lycos.fr/villemingerard/Decompos/Fermat.htm#fermat
k)
Cách phản chứng
Fermat cũng cho ta chứng minh bằng phản chứng, giả
sử ngược với sự thật để đưa tới chủ đích là sự trái
ngược không thể chấp nhận.
Thí dụ: Giả sử có hai giả thiết:
-
Socrate là người
-
Tất cả mọi người đều phải chết
Dùng lối phản chứng để chứng minh là "Socrate phải
chết."
Muốn vậy, chúng ta giả sử ngược lại: "Socrate bất
tử"
Mà bởi vì "Tất cả mọi người đều phải chết", như vậy
"Socrate không phải là người". Nhưng điều này trái
ngược với giả thiết đầu là "Socrate là người"
Vậy thì giả sử khởi đầu "Socrate bất tử" là sai,
ngược lại sẽ đúng: "Socrate phải chết"
http://www.col-camus-soufflenheim.ac-strasbourg.fr/
5/ Link tới những trang nói về
Fermat
Bibmath
Académie de Bordeaux
Bibliographie
6/ Sách dịch tiếng Việt về Định lý cuối cùng của Fermat được
Andrew Wiles giải
![](images/sach_dinhly_fermat_pvt.jpg)
Định lý cuối cùng của Fermat là câu chuyện về một thách đố
đã từng làm bối rối những bộ óc vĩ đại nhất của nhân loại trong suốt 358
năm. Một đề tài thu hút sự chú ý của người học Toán và mê Toán nay đã có câu
trả lời. Bạn sẽ càng thấy thú vị hơn vì được cùng tác giả quay ngược về lịch
sử và đắm mình theo những dẫn dắt của sự tìm tòi, khám phá bí ẩn của lời
giải, cũng như cuộc đời và sự nghiệp của các nhà toán học vĩ đại trên thế
giới từ xưa đến nay |