Những bài cùng tác giả
Đậu nành—Nattokinase và khả
năng ngăn ngừa các bệnh về tim mạch
Lời dẫn
Trước khi đi vào chủ đề chính của bài viết: Đậu nành—Nattokinase và khả
năng ngăn ngừa các bệnh về tim mạch, tác giả xin giới thiệu thật sơ lược
một số nét đặc trưng về các chứng bệnh nầy trong đó đặt trọng tâm vào
những hoạt chất có trong đậu nành hay đậu nành lên men (Natto) giữ vai
trò khá độc đáo qua phát hiện của các nhà khoa học, chuyên gia nghiên
cứu y khoa trên thế giới đã công bố trong hơn 20 năm qua. Thành quả
nghiên cứu về enzym Nattokinase--từ hạt đậu nành đã nấu chín được lên
men-- rất tình cờ của GS Sumi Hiroyuki (Nhật bản) là một “phát hiện” kỳ
thú mang lại kết quả tốt đẹp cho biết bao người đang đứng trước nguy cơ
đột quỵ, tai biến mạch máu não cũng như dồn máu cơ tim, co thắt động
mạch vành…Tác giả nghĩ rằng không thể lý giải một cách khoa học và mất
hẳn thú vị trong khi tìm hiểu tác dụng của “Nattokinase” nếu không được
trang bị một kiến thức tối thiểu về ngành y, đặc biệt là bộ môn Tim Mạch
hiện đại. Vì lẽ đó xin mời bạn đọc “chịu khó”làm quen với những kiến
thức cơ bản dưới đây nhất là chú ý đến sự tác động và chuyển hóa nội
sinh của những Enzym làm đông máu do lượng mỡ trong máu quá cao gây nên,
và Enzym (Plasmin) duy nhất làm phá tan những vón (cục)máu tồn đọng bám
chặt ở nội mạc-- cản trở dòng máu đưa dưỡng khí trở về tim, lên não bộ
để duy trì mọi hoạt động bình thường của cơ thể để duy trì sự sống .
Nếu những” con đò”vận chuyển luân lưu tuần hoàn nầy trục trặc thì…tai
biến sẽ đến với chúng ta, cơ thể sẽ phản ứng kịch liệt từ triệu chứng
tim đập mạnh, hồi hộp, khó thở đến đau thắt ngực, đột quị, bại liệt …và
cuối cùng là dẫn đến điều đau buồn nhất khi trái tim ngừng đập hay tế
bào não bị hoại tử do thiếu máu hoặc dưỡng khí. Trong quá trình đó,
Nattokinase sẽ phải làm gì khi được nạp vào cơ thể qua bộ máy tiêu hóa,
liệu nó có ích thật sự hay chỉ là sự tưởng tượng tô vẽ để quảng cáo ?
Lời giải nầy sẽ bắt đầu từ đây…
Mặt khác, điều quan trọng nhất mà tác giả xin mạn phép nhắc lại “Thực
phẩm chức năng” không phải là thuốc trị bệnh trực tiếp và thường được
thổi phồng để tiếp thị, đa phần mang tính chất lừa gạt nhất là qua các
chiêu thức thương mại “truyền tiêu đa cấp” như chúng ta đã thấy. Hai là
đây không phải một” bài báo học thuật” (Academic paper) mà là một bài
“chuyên khảo” vì vậy tác giả tránh ghi chú rườm rà từng chi tiết trích
dẫn mà chỉ để chung vào phần tư liệu tham khảo ở cuối bài cho dễ đọc,
mong các tác giả liên quan thông cảm và lượng thứ.
Người viết sẽ không vui khi bài báo về Nattokinase nầy bị lợi dụng để
tuyên truyền, quảng cáo cho một loại thực phẩm chức năng đi từ
Nattokinase mà chất lượng của chúng không thông qua kiểm định chất lượng
của cơ quan y tế có trách nhiệm của nước sở tại và không có sự đồng ý
của tác giả.
