Những bài cùng tác giả

Kornai János
Trình bày tại Đại học Kanagawa, Yokohama, 6-12-2008
Dẫn nhập
Tôi e rằng tất cả những gì có thể nói về Karl Marx đã
được viết cả rồi. Hàng ngàn bài báo, bài nghiên cứu và hàng trăm cuốn sách
đã được xuất bản trong đó có thể thấy đủ mọi thứ từ ca tụng cuồng nhiệt,
phân tích khách quan, đến căm thù giận dữ. Cái tôi có thể thêm vào kho tài
liệu mênh mông này chỉ là quan điểm cá nhân mà từ đó tôi xem xét công
trình của Marx. Tôi là một người Hungary, một người Đông Âu, sinh năm 1928,
tôi bắt đầu trở thành người lớn vào cuối Chiến tranh Thế giới lần thứ hai.
Những diễn biến lịch sử lớn đã gây những ấn tượng sâu sắc lên tư duy của
tôi: chiến tranh tàn phá đất nước chúng tôi, Holocaust
(vụ tàn sát hàng loạt
[người Do thái]), giải phóng khỏi ách thống trị Nazi, đảng cộng sản lên nắm
quyền với hệ thống xã hội chủ nghĩa của nó, cách mạng Hungary 1956 và việc
đánh gục nó, sự khôi phục hệ thống xã hội chủ nghĩa, các cuộc cải cách trong
các năm 1960 về chủ nghĩa xã hội thị trường và chủ nghĩa xã hội với khuôn
mặt người và sự thất bại của chúng, sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa
và sự trở lại của hệ thống tư bản chủ nghĩa, nền dân chủ thế chỗ cho chế độ
độc tài, và khủng hoảng tài chính và kinh tế hiện nay. Chỉ chúng tôi, những
người sống ở Đông Âu và bây giờ vào tuổi bảy tám mươi, có thể nói rằng chúng
tôi đã đích thân trải nghiệm, không phải một vài lần mà tám lần, những thay
đổi hệ thống, những sự biến đổi vĩ đại, hay chí ít các bước ngoặt đột ngột
tiến và lùi, rẽ sang và quay lại của chế độ chính trị có nghĩa là gì. Đối
sánh chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội, so sánh các đặc tính của hai
loại hệ thống này, những biến đổi vĩ đại: đấy là những thay đổi có tầm quan
trọng lịch sử thế giới mà Marx quan tâm nhất và cố thử để hiểu. Chúng tôi,
tuy vậy, không chỉ quan tâm đến chúng về mặt trí tuệ - chúng tôi đã trải
nghiệm những thay đổi đó. Có lẽ lượng kinh nghiệm sống này, chứ không
phải khả năng phân tích đặc biệt nào đó, khiến cho tôi có thể thêm nét đặc
sắc nào đó vào kho tàng tài liệu lớn và có giá trị về Marx.
Khi các vị chủ nhà Nhật mời tôi trình bày
báo cáo này, họ nhấn mạnh rằng có hai sự kiện gắn với nhau. Một là có một
hội thảo chuyên môn về
Karl Marx, và báo cáo của tôi sẽ được trình bày trong
khuôn khổ hội thảo đó. Sự kiện khác là Đại học Kanagawa kỷ niệm tám mươi năm
thành lập. Khi họ biết rằng năm nay các nhà kinh tế học Hungary đã mừng sinh
nhật lần thứ 80 của tôi, tức là chính xác tôi cùng tuổi với đại học của họ,
có lẽ hợp nếu tôi có thể tham gia lễ kỷ niệm thành lập với báo cáo của mình.
Đó là một niềm vinh hạnh lớn và tôi rất cảm ơn các vị chủ nhà đã mời. Tôi
chào mừng các bạn nhân dịp sinh nhật này với những lời chúc nồng nhiệt và
với sự đồng cảm của một người 80 tuổi.
Bởi vì bản thân lời mời có tính chất cá
nhân, có lẽ có thể chấp nhận được, nếu giọng bài trình bày của tôi mang tính
chủ quan. Tôi không truyền đạt lập trường tập thể loại nào đó của các
trí thức Đông Âu, mà tôi kể chuyện cá nhân của chính mình. Cuộc sống của mỗi
cá nhân là đơn nhất và khác với cuộc sống của mọi người khác. Thế nhưng, tôi
có thể nói thêm rằng từ nhiều khía cạnh câu chuyện của riêng tôi có tính
điển hình. Nếu không phải là toàn bộ đường đời của tôi, nhưng các pha
khác nhau của nó có thể đại diện cho các pha tương tự của cuộc sống của
nhiều người khác. Khi hồi ký tự sự của tôi, cuốn Bằng sức mạnh tư duy,
được xuất bản, nhiều người tìm đến và nói với tôi rằng đọc ký sự cá nhân của
tôi về một giai đoạn hay giai đoạn khác họ nhận ra câu chuyện của chính họ.
Tôi hy vọng điều này cũng đúng hôm nay, khi tôi kể về: quan hệ của tôi đã
như thế nào với những tư tưởng của Marx trong các giai đoạn khác nhau của
cuộc đời riêng của tôi (và của lịch sử mà đã ảnh hưởng rất lớn đến đời tôi).
Tôi chỉ lựa ra vài tư tưởng trong sự
nghiệp vô cùng phong phú của Marx. Chỉ để trình bày những nhận xét riêng của
tôi liên quan đến mỗi tư tưởng này thực ra cũng cần đến một hai tiểu luận,
thế mà trong khung khổ hiện tại tôi chỉ có nhiều nhất vài phút cho mỗi ý đó.
Vì thế tôi không thể đưa ra những lập luận phân tích chi tiết. Tôi hy vọng
rằng thể loại được chọn – tường thuật câu chuyện chủ quan về mối quan hệ của
tôi với công trình của Marx – sẽ cho phép việc thảo luận các đề tài lớn với
nhịp độ rất cao.
Cái gì thu hút tôi đến với Marx…
Tôi đã là một cậu bé, một con mọt sách. Thực sự tôi đã
đọc ngiến ngấu không chỉ những kiệt tác văn học, mà cả các tác phẩm triết
học và lịch sử nữa, nhưng trước 1945 tôi đã chẳng đọc một bài viết nào của
Marx cả. Ở nhà, trong gia đình khá giả, đã chẳng có ai, ở trường, nơi người
ta dạy con em của giới trung lưu, cũng đã chẳng có ai giới thiệu cho tôi một
tác phẩm Marxist nào. Thế mà, một vài năm sau tôi đã tự nhận là một người
Marxist có ý thức.
Cái gì đã gây ra sự thay đổi nhanh chóng
này và đã thu hút tôi vô cùng mạnh mẽ đến với Marx?
Trong thời dậy thì nhạy cảm nhất của
mình, đầu tiên tôi đối mặt với các luật phân biệt đối xử với người Do Thái,
sau đó là những trải nghiệm nhục nhã của sự săn đuổi, sự ẩn náu, trốn chạy,
khiếp sợ. Khi cuộc bao vây Budapest chấm dứt, chẳng bao lâu trở nên rõ ràng
là, họ đã đưa cha tôi đi Auschwitz và ông bị giết ở đó, còn anh cả tôi đi
nghĩa vụ lao động thì không trở về. Ngần ấy tôi đã hiểu từ việc học lịch sử
và từ những trải nghiệm cá nhân rằng chế độ Hitler và những kẻ đồng lõa
Hungary của nó đã kéo chúng tôi vào chiến tranh và diệt chủng. Nhiều đảng đã
hình thành, và tôi rất nhanh chóng trở thành người ủng hộ đảng cộng sản. Ý
nghĩ đầu tiên hướng tôi tới đó là: đảng cộng sản là đảng duy nhất, bất chấp
rủi ro bị truy bắt, đã kiên định đấu tranh suốt hàng thập kỷ chống lại chế
độ Horthy – chế độ đã liên minh với Hitler và sau đó đã đưa sự cai trị Nazi
vào Hungary. Họ đã là những người chống phát xít kiên định nhất. Chỗ của tôi
là ở trong hàng ngũ của họ. Vì thế tôi đã gia nhập, chứ không phải vì
cương lĩnh cải biến xã hội xã hội chủ nghĩa của họ đã cổ vũ, cương lĩnh mà
khi đó tôi ít biết đến và bản thân những người cộng sản cũng ít nói tới.
Sau đó khi tôi bắt đầu đi dự các buổi họp
và thuyết trình của phong trào thanh niên do đảng cộng sản lãnh đạo, tôi bắt
đầu đọc các cuốn sách mỏng do đảng phát hành. Tôi có thiện cảm với hệ tư
tưởng của đảng, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa có vẻ thuyết phục. Chưa đầy
một năm sau giải phóng tôi đã đến với Marx như vậy. Tôi mười tám tuổi, khi
lần đầu cầm cuốn Tư bản luận (bằng tiếng Đức, vì khi đó vẫn chưa có
bản dịch ra tiếng Hungary) trong tay, và cùng với bạn thân nhất của
mình chúng tôi đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng từng dòng một và ghi chép rất chi
tiết.
Tôi dừng lại ở đây một chút để lưu ý bạn
đọc về thứ tự thời gian. Không phải kinh nghiệm trí tuệ đã cho tôi,
một con mọt sách trẻ, cú hích khởi động đầu tiên đến với Marx, mà đầu tiên
là sự tiếp cận chính trị, sự tham gia vào hoạt động của đảng cộng
sản, và sau đó mới là ảnh hưởng của việc đọc sách, đọc tác phẩm của Marx.
Tôi đã không bắt đầu với việc lựa chọn Marx giữa các trào lưu tư tưởng khác
nhau, giữa các trường phái kinh tế học hay triết học khác nhau. Tôi đã bắt
đầu với việc lựa chọn đảng cho bản thân mình giữa các phong trào chính trị,
các đảng và các hệ tư tưởng khác nhau, và đảng cộng sản đã đặt các công
trình của Marx lên bàn của tôi.
Tôi có thể liệt kê dài dài về những đặc
điểm mà Tư bản luận đã có ảnh hưởng mạnh nhất khi đó lên tôi, nhưng
bây giờ ở đây tôi chỉ lựa ra vài điểm trong số đó.
Việc đọc càng tiến triển tôi càng mê
logic sắc sảo, dòng suy nghĩ và lập luận chặt chẽ, việc sử dụng khái niệm
chính xác của tác phẩm. Ngay từ khi còn rất trẻ tôi đã có tính mà các thành
viên gia đình và các cộng sự của tôi chế nhạo là “cuồng ngăn nắp”. Tôi khó
lòng chịu nổi sự lộn xộn, lang thang trong các bài viết hay bài nói nghiêm
túc, thậm chí trong cả các cuộc trò chuyện không gò bó. Marx đã ngay lập tức
chinh phục tôi với cấu trúc lập luận sáng sủa, trong sáng, với các khái niệm
sắc bén. Chỉ rất lâu sau tôi mới biết các tác phẩm đã chuyển hóa một số phần
của lâu đài trí tuệ đồ sộ của Marx sang ngôn ngữ mô hình toán học. Thí dụ
các nhà kinh tế học Hungary Bródy (1969) và nhà kinh tế học Nhật Bản
Morishima (1973) đã diễn đạt lý thuyết tái sản xuất của Marx bằng các mô
hình input-output, nhà kinh tế học Mỹ Roemer (1986) đã sử dụng cả các công
cụ tiêu chuẩn của kinh tế học vĩ mô dòng chủ lưu để diễn đạt lại kinh tế học
chính trị của Marx. Việc sử dụng ngôn ngữ toán học nghiêm ngặt của các nhà
lập mô hình được dễ dàng bởi vì Marx đã trình bày nguyên liệu tư duy ban đầu
(thí dụ lý thuyết tái sản xuất) theo một trật tự có logic, cố gắng dùng các
định nghĩa chính xác ngay từ đầu.
Nếu không phải ngay từ lần đọc đầu tiên,
thì muộn hơn, khi tôi đã đọc khá nhiều và đã học được từ công trình của các
tác giả Marxist, còn một hiện tượng nữa đã có tác động lớn đối với tôi. Tôi
đã có cảm tưởng, rằng một nhà Marxist có trong tay một chìa khóa có thể mở
mọi cánh cửa. Nhà Marxist có một bộ máy phân tích và một hệ thống khái niệm
mà sức mạnh giải thích của nó là vạn năng.
Bất luận đó là đánh giá một sự kiện lịch sử, một vấn đề kinh tế hay một buổi
biểu diễn vừa xem xong, trong tay nhà Marxist có các công cụ mà với chúng có
thể giải quyết vấn đề phân tích. Điều này tạo cảm giác tự cao trong ông ta.
Có thể là X. Y. biết giai đoạn ban đầu của chủ nghĩa tư bản một cách chi
tiết bởi vì anh ta đã bỏ hàng năm ra nghiên cứu tỷ mỷ, nhưng anh ta không
phải là nhà Marxist, còn tôi là, và vì thế tôi hiểu thời kỳ lịch sử này đúng
hơn. Có thể nhà mỹ học N. N. có khiếu thẩm mỹ văn học chắc chắn hơn, và là
chuyên gia về kịch, nhưng anh ta không phải là nhà Marxist, còn tôi là, và
vì thế tôi nhận ra đúng hơn các giá trị đích thực và những thiếu sót của vở
kịch.
Các trí thức trẻ thèm khát loại giải
thích thế giới chung nào đó. Có người tìm thấy lời giải thích tổng quát
trong niềm tin vào Chúa, hay có lẽ trong một tôn giáo nào đó. Ngày nay nhiều
nhà kinh tế học hay nhà khoa học xã hội khác được đào tạo một cách hiện đại
cho rằng có thể tìm thấy lời giải thích cho mọi hành động con người và sự
kiện xã hội trong lý thuyết quyết định duy lý. Đối với tôi nhu cầu mạnh mẽ
về công cụ giải thích vạn năng đã được chủ nghĩa Marx thỏa mãn, chính xác
hơn là loại chủ nghĩa Marx mà các nhà Marxist sống trong môi trường trí tuệ
của tôi khi đó đã coi là của mình và đã sử dụng. Tôi không nghĩ đến những kẻ
không chuyên tầm thường, mà nghĩ đến những đồng bào của mình, như Lukács
György, nhà triết học, hay Varga Jenő nhà kinh tế học – đều là những người
nổi tiếng thế giới trong ngành của mình. Tôi đã cảm thấy rằng, tôi càng hiểu
biết Marx và các môn đồ xuất sắc của ông cặn kẽ hơn, thì tôi càng có thể nắm
chắc hơn chiếc chìa khóa mở mọi cánh cửa.
Trong số các lực lôi cuốn, tôi nhắc đến
cái thứ ba, tuy thực ra nó tác động song trùng với hai lực kia: sự cam kết
đầy nhiệt huyết của Marx với những người bị áp bức, bị bần cùng cũng đã tác
động sâu sắc đến tôi về mặt tình cảm. Số phận run rủi là, năm 1944, năm cuối
cùng của chiến tranh đã tách tôi khỏi sự tiện nghi của một gia đình trung
lưu. Trong vài tháng tôi đã làm công việc chân tay nặng nhọc trong một nhà
máy gạch. Những công nhân khác đã thân thiện tiếp nhận một thanh niên gầy
gò, nhưng chăm chỉ. Tôi đã đến thăm nhà của họ, và dù muốn hay không tôi đã
không thể không so sánh căn hộ quen thuộc, rộng rãi, thanh lịch của chúng
tôi với nhà ở chật chội của họ, thức ăn sung túc ở nhà với thức ăn ít ỏi của
họ. Hình thành và từ đó vẫn sống trong tôi ý thức đoàn kết. Tư bản luận
đã là sách đọc cảm động về khía cạnh này nữa, vì trong đó có sự kết hợp
không thể tách rời của sự phân tích kinh tế học lạnh lùng, cảm giác con
người nồng ấm và sự phẫn nộ đối với bóc lột.
… và cái gì đã làm tôi vỡ mộng với các
tư tưởng của Marx
Bây giờ tôi nhảy qua thời gian. Ở trên
tôi kể về các năm đầu sau chiến tranh, tôi đã thử nhớ lại bức chân dung trí
tuệ của mình khi đó. Khi thời gian trôi đi, tôi đã nắm vững nhiều và nhiều
hơn những giáo huấn của Marx và các môn đồ của ông – và cho đến 1953, đến
khi Stalin chết, rồi đến các năm đầy bão tố, đánh dấu điểm ngoặt trong đời
sống của các đảng cộng sản và các nước dưới sự cai trị của các đảng đó.
Chúng cũng tạo ra điểm ngoặt trong tư duy của tôi.
Bước ngoặt bây giờ cũng chẳng bắt đầu
trên bình diện trí tuệ, thí dụ giả như tôi đã đọc các tác phẩm phê phán các
học thuyết của Marx. Không phải sự phê phán được xuất bản trong các sách hay
các tạp chí đã thuyết phục tôi, rằng Marx đã nhầm về những vấn đề cơ bản.
Hoàn toàn là các tác động khác đã làm lung lay – không phải hệ thống tư
duy mà tôi đã xây dựng một cách vững chắc cho đến khi đó, mà làm lung
lay niềm tin của tôi. Tôi đã gặp một đồng nghiệp già, một người cộng
sản từ xưa, người đã bị tù và bị tra tấn tuy đã chẳng phạm tội gì. Cho đến
thời điểm đó tôi đã không biết, rằng bằng tra tấn cảnh sát mật chính trị
nhân danh các tư tưởng cộng sản đã buộc các tù nhân thú nhận tội giả, theo
lệnh trực tiếp của các lãnh đạo tối cao. Nền tảng đạo đức của lòng
tin của tôi sụp đổ. Nếu điều này có thể được làm nhân danh đảng cộng sản,
thì ở đây hẳn phải có tai họa lớn khác!
Nhìn lại tôi thấy rằng trước bước ngoặt
này đã hình thành một cơ chế tự vệ đặc biệt trong đầu óc tôi. Tôi đã tin vào
các tư tưởng cộng sản không chỉ bằng trí tuệ, mà bằng cả tấm lòng và trái
tim, và vì thế đã hình thành các hàng rào bảo vệ ngăn cản sự thâm nhập của
các tư tưởng xa lạ với chủ nghĩa Marx và các học thuyết xã hội chủ nghĩa.
Một tác phẩm tranh luận với Marx có đến với tôi cũng vô ích. Tôi không coi
nó ra gì, tôi gạt bỏ nó, cho rằng đấy là tiếng nói đầy thành kiến của kẻ
thù. Tôi cảm thấy mình được miễn thứ khỏi phải so đọ các tư tưởng có thể
được tôi chấp nhận với các tư tưởng đối lập. Trạng thái tâm thần này không
chỉ đặc trưng cho những người cộng sản vững tin, mà ít nhiều cũng đặc trưng
cho những người cuồng tín khác nữa.
Biện lý hay thẩm phán của tòa dị giáo, viên chức của tổ chức khủng bố phái
những kẻ đánh bom liều chết, người truyền giáo, người thuyết giáo theo
thuyết chính thống, hay một chính trị gia vững tin có sức thu hút quần chúng
có thể là người có học thức và thông minh, có thể có khả năng trí tuệ cao,
nhưng niềm tin cuồng tín riêng của họ gạt bỏ các lý lẽ đối lập khỏi suy nghĩ
của họ. Họ không thể được thuyết phục bằng bất cứ lý lẽ duy lý, điềm tĩnh
nào cho đến khi những trụ đỡ đạo đức của niềm tin đó còn vững chắc trong tâm
khảm họ.
Khi nền tảng đạo đức đột ngột sụp
đổ dưới chân tôi, thì cùng lúc các cửa cống mở ra, và dòng các tư tưởng phê
phán tràn vào. Ở đây tôi lại dừng lại một chút để lưu ý bạn đọc về bài học
của câu chuyện của riêng tôi. Lại lần nữa đã có cái gì đó đi trước bước
ngoặt trí tuệ hiểu theo nghĩa hẹp. Sự kiện đi trước lần này không xảy ra
trên bình diện chính trị, mà trên bình diện đạo đức. Một khi các cửa cống đã
mở, tôi đã cởi mở trước các lý lẽ. Từng mục một, tôi đối sánh những tư tưởng
và các phương pháp Marxist mà tôi đã biết trước đây với sự phê phán mà tôi
mới biết. Các ý tưởng mới thâm nhập vào tôi, và đột nhiên tôi cũng trở nên
phê phán trên bình diện trí tuệ nữa. Tôi bắt đầu đối mặt với các vấn đề mà
trước kia tôi luôn xua đuổi tuy chúng vẫn lởn vởn đâu đó ở bên rìa suy nghĩ
của tôi.
Thời đó tôi là một nhà báo viết về đời
sống kinh tế. Nhiều lần tôi đã bắt gặp những hiện tượng trái khoáy: hàng
trăm loại thể hiện của sự lãng phí, vô kỷ luật, chất lượng kém, sự thiếu
hụt. Toàn những vấn đề mà kinh tế học chính trị của Marx chẳng cung cấp cho
tôi loại công cụ nào để phân tích. Đây là kinh tế học loại gì mà lại chẳng
có nội dung đáng kể nào về các vấn đề hiển nhiên mang tính kinh tế này? Tai
họa không phải là nó đưa ra các câu trả lời sai cho những câu hỏi này, mà là
nó chẳng thèm nêu ra chúng. Tôi bắt đầu nghiên cứu nghiêm túc và học các lý
thuyết khác kình địch với lý thuyết của Marx, và đột nhiên thấy một thế giới
trí tuệ mới mở ra trước mắt mình. Chúng đề cập, đúng hay tồi, đến các vấn đề
thực sự là các vấn đề rõ ràng còn bỏ ngỏ của cuộc sống kinh tế hoạt động
xung quanh tôi. Đúng là một phần các vấn đề do chúng thảo luận chỉ nảy sinh
trong các điều kiện của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng chúng cũng thảo
luận một cách có hệ thống các vấn đề chung nữa (thí dụ, tính hiệu
quả, hay các khía cạnh của sản xuất và nhu cầu, các vấn đề của mối quan hệ
cung và cầu), mà các vấn đề đó cũng không kém quan trọng trong hoàn cảnh
kinh tế xã hội chủ nghĩa so với chủ nghĩa tư bản.
Những nghi ngờ của tôi cũng nổi lên liên
quan đến những luận đề lý thuyết mà Marx và các môn đồ của ông đã không bỏ
qua, ngược lại được đưa ra sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng. Tôi chỉ nêu một thí
dụ, những khẳng định của Marx được trích dẫn nhiều lần về sự tích tụ nghèo
khổ. Nói về “quy luật chung về sự tích tụ tư bản” Marx khẳng định: “Sự tích
tụ của cải ở một cực, vì thế, đồng thời là sự tích tụ nghèo khổ, lao động
thống khổ, nô lệ, ngu dốt, tàn bạo và sự thoái hóa đạo đức, ở cực bên kia…”
(Tư bản luận, I, (1867) [1967] trang 645). Các môn đồ của Marx thường
nói về sự nghèo khổ tương đối và tuyệt đối của giai cấp lao động – và điều
này không mâu thuẫn với gợi ý của câu trên. Ngược với khẳng định này, không
chỉ những cảm nhận hời hợt thu được qua các cuộc du ngoạn nước ngoài, mà tất
cả các số liệu thống kê đáng tin cậy cũng chứng minh rằng mức sống trung
bình của những người sống bằng sức lao động của mình ở các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển trong một thế kỷ đã tăng lên rất đáng kể. (Trong khi đó tất
nhiên không thể chối cãi là ở đó sự nghèo khổ cũng chẳng biến mất đi). Đây
không phải là một sự hiểu lầm nhỏ nhặt, không phải là một sự nhầm lẫn có thể
dễ sửa. Luận đề tiên đoán sự bần cùng hóa của giai cấp vô sản có vai trò cốt
yếu trong việc rút ra kết luận cuối cùng của dòng tư duy Marxian. Giả như
đúng là sự bần cùng tăng liên tục, và trở thành hàng loạt, thì sự giận dữ
của hàng triệu người đã quét sạch chủ nghĩa tư bản từ lâu rồi.
Tôi đã tiến triển liên tục trong tìm hiểu
sự phê phán các học thuyết Marxian, và quá trình học này kéo dài nhiều năm.
Ngày càng nhiều luận đề – đóng vai trò quan trọng trong lý thuyết kinh tế
học Marxian – trở thành không thể chấp nhận được đối với tôi. Cuối cùng tôi
đã đạt đến điểm để bác bỏ học thuyết giá trị lao động cùng với việc làm quen
với các lý thuyết giải thích tốt – và với nhịp độ tiến triển của việc nghiên
cứu ngày càng giải thích tốt hơn – sự vận động thực tế của giá cả, lương,
các chi phí, và lợi nhuận.
Trách nhiệm trí tuệ đối với hệ thống
xã hội chủ nghĩa
Hãy quay lại những năm ngay trước cách mạng Hungary 1956.
Từ một người xây dựng xã hội chủ nghĩa nhiệt thành và ngây thơ trước kia, kể
từ giữa các năm 1950 tôi đã trở thành nhà phê phán gay gắt – và ngày càng
gay gắt hơn – đối với hệ thống.
Các thành viên của thế hệ tôi đã trải qua
sự biến đổi tư tưởng không phải với cùng nhịp độ và với cùng hình thức. Có
người ngay lập tức vứt bỏ quan niệm cũ, có người chỉ từng bước một, bảo vệ
từng mẩu tư tưởng khỏi sự hủy diệt. Có người, tự mình bắt đầu cải cách tư
tưởng của mình từ sớm, và có người trì hoãn và chỉ sau nhiều thập kỷ mới bắt
đầu. Nhưng rốt cuộc các tấn kịch lịch sử vĩ đại, mà họ đã cùng trải nghiệm,
đã tạo ra sự biến đổi tư tưởng của cả nhóm trí thức này và của mọi thành
viên của nó.
Đối với những trí thức khởi đầu như các nhà Marxist và cộng sản vững tin thì
sự kiện choáng váng là cách mạng Hungary 1956 và sự đàn áp đẫm máu, rồi đến
phong trào Mùa xuân Praha năm 1968 và sự đè bẹp nó, sau đó là phong trào
Đoàn Kết ