Plato (427 -
347 TTC) , nhà đại Hiền triết cổ Hy Lạp
Những tác phẩm của Plato
Benjamin Jowett
chuyển sang
Anh ngữ
Xin bấm vào từng tựa đề để đọc tác phẩm của
Platon
Những
Sinh hoạt của Plato:
-390 -> -388 |
Sinh hoạt văn chương thời kỳ 1 |
Laches
|
Protagoras
|
Apology |
Charmides
|
Hippias
Minor |
Crito |
Euthyphro
|
Ion
|
Gorgias |
Lysis
|
Hippias Major |
|
|
-388 -> -367 |
Sinh hoạt văn chương thời kỳ
2:
thành lập Hàn lâm viện |
Meno |
Symposium
|
Phaedrus
|
Cratylus |
Phaedo
|
Parmenides
|
Euthydemus |
Republic
|
Theatetus
|
Menexenus |
|
|
|
-365 -> -361 |
Đến Sicily (Sicile) |
|
-360 ->
-348/7 |
Sinh hoạt văn
chương hời kỳ cuối |
Philebus |
Kritias |
The seventh
Letter |
Timaeus |
The
Laws |
|
|
Plato (Platon, trái) Aristolte (Aristote, phải)
Plato là nhà
Đại Hiền Triết và nhà Giáo Dục của thời Cổ Hy
Lạp, đồng thời cũng là một trong các nhà tư
tưởng quan trọng nhất, đã viết ra nhiều tác phẩm
giá trị, gây nên ảnh hưởng rộng lớn trong nền
Triết Học Tây Phương.
1/
Cuộc đời của Plato.
Plato chào đời tại Athens, Hy Lạp, vào năm 428 hay
427 trước Tây Lịch (TL). Plato thuộc gia đình quý
phái cả về phía cha lẫn phía mẹ. Cha của Plato tên
là Ariston dòng dõi Codros, vị vua cuối cùng của
thành Athens và được coi là con cháu của thần
Poseidon. Mẹ của Plato là Perictione có họ hàng với
Solon, nhà luật học lừng danh của Hy Lạp. Plato có
một người chú tên là Critias, là một trong 30 nhân
vật thuộc Hội Đồng Hoạt Đầu (conseil oligarchique).
Theo phong tục của các đại gia đình Hy Lạp, Plato
được đặt tên của ông nội là Aristocles vào ngày Thứ
Sáu sau khi chào đời, còn tên Plato là biệt hiệu, có
lẽ vì vóc người to lớn hoặc vì vầng trán cao rộng.
Plato có một người chị và hai anh là Adeimantus và
Glaucon mà tên còn được nhắc nhở trong cuốn sách
“Nền Cộng Hòa” (The Republic) trong vai người đối
thoại của Socrates.
Sau khi Plato chào đời được ít lâu, cha của ông qua
đời, mẹ tái giá với Pyrilampes, một người chú họ
ngoại và cũng là người bạn, người ủng hộ nhiệt thành
Pericles, một chính khách đã điều hành tốt đẹp thành
Athens trong các năm 400 trước TL. Tại nhà của
Pyrilampes, Plato được mẹ chăm sóc tới năm lên 7
tuổi, rồi được theo trường học. Thời bấy giờ, trẻ em
được huấn luyện tới năm 14 tuổi về tập viết, tập đọc
và tập làm toán. Sau đó tới năm 18 tuổi là thời gian
theo học phần thể dục, chuyên rèn luyện thân thể.
Thời gian đầu của Plato là những năm tàn phá do trận
chiến tranh Peloponnesian mang tới. Do còn quá trẻ,
Plato chưa được làm quen với chế độ dân chủ đế quốc
(imperial democracy) của Pericles cũng như phong
trào ngụy biện (sophistic movement), nhưng do những
người trong họ hàng như Critias và Charmides, hai
người bạn cố tri của Socrates, Plato được nghe nói
nhiều về nhà Đại Hiền Triết Socrates.
Năm 18 tuổi, Plato học hỏi với các triết gia và các
nhà ngụy biện (sophistists). Từ năm 20 tuổi Plato
theo học Socrates trong 8 năm liền, chấp nhận nền
triết học căn bản của Socrates cùng cách tranh luận
theo thể văn biện chứng (dialectic style). Đây là
cách tìm hiểu sự thật bằng các câu hỏi, câu giải đáp
và các câu hỏi kế tiếp. Vì quá ham thích Triết Học,
Plato đã đem đốt hết các tập thơ trữ tình và các bản
bi kịch do ông sáng tác lúc thiếu thời.
Trong bức thư thứ bẩy, chính Plato đã tự nhận rằng
tham vọng ban đầu của ông là Chính Trị. Ông đã tham
dự vào hàng ngũ những người hoạt đầu mà Critias là
một trong các thủ lãnh, vì ông mong muốn thiết lập
lại công bằng xã hội, tạo dựng hạnh phúc cho toàn
dân bằng cách tự sửa lại cá nhân. Nhưng rồi cách bạo
hành và chính thể chuyên chế của Hội Đồng Hoạt Đầu
và nhất là sự lên án Socrates một cách bất công đã
khiến cho Plato từ bỏ ý định về chính trị. Sau khi
Socrates bị bắt uống thuốc độc chết vào năm 399
trước TL, có lẽ vì lo sợ cho sự an toàn của mình rồi
lại do lòng công phẫn, Plato cùng vài môn đệ của
Socrates đã tới ẩn náu tạm thời tại Megara, nơi đây
Plato theo học Euclid, nhà toán học danh tiếng.
Năm 396 trước TL, Plato trở lại thành Athens và theo
như luật định, ông phục vụ trong hàng ngũ kỵ binh
tham chiến trong trận Corinth và trận này kết thúc
bằng sự thất bại của xứ Athens trước xứ Sparta. Vào
thời đó, người miền Athens thường hay đi lại nhiều
nơi và vì ghê tởm cuộc chiến tranh vừa qua, Plato
tìm đường sang Ai Cập. Ông đã mang theo rất nhiều
thùng dầu để bán dần khi đi đường. Đầu tiên, ông
dừng lại tại Crete rồi Cyrene. Ở nơi này ông nghiên
cứu Toán Học với Theodorus, sau đó có lẽ vào năm
390, Plato mới tới Ai Cập. Tại Heliopolis, Plato đã
học hỏi về Thiên Văn, Tôn Giáo và Hiến Pháp. Nhờ
thời gian sống tại Ai Cập, Plato đã quan sát kỹ
lưỡng các phong tục rồi suy tưởng và sau này, ông đã
bàn luận về những điều này trong các tác phẩm của
ông.
Sau khi rời Ai Cập, Plato sang Đại Hy Lạp, tới
Tarentum và quen với Archytas. Thời gian lưu trú tại
Tarentum đã giúp cho ông rất nhiều nhờ trao đổi tư
tưởng với Archytas là một nhà triết học kiêm chính
khách, một người đã thành công trong việc duy trì
tại Tarentum một chính phủ có quyền hành đặt nền
tảng trên Khoa Học và Triết Học.
Các cuộc đi xa đã giúp cho Plato nhiều cơ hội làm
quen với một số nhà sáng lập ra vài trường phái học
thuật như Pythagoras, Heraclitus cũng như các nhà
triết học Eleatic. Từ những nhận xét thực tế và các
điều học hỏi từ Socrates, cộng với sở thích liên
quan tới các vấn đề chính trị, Plato đã đi tới kết
luận rằng chỉ những người có kiến thức và các phẩm
chất đạo đức mới đáng được giao phó quyền lực để
điều khiển các người khác. Lý tưởng triết học của
Plato đang cần có các cơ hội để áp dụng.
Vào thời bấy giờ, xứ Sicily đang chìm đắm trong một
hoàn cảnh chính trị hỗn loạn. Dionysius đã thành
công trong việc lật đổ nền cộng hòa và thiết lập tại
Syracuse một chế độ chuyên chế. Dion, một người học
trò và cũng là bạn của Plato, đã thúc giục Plato nên
đảm nhận việc giáo dục Dionysius, đồng thời bạo chúa
của thành Syracuse này cũng mời ông qua Ý Đại Lợi.
Đây là một cơ hội để Plato thử áp dụng lý thuyết về
chính quyền vào một hoàn cảnh thực tế. Plato tới
Syracuse, được triều đình của nơi này coi như thượng
khách. Về sau có lẽ do sự trả lời bạo chúa một cách
vụng về hoặc vì tình bằng hữu của Plato đối với Dion
mà ông bị bạo chúa ghét bỏ. Plato bị tống giam và bị
trao cho viên thuyền trưởng Pollis, người xứ Sparta.
Pollis đã bán Plato tại Egina như một tên nô lệ.
Plato được Anniceris, một nhân vật thuộc trường phái
triết học Cyrenaic, chuộc ra với giá 20 mines. Ông
trở lại thành Athens vào năm 387.
Vào thời bấy giờ, nhiều môn đệ của Socrates đã thiết
lập các trường học. Plato cũng muốn giảng dạy về
Triết Học và Khoa Học. Ông liền thiết lập ngôi
trường “Academos” tại đầu kinh thành, gần Clone.
Ngoài Triết Học, nhà trường còn chú trọng tới Khoa
Học, Luật Pháp, Thiên Văn, Sinh Học, Toán Học và Lý
Thuyết Chính Trị. Ngôi trường này có thể coi là một
trường Đại Học chuyên đào tạo các học viên đủ khả
năng cai trị theo đúng Pháp Luật. Trường “Academos”
hay “Hàn Lâm Viện” có ban giảng huấn gồm các giáo sư
chuyên khoa như Theatetus, ông tổ của môn học không
gian. Nhờ các bậc thầy tài giỏi, nhà trường nhanh
chóng tạo được các kết quả tốt đẹp, học trò từ bốn
phương đổ về theo học rất đông. Aristotle đã là học
viên xuất sắc nhất của trường. Trường Academos nổi
danh hơn cả ngôi trường của Isocrates. Trường
Academos tiếp tục hoạt động trong hơn 8 thế kỷ, là
một trung tâm nghiên cứu và phổ biến nền triết học
của Plato (Platonic philosophy). Tại trường học này,
Plato thường diễn giảng mà không cần tới bản thảo và
các “bài toán” được đề nghị cho các sinh viên cùng
nhau giải đáp. Trong thời gian giảng dạy, Plato đã
viết ra nhiều tác phẩm vấn đáp (dialogues), phần lớn
những tài liệu giảng huấn này đã được lưu trữ và
dịch sang nhiều ngôn ngữ. Vài tác phẩm lừng danh ban
đầu của Plato gồm: Charmides, Euthyphro, Ion
và Laches,
Vào năm 366 trước Tây Lịch, khi đang nổi tiếng là
người đứng đầu ngôi trường Academos, Plato lại được
Dion mời qua làm ổn định tình hình chính trị tại
thành Syracuse. Vào thời gian này, Dionysius Già đã
chết, Dionysius Trẻ (Dionysius the Younger) lên thay
thế khi gần 30 tuổi. Vì bị cha ngăn cách với chính
trị, Dionysius Trẻ đã sống một cuộc đời lêu lổng.
Dion đã mời Platon vì muốn danh tiếng của ông có thể
làm cho Dionysius Trẻ kiêng nể, vì muốn nhà đại hiền
triết đảm nhiệm việc giáo dục vị vua còn trẻ này, và
cũng vì muốn tránh sự lấn quyền của xứ Carthage trên
đất Sicily.
Do tình bạn với Dion, Plato miễn cưỡng phải sang
Syracuse nhưng khi đến nơi, Dion đã bị lưu đầy, Vua
Dionysius Trẻ đã đón tiếp Plato rất huy hoàng nhưng
lại không chịu để Plato hướng dẫn, cũng như từ chối
các lời khuyên bảo. Không biết vì sao, Dionysius Trẻ
đã lưu giữ được nhà đại hiền triết trong gần một năm
trường và chỉ để ông ra đi với lời hứa sẽ trở lại.
Trở về Athens, Plato tiếp tục dạy học. Trong thời
gian này, ông đã soạn các cuốn sách đặc sắc như
The Republic, The Sophist và Theaetetus...
Tới năm 361 trước TL, Dionysius Trẻ phái một con tầu
qua xứ Athens, nhắc lại lời hứa khi xưa và mời Plato
sang Syracuse. Dionysius còn hứa sẽ đón Dion trở về
từ nơi lưu đầy. Plato đã nhận lời vì nghĩ tới Dion,
vì muốn khuyên nhủ Dionysius “đừng nô lệ hóa Sicily
hay áp chế một xứ sở nào mà phải cai trị nơi đó bằng
Luật Pháp”. Plato đã được Dionysius đón tiếp tại
Syracuse một cách rất nồng hậu nhưng mặc dù những
lời tha thiết của Plato, Dion vẫn không được trả tự
do. Hơn nữa, bạo chúa này còn từ chối “thi hành một
cách ngay thẳng” và đã không để cho “Triết Học và
quyền hành thực sự gặp nhau”. Plato muốn bỏ ra về
một lần nữa, ông bị bắt giam. Sau nhờ Archytas of
Tarentum can thiệp, ông mới được phép rời khỏi
Syracuse.
Trở về Athens, Plato nhất định không bao giờ dính
líu vào chính trị nữa mặc dù nhiều học viên thuộc
trường Academos của ông đã gia nhập vào công cuộc
viễn chinh của Dion chống lại Dionysius vào năm 357
mà kết quả là sự sụp đổ của chế độ bạo tàn.
Trong các năm cuối đời, Plato sống tại thành Athens
và đã soạn ra các tác phẩm như Timaeus, Crito
và cuốn sách dang dở The Laws. Plato qua đời
vào năm 348 hay 347 trước Tây Lịch, giữa thời kỳ
nước Hy Lạp bị Philip II, vua miền Macedonia, xâm
chiếm.
2/ Các tác
phẩm của Plato.
Các tác phẩm còn lưu truyền tới ngày nay của Plato
gồm 35 tập đối thoại (dialogues) và 13 bức thư, một
số tập này và bức thư bị nghi ngờ về tính đích thực.
Đối thoại là một hình thức viết văn trong đó trình
bày hai hay nhiều nhân vật, đặt ra một vấn đề, bàn
luận các chỉ trích và các tương phản giữa các ý
tưởng triết học. Các nhân vật trong tác phẩm với các
cá tính khác nhau, quan điểm khác nhau đã thảo luận
cũng như tranh cãi cùng nhau về nhiều mặt đối nghịch
của một đề tài. Plato đã dùng phương pháp biện chứng
của Socrates để trao đổi các ý tưởng. Trong các đối
thoại, Socrates đã gặp gỡ một người tự cho là hiểu
biết nhiều, đặt các câu hỏi cho người này rồi dần
dần đưa tới phần kết luận là người này chưa đủ hiểu
biết. Socrates như vậy đã hiện dần ra như một người
khôn ngoan (the wiser) bởi vì ít nhất, ông ta đã
biết rằng ông không biết gì cả.
Các tập đối thoại ban đầu của Plato gồm:
Tác phẩm
Charmides, một cố gắng định nghĩa sự điều độ
(temperance),
Tác phẩm
Lysis thảo luận về tình bạn
(friendship),
Laches là cuốn sách đi tìm ý nghĩa của
lòng cam đảm,
Protagoras
bảo vệ luận đề cho rằng đức tính là kiến thức
(virtue is knowledge) và sự kiện này có thể giảng
dạy được
Tác phẩm
Euthyphro khảo
sát bản chất của lòng tôn kính (the nature of piety)
và tập I của cuốn The Republic (Nền Cộng Hòa), một
khảo sát về công lý (justice).
Các tác phẩm viết ra trong các thời kỳ giữa cuộc đời
của Plato đã phản ánh cách phát triển triết học, dù
cho Socrates vẫn còn là nhân vật trong đa số các đối
thoại. Thuộc thời kỳ giữa là:
Tác phẩm
Gorgias, một
khảo sát nhiều câu hỏi đạo đức (ethical questions),
Meno thảo luận bản chất của kiến thức (knowledge)
còn trong tác phẩm Apology, Socrates tự biện hộ tại
tòa án chống lại lời buộc tội vô thần (atheism) và
tội làm hư hỏng giới trẻ của thành Athens
Tác phẩm
Crito là lời bào chữa của Socrates về việc tuân theo
các luật lệ của quốc gia,
Phaedo mô tả cảnh từ trần
của Socrates và trong tác phẩm này, Plato đã thảo
luận lý thuyết “Hình Thức” (the theory of Forms),
bản chất của linh hồn (soul) và câu hỏi về tính bất
tử (immortality).
Tác phẩm Symposium là một công
trình xuất sắc gồm nhiều bài nói chuyện về vẻ đẹp và
tình yêu,
The Republic (Nền Cộng Hòa) là một công
trình lớn lao, khảo cứu môn chính trị và đây là một
thành quả triết học xuất sắc qua đó Plato thảo luận
từng chi tiết bản chất của công lý (justice), đặt ra
các câu hỏi như “thế nào là một quốc gia chính đáng”
(what is a just state), “thế nào là một cá nhân
chính đáng” (what is a just individual).
Các tác phẩm thuộc thời kỳ cuối cuộc đời của Plato
gồm:
Theaetetus, một phủ nhận điều cho rằng kiến
thức do các cảm nhận giác quan,
Parmenides là tác
phẩm lượng giá lý thuyết “Hình Thức” (the theory of
Forms), Sophist là cuốn sách cứu xét lý thuyết về
các ý tưởng (the theory of Ideas),
Philebus thảo
luận sự liên hệ giữa khoái lạc và điều tốt lành
(pleasure and the good), Timaeus cho thấy quan điểm
của Plato về Khoa Học Thiên Nhiên và Vũ Trụ Học, và
tác phẩm The Laws (Luật Pháp) đã phân tích thực tế
các vấn đề chính trị và xã hội.
3/ Ảnh hưởng của nhà Đại
Hiền Triết Plato.
Sau khi Plato qua đời, người cháu của ông tên là
Speusippus trở thành Viện Trưởng của trường
Academos. Trường Đại Học này tiếp tục hoạt động cho
tới năm 529 sau Tây Lịch, khi Hoàng Đế Byzantine là
Justinian I ra lệnh đóng cửa vì cho rằng trường phổ
biến các lời giảng dạy tà giáo (pagan teachings).
Tuy nhiên ảnh hưởng của Plato đã được lan truyền
khắp nơi. Nền triết học của Plato đã thể hiện qua
tác phẩm của Philo Judaeus, nhà triết học Do Thái,
cư ngụ tại thành Alexandria vào thế kỷ thứ 1 sau Tây
Lịch. Vào thế kỷ thứ 3, nhà triết học Plotinus đã
khai triển nền triết học Plato-Mới (Neoplatonism)
tại thành phố Rome. Các nhà thần học Clement of
Alexandria, Origen, Boethius và Thánh Augustine là
những người chịu ảnh hưởng của nền triết học
Platonic đồng thời các ý tưởng của Plato đã đóng vai
trò chính yếu trong việc phát triển nền thần học
Thiên Chúa giáo (Christian theology) cũng như các tư
tưởng Hồi giáo (Islamic thoughts) của thời Trung Cổ.
Qua thế kỷ 13, Aristotle đã là nhà triết học Cổ Hy
Lạp gây nên nhiều ảnh hưởng mạnh nhất trong thế giới
tư tưởng Thiên Chúa giáo nhưng bước sang thời kỳ
Phục Hưng (the Renaissance), Hàn Lâm Viện Florantine
do gia đình Medici thiết lập, lại chú trọng vào nền
triết học của Plato. Được thành lập vào thế kỷ 15
gần thành phố Florence, các nhân viên của Hàn Lâm
Viện này dưới sự điều khiển của Marsilio Ficino, đã
nghiên cứu các tác phẩm của Plato viết bằng tiếng Hy
Lạp.
Tại nước Anh, học thuyết của Plato đã sống lại vào
thế kỷ 17 do Ralph Cudworth và các người cộng tác,
những học giả này được gọi là The Cambridge
Platonists (nhóm theo Plato thuộc trường Đại Học
Cambridge). Họ cố công dùng các lời giảng dạy của
Plato và cách diễn đạt của nhóm Neoplatonist để làm
hòa hợp lý trí (reason) với tôn giáo. Qua thế kỷ 20,
các nhà tư tưởng như Alfred North Whitehead cũng
nghiên cứu và phổ biến các công trình của Plato.
Các tác phẩm đối thoại của Plato đã được dịch sang
nhiều ngôn ngữ khác nhau và được phổ biến bằng nhiều
ấn bản. Một trong các bản dịch được nhiều học giả
biết tới nhất là của ông Benjamin Jowett
(1), thuộc trường Đại Học Oxford, nước Anh.
Athens (Athènes) |