Lời khuyên mà chúng tôi muốn gửi đến bạn đọc là hãy trở về với thiên
nhiên, có cuộc sống lành mạnh và an vui với những hạt đậu nành óng ánh
quí báu mà tạo hóa đã ban cho để gìn gìn sức khỏe, trong đó ngăn ngừa
được các chứng tim mạch, đột quị mà chi phí chữa trị vô cùng tốn kém,
không kể bao nhiêu điều đau khổ khác khi gặp tai biến…
Nội dung gồm có 3 chương:
(1) Về các biến chứng tim mạch
(2) ” Natto” là gì ?
(3) Phát hiện độc đáo của GS Sumi Hiroyuki (Nhật bản)
Ngoài ra chúng tôi còn đính kèm một bài phỏng vấn GS Sumi Hiroyuki để
bạn đọc tham khảo.
Phần một
Về các biến chứng tim mạch

Chảy máu não
Phần một
Các biến chứng tim mạch:
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đột quỵ (tai biến mạch máu
não) là tình trạng rối loạn chức năng thần kinh gồm hai loại chính là
nhồi máu não và xuất huyết não. Trong đó, 80% đột quỵ là do nhồi máu
não. Tổn thương này làm giảm đột ngột hoặc ngưng hoàn toàn việc cung cấp
máu đến não.
Cholesterol—thủ phạm gây tai biến
Đến tuổi 50 khi khám sức khỏe định kỳ, chúng ta thường yêu cầu các bác
sĩ làm hàng loạt xét nghiệm cơ bản như thử nước tiểu, phân, máu…sau khi
đo nhịp tim, huyết áp. Tại sao chúng ta thường thấy bác sĩ đặt ống nghe
vào ngực ngay khi bắt đầu “khám”, gõ nhẹ vào khớp gối, nhìn vào sắc diện
và trong quá trình trao đổi, vị bác sĩ khả kính tìm hiểu sinh hoạt
thường nhật như chế độ ăn uống, vận động, giấc ngủ, nghỉ
ngơi và cả chu kỳ kinh nguyệt của nữ giới…để làm gì ? Đặc biệt là bên
cạnh điện tâm đồ và điện não đồ, việc chụp X-quang, Siêu âm hay Chụp cắt
lớp điện toán (CT.Scanner), Nội soi, Sinh thiết (Biopsy)… và hàng loạt
xét nghiệm “chuyên sâu” bắt buộc khi có yếu tố nào đó bị nghi ngờ “có
vấn đề”…mặc dù những chỉ số về hàm lượng mỡ (Cholesterol và
Triglyceride) trong máu, huyết áp, mạch đập thường được xem xét đầu
tiên, cho biết cơ thể nói chung và quả tim nói riêng bình thường hoặc có
gì “trục trặc” mà mắt thường không thể thấy được. Từ tuổi 49 trở đi, như
câu nói “49 chưa qua 53 đã tới”, chu kỳ sinh học của con người bắt đầu
xảy ra nhiều xáo trộn, bước vào lớp người “tri thiên mệnh” vì vậy việc
khám phá ra một chứng bệnh nan y nào đó trong cơ thể là điều bình
thường. Vấn đề quan trọng là phát hiện sớm để ngăn ngừa và chữa trị
trước khi quá muộn như bệnh đái tháo đường, tim mạch, ung thư…dẫn đến
các biến chứng khác như thần kinh, tuần hoàn, tiêu hóa, hô hấp, vận động
(xương khớp) hay tai mắt gây điếc hoặc mù lòa (các biến chứng nghiêm
trọng của bệnh đái tháo đường).
Ở Mỹ, hàng năm có khoảng 6 triệu người bị suy tim, trong số này khoảng
1,5 triệu bị bệnh tim mạch và 1/3 của con số đó bị tử vong. Khoảng 1/5
trong số các trường hợp bị bệnh tim mạch không hề có triệu chứng hay
cảnh báo trước. Tỷ suất đàn ông người Mỹ chết vì bệnh tim là khoảng
200/100,000 dân số trong khi người Scotland là 320/100,000 ; Anh là
250/100,000 cao gấp hai lần so với các nước như Hòa Lan, Pháp. Riêng ở
Nhật bản tỷ suất đàn ông chết vì bệnh tim chỉ là 20/100,000 dân số, mức
thấp nhất trong các nước phát triển. Vào năm 1970 nhiều nghiên cứu cho
thấy tỷ suất tử vong vì bệnh tim liên quan mật thiết với lượng tiêu thụ
chất béo động vật. Hai lần thực nghiệm lâm sàng lớn ở Hoa kỳ với 360,000
người tham gia cũng đưa đến kết luận rằng những người ăn nhiều chất béo
động vật có nguy cơ bệnh tim rất cao so với những người ăn chay, không
ăn hay ăn ít chất béo động vật. Cùng là người Nhật nhưng người Nhật ở
trong nước vẫn có tỷ suất chết vì bệnh tim thấp hơn người sống tại Mỹ là
một so sánh thú vị.
Tuy nhiên quan hệ giữa Cholesterol và chế độ ăn uống, mức hấp thu chất
béo động vật vẫn còn nhiều bí ẩn, vì có khi ngược lại, không theo công
thức tỷ lệ thuận kể trên, không phải ăn nhiều chất béo động vật là hàm
lượng cholesterol trong máu cao, cơ thể có chức năng tự nó điều chỉnh
sản lượng cholesterol cần thiết cho bản thân nó để duy trì sự ổn định,
tức là nếu lượng cholesterol từ thức ăn giảm (hay thiếu) thì cơ thể sẽ
tăng cường sản xuất cholesterol; ngược lại nếu cholesterol từ thức ăn
tăng thì cơ thể sẽ giảm việc sản xuất và có khoảng 20 gen dính dáng đến
quá trình điều chỉnh và chuyển hóa nầy. Ví dụ một gen có tên
Neuropeptide (NPY) đóng vai trò điều chỉnh mức độ cần thiết và có những
người với một bản của gen có mức độ cholesterol cao hơn những người
không có bản gen đó. Vì vậy cũng còn có ý kiến nghi ngờ rằng”Những bằng
chứng khoa học đằng sau mối liên hệ giữa chế độ ăn uống, cholesterol và
bệnh tim rất mong manh” (TS Nguyễn văn Tuấn).
Cholesterol là một loại mỡ (lipid) rất quan trọng đối với hoạt động sống
của cơ thể, giữ vai trò trung tâm xây dựng màng tế bào, các hormon sinh
dục, tái tạo Vitamin D và thúc đẩy quá trình tiêu hóa, tuy nhiên nếu hàm
lượng Cholesterol trong máu tăng quá mức sẽ làm tăng nguy cơ bị xơ vữa
động mạch, kèm theo đó là bệnh tăng huyết áp, bệnh mạch vành với các
biến chứng nguy hiểm như nhồi máu cơ tim, đột quỵ.
Về phương diện hóa học, Cholesterol là một chất béo, dựa vào cấu trúc
phân tử, chất béo trong thực phẩm dưới ba dạng chính:
-không bão hòa ở dạng đa phân (poly-unsaturated)
-không bão hòa ở dạng đơn phân (mono-unsaturated)
-bảo hòa (saturated)
Chất béo bão hòa là những chất béo có nguồn gốc từ động vật (kể cả sữa,
phô- mai) trong nhiệt độ trung bình (25 °C) chúng là một khối đặc trong
khi chất béo không bão hòa dạng đơn thường tìm thấy trong trái olives,
đậu phụng, trái b ơ …còn chất béo không bão hòa dạng đa phân thường thấy
trong ngô (bắp), mè, rau cải… trong đó quan trọng nhất là Cholesterol
dưới dạng bão hòa trong động vật và một số thực vật như dầu dừa.
Cholesterol được chế biến trong Gan .Cholesterol LDL được chuyển từ Gan
đến nơi (bộ phận) nào trong cơ thể cần, còn HDL thì được chở vào Gan để
sản xuất ra Hormon hay thải ra ngoài qua túi mật. Hệ thống chế biến và
vận chuyển Cholesterol làm việc một cách nhịp nhàng trong cơ thể khỏe
mạnh, siêng năng có mặt khắp cơ thể con người nhưng khi cơ thể bị đau
tim (nhồi máu—heart attack) thì các phân tử Cholesterol đến tập trung
dồn cục làm rối loạn, tắc nghẽn động mạch…vì vậy các nhà khoa học cho
rằng Cholesterol là thủ phạm gây huyết áp (HA) cao gây tai biến tim
mạch.
Nơi có nhiều nhất trong cơ thể là não và hệ thống thần kinh vì
Cholesterol làm bức tường ngăn phần bên trong và bên ngoài thần kinh tế
bào không thấm nước và chính vì đặc tính không tan (trong nước và trong
máu) nên gây ra hiệu ứng ngược lại là tạo cản trở tuần hoàn hay lưu
thông máu huyết trong cơ thể khi vón thành cục. Trong cơ thể,
Cholesterol được chuyên chở trong các hạt phân tử hình cầu (sperical
particles) gồm có nhiều chất Lipoprotein. Những phân tử hình cầu nầy
chuyên chở Cholesterol đi khắp cơ thể, mỗi phần tử có thể chuyên chở
1500 phân tử (molecules) và hành trình của chúng thường kéo dài 24 giờ.
Nhưng có nhiều loại phần tử mang trách nhiệm vận chuyển khác nhau:
*Loại lipoprotein có tỉ trọng cao (High density lipoprotein:HDL)…tốt,
phải trên >35 mg/dl
*Loại lipoprotein có trọng lượng thấp (Low density lipoprotein:LDL)…xấu,
phải dưới < 160 mg/dl
Người ta được biết 60%-80% Cholesterol trong máu được chuyên chở bằng
LDL và khoảng 15-20% được chuyên chở bằng HDL. Phần còn lại, dưới 25%
được các phần tử khác vận chuyển. Cholesterol bị khử từ các tế bào vận
chuyển, đưa vào Gan để xử lý trước khi thải ra ngoài là loại HDL (tốt)
và loại từ Gan đi vào các tế bào là loại xấu (LDL). Thông thường hàm
lượng HDL ít hơn LDL theo tỷ lệ 1/3 hay 1/5 và LDL là hàm lượng biểu
kiến để định “bệnh” mỡ trong máu của bệnh nhân theo kết quả xét nghiệm .
Cholesterol là một trong những nguyên nhân nghẽn tim, Cholesterol càng
nhiều thì mức độ nguy hiểm càng cao.Tình trạng tắc nghẽn tim còn gọi là
xơ vữa động mạch (Arteriosclerosis) tức các mạch tim bị giảm khả năng
đàn hồi (co bóp) và khi động mạch không còn đàn hồi thì máu và oxy không
thể đến cung cấp cho cơ tim, tim sẽ không vận hành bình thường, tạo ra
tình trạng khó thở. Chứng xơ cứng động mạch thông thường là Xơ vữa động
mạch (atherosclerosis) ảnh hưởng đến các động mạch chuyển máu vào tim,
não, thận và chi với triệu chứng dễ thấy là khi cholesterol bắt đầu lắng
đọng (tích tụ) thành những vết béo trên lớp ngoài của động mạch. Những
vết béo nầy là những tiểu thực bào (microphages), là một tế bào máu
trắng mà chức năng của chúng là “ăn” (thủ tiêu) những tế bào bị hư hại
hay đã chết. Theo thời gian, các tiểu thực bào nầy bám vào vách của động
mạch và làm cho sự luân chuyển của động mạch trở nên bất bình thường.
Calcium cũng tích tụ vì vậy người bị bệnh đau tim thường bị vôi hóa động
mạch. Tiểu cầu (Platelet), những tế bào máu có nhiệm vụ làm những vón
cục máu (Clot), tích tụ phía trên mảng thành một khối cứng bao quanh
vành động mạch, gây ra chứng huyết khối (Thrombus), huyết khối tích tụ
lâu ngày sẽ dày làm bít đường kính của động mạch và làm tắt nghẽn hoàn
toàn. Động mạch có thể bị vỡ hay một huyết khối có thể bị tách rời
(bung) ra làm bít các động mạch nhỏ. Thành phần của huyết khối là những
chất béo, chúng rất dễ vỡ và đột nhiên ngăn cản lưu thông , làm cho tim
mất nguồn cung cấp máu. Sự kiện nầy xảy ra khi máu chảy qua những động
mạch vỡ thành những mảnh nhỏ, thải những chất béo ra ngoài, hình thành
những cục máu (vón), mỗi lúc một lớn dần làm nghẽn hoàn toàn động mạch.
Hiện tượng nầy chỉ xảy ra trong vòng vài phút và hậu quả cuối cùng là
chứng huyết khối động mạch vành (Coronary Thrombosis), bệnh nhân cảm
thấy đau ngực không chịu đựng nổi. Nếu động mạch bị nghẽn kéo dài, cơ
tim sẽ hoại tử và cuối cùng là bệnh nhân tử vong vì bị nhồi máu cơ tim
(MyoCardial Infarction). Nói tóm lại huyết khối là chất sợi (Fibre),
chính chất sợi nầy làm cho đường kính của động mạch bị hẹp dần gây đau
thắt ngực (Angina) khi động mạch bị thắt lại, làm cho máu không lưu
thông vào tim theo một tốc độ cần thiết và nó chính là thủ phạm đưa đến
cái chết bởi chứng nhồi máu cơ tim .

Huyết khối gây nhồi máu cơ tim

Huyết khối gây nghẽn mạch phổi
Box 1. Các loại Bệnh tim mạch phổ biến nhất
-bệnh động mạch vành (Coronary Artery Disease)
-bệnh nhồi máu cơ tim(Myocardial Infarction)
-bệnh tăng huyết áp(Hypertension)
-Bệnh cơ tim dãn không rõ nguyên do(Idiopathic Dileated Cardiomyopathy)
-Viêm cơ tim(Myocarditis)—Bệnh Cơ tim(Cardiomyopathies)
-Bệnh hẹp van tim(Valvular Heart Disease)
-Bệnh cơ tim phì lớn(Hypertropic Cardiomyopathy)
-Bệnh cơ tim hạn chế(Restrictive Cardiomyopathy)
-Bệnh màng tim(Percardial Disease)
-Bệnh tim bẩm sinh(Congetinal Heart Disease)
-Rối loạn nhịp tim(Arythmias)
-Chứng thiếu máu(Ischaemia)—bệnh thiếu máu(Ischaemic Heart Disease)…
Có thể tóm lược lại như sau:
(1) Chất béo bão hòa có khuynh hướng kích thích
gan sản xuất thêm cholesterol và làm tăng hàm lượng của mỡ trong máu lên
cao. Hậu quả là làm xơ cứng động mạch, làm nghẽn mạch vành của tim, gây
đau thắt ngực, tăng nguy cơ đột quị tim, tăng huyết áp động mạch có thể
dẫn đên tai biến mạch máo não.
(2) Năm 1998, nghiên cứu của nhóm Cherl-Ho-Lee ( S.J. Cho, M.A Juillerat
và C.H Lee) phát hiện cơ chế của hiệu quả làm giảm Cholesterol trong gan
nhờ protein đậu nành tác động thủy phân (hydrolysate)— làm tan-- các
loại mỡ (chất béo) có trong gan khi cơ thể hấp thụ những loại chất béo
bão hòa qua thực phẩm, giảm lượng thụ thể LHL-R (Low Density Lipoprotein
Receptor) nhờ vậy Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã
công nhận protein của đậu nành là một hoạt chất làm giảm (hạn chế) bệnh
tim mạch (Cardiovascular Disease) vào năm 1999. 50 % bệnh nhân có hàm
lượng mỡ trong máu cao ở châu Âu
chết vì các chứng tim mạch và chi phí trị liệu lên đến 200 tỷ USD/năm.
Chính Protein của đậu nành (SPI) chứ không phải Isoflavones (đậu nành)
đã kết hợp làm giảm mỡ trong máu thấp đi (The American Journal of
Clinical Nutrition Vol. 83) do tác động sinh học tích cực của Peptides
của đậu nành khi thẩm thấu vào tế bào gan (Hepatic cells) .
(3) Hệ thống phân hủy sợi Fibrin từ Fibrinogen*
(nút huyết khối là trung gian xẩy ra nhồi máu cơ tim cấp (AMI)là một hệ
enzym nội sinh trong huyết tương có tên là Plasmin (TS Sumi Hiroyuki
chứng minh Nattokinase mạnh gấp 4 lần so với Plasmin) có khả năng tiêu
tán (phân giải) Fibrin, bình thường hóa hoạt động lưu thông trong động
mạch, máu huyết trở lại trạng thái luân chuyển tự nhiên sau khi cầm được
máu nhờ những sợi Fibrin hãm lại, làm đông máu (vết thương) giúp cơ thể
không mất máu quá nhiều (băng huyết).
Box 2. *Sợi Fibrin
Fibrinogen là một chất có trong huyết tương (yếu tố đông máu) chịu tác
động của Enzym thrombin để sinh ra một loại protein không hòa tan gọi là
Fibrin trong giai đoạn cuối của quá trình đông máu. Mức Fibrinogen bình
thường trong huyết tương là 2-4 g/l
Hoạt tính phân hủy Fibrin được duy trì bình thường trong cân bằng nội mô
bởi một số chất ức chế tuần hoàn. Sử dụng thuốc tan huyết khối ngoại
sinh làm hoạt hóa hệ thống thủ tiêu Fibrin bình thường qua nhiều con
đường khác nhau, tất cả những con đường cuối cùng dẫn tới việc biến
Plasminogen thành Plasmin, có tác dụng phân giải huyết khối trong vòng
24-48 giờ sau khi trị liệu.
Có 5 loại thuốc tan huyết khối (FDA Hoa kỳ):
-Alteplase (t-PA) có nguồn gốc từ tái tổng hợp DNA…ngăn ngừa AMI (Nhồi
máu cơ tim cấp) là thuốc tan huyết khối đặc hiệu, không gây hiệu ứng
phân hủy toàn thân mà chỉ tập trung vào vị trí hình thành huyết khối
(nghĩa là chúng kết hợp chọn lọc với Plasminogen đã gắn với Fibrin)
nhưng chỉ là tương đối, với liều cao vẫn có thể gây hiệu ứng không mong
muốn.
-Streptokinase có nguồn gốc từ cầu khuẩn tan máu Beta…ngăn ngừa AMI.
-Urokinase (UK) có nguồn gốc từ chất tiết tế bào thận người (nước
tiểu)…trị huyết khối ở tĩnh mạch sâu, nghẽn mạch phổi…
-Tổng hợp hoạt hóa Streptokinase Plasminogen Anisoylat hóa (APSAC)…ngăn
ngừa AMI.
-Tenecteplase, một dạng biến đổi Plasminogen thành plasmin có hiệu quả
hơn t-PA và Alteplase là dễ dùng và dạng viên tiêm tĩnh mạch thuốc qua
nhanh qua 5 giây có thể làm tăng hiệu lực của việc điều trị sớm nhồi máu
cơ tim cấp.
Trong đó Streptokinase là một hoạt chất Plasminogen phổ biến nhưng gây
phản ứng phụ là có khả năng phân hủy hệ thống (toàn thân), tiềm tàng cảm
ứng làm tăng tụ huyết khối thông qua việc tăng giải phóng Thrombin ( tụ
huyết) được gọi là hiệu ứng trợ đông trở lại làm chậm tốc độ tan huyết
sớm. Urokinase và Streptokinase thuộc cùng loại thuốc nhưng Urokinase
đắt hơn rất nhiều vì vậy Streptoninase thường là thuốc hàng đầu dùng để
điều trị AMI.
Điều đáng lưu ý Chảy máu liên tục là biến chứng nguy hiểm nhất của trị
liệu làm tan huyết khối, gọi là hiện tượng băng huyết (không cầm máu).
Chảy máu do trị liệu làm tan huyết khối có thể gây chảy máu nội tạng nhẹ
hoặc nặng. Chảy máu tự phát ít nghiêm trọng bao gồm các hiện tượng như
tụ máu bề mặt, đái ra máu, chảy máu răng lợi và ho ra máu. Chảy máu tự
phát nặng bao gồm chảy máu não, sau màng bụng, sinh dục tiết niệu và
đường tiêu hóa. Chảy máu thường xảy ra nhất tại các vị trí luồn ống
thông (Catheter) để bơm thuốc hay rút dịch hoặc vị trí chọc tĩnh mạch.
Hiện nay Wafarin (một chất dẫn xuất Coumarin) là thuốc chống đông
đường uống được sử dụng rộng rãi nhất và là liệu pháp lý tưởng để điều
trị huyết khối tĩnh mạch sâu cấp và tắc mạch phổi cấp. Wafarin được xem
là loại thuốc lý tưởng để phòng ngừa đột quỵ cho bệnh nhân rung nhĩ, rối
loạn chức năng thất nặng và bệnh van tim.Tuy nhiên các bác sĩ chuyên
khoa tại Nhật bản khuyến cáo là khi sử dụng Wafarin để chữa bệnh, chống
đông máu (huyết khối) thì tránh ăn Natto vì Vitamin K sẽ cản trở
tác dụng của thuốc nhất là những bệnh nhân có huyết khối ở tĩnh mạch.
Quá trình đông máu là sự tương tác và chuyển hóa phức tạp của các tế
bào, protein và các hormon tại chỗ. Rối loạn đông máu và ngưng kết tiểu
cầu làm tăng nguy cơ huyết khối và các biến cố tắc mạch, tái tắc mạch
sau điều trị tái thông mạch vành. Đầu tiên thành mạch vành (nội mạc) bị
tổn thương giải phóng Thromboxan kích thích kết tập tiểu cầu. Sự hình
thành “nút” tiểu cầu là giai đoạn đầu tiên trong hai giai đoạn riêng
biệt của quá trình hình thành cục máu đông và có lẽ là giai đoạn chủ yếu
làm ngưng chảy máu. Giai đoạn hai bao gồm một chuỗi phản ứng phối hợp
sản sinh Thrombin, Thrombin xúc tác chuyển Fibrinogen thành Fibrin. Các
tế bào hồng cầu dính vào lưới sợi Fibrin cuối cùng hình thành cục máu
đông thực sự. Nói chung, huyết khối tĩnh mạch gồm có sợi Fibrin và các
tế bào hồng cầu, trong khi huyết khối động mạch được hình thành từ sự
kết tập tiểu cầu. Vì vậy các thuốc chống kết tập tiểu cầu được dùng để
ngăn ngừa huyết khối động mạch còn các thuốc chống đông được sử dụng để
ngăn ngừa huyết khối tĩnh mạch. Aspirin là chất chống tiểu cầu (huyết
khối ở động mạch) hữu hiệu tuy nhiên có nhiều phản ứng không mong muốn
như làm loãng máu, xuất huyết nội mạc bao tử…nếu dùng trong một thời
gian dài. Vì vậy Bác sĩ chuyên khoa thường cho bệnh nhân uống Aspirin
liều thấp (81 mg) để ngừa bệnh huyết khối tích tụ trong mạch máu, tăng
cường lưu thông máu huyết cho những người có huyết áp cao. Đối với người
không dung nạp được Aspirin thì thay bằng Clopidogel . Kết quả
làm giảm tỷ lệ tử vong, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não…tương tự
như Aspirin.
Các tác dụng phụ chủ yếu của các thuốc làm tan huyết khối là chảy máu,
dị ứng ( như Streptokinase làm tụt huyết áp, loạn nhịp tim, nhồi máu cơ
tim tái phát) và đau thắt ngực. Đối với thuốc chống tiểu cầu, cả Aspirin
và Ticlopidin đều gây nhiễm độc máu nhưng giảm bạch cầu trung tính là
mối lo ngại lớn nhất khi dùng Ticlopidin.
(4) Bệnh động mạch vành dùng để chỉ tình trạng bệnh lý khi động mạch
(ĐM) bị hẹp lại (hoặc tắc nghẽn) tình trạng hẹp hay tắc nghẽn lòng ĐM và
là xơ vữa ĐM. Khi lòng ĐM vành bị hẹp lại đến một mức độ nào đó thì dòng
máu đến để nuôi tim sẽ không đủ dẫn đến tình trạng thiếu máu cơ tim. Hầu
hết các trường hợp bệnh ĐM vành là do xơ vữa ĐM gây nên. Nguyên nhân
bệnh lý thì chưa rõ vì vậy người ta dùng khái niệm là yếu tố nguy cơ của
bệnh ĐM vành: HA cao, rối loạn lipid máu (LDL cao, HDL thấp,
Triglyceride cao). Hẹp lòng ĐM vành sẽ gây ra tình trạng thiếu máu cơ
tim, bệnh nhân bị đau ngực, suy tim, rối loạn nhịp tim và nguy cơ bị
nhồi máu cơ tim cấp. Khi mảng xơ vữa động mạch trong lòng ĐM vành vỡ ra
thì sẽ làm bít tắc hoàn toàn ĐM vành và gây ra thiếu máu cơ tim trầm
trọng cấp tính, hoại tử cơ tim—còn được gọi là nhồi máu cơ tim cấp và tỷ
lệ đưa đến tử vong rất cao. Chương trình điều tra của Đại học Harvard
vào năm 1989 trên 20,000 Bác sĩ Hoa kỳ, kết luận rằng với 1 viên Aspirin
liều thấp có thể giảm bệnh tim mạch đến 44% nhờ tác dụng làm loãng máu
(tan vón máu trong động mạch) vì vậy thuốc trị nhức đầu như Aspirin 81,
Clopidogel hay Plavix (hỗn hợp giữa Aspirin và Clopidogel giá rất đắt,
gấp nhiều lần)… đều được sử dụng cho người có nguy cơ tim mạch hay huyết
áp cao, trước khi can thiệp bằng cách bằng cách nông mạch vành qua da
hay phẫu thuật bắt cầu mạch vành (by-pass), đặt Stent.
Box 3. Các chứng bệnh không lây lan và vai trò
của dinh dưỡng
*Tim mạch và tai biến giết 12 triệu người/năm
* Ước lượng có 177 triệu người bị Tiểu đường týp 2
(Trong đó 2/3 là người mắc bệnh là ở các nước đang phát triển)
* Hơn 1 tỷ người thừa trọng lượng (béo phì)
* Cao huyết áp (CHA) khoảng 600 triệu người trên toàn thế giới,
13% bị tử vong và 4.4% bị tật nguyền 2/3 số người bị tai biến là
do huyết áp cao, thường ảnh hưởng đến tim mạch, suy thận và
tai biến mạch máu não
* Mỡ trong máu cao tăng nguy hiểm cho bệnh suy tim.18% người
bị tai biến và 56% bị suy tim , 7.9% người bị tử vong vì mỡ trong
máu cao.
*Ăn ít trái cây, thiếu rau xanh sẽ làm tăng nguy cơ bị ung thư, suy
tim và tai biến.
Nguồn: WHO, số liệu về các chứng bệnh mạn tính và chiến lược toàn cầu
(2005)

Bảng 1. Nâng cao sức khỏe để giảm tỷ lệ tai biến mạch máu não.
Nguồn:” Tai biến Mạch máu Não” PGS.TS Nguyễn văn Đăng theo Dennis M.
Warlox C.P Strategy for Stroke 1991 (Medical Jounal 1991)
Xin đón xem phần II: "Natto" là
gì?
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Hồng lê Thọ
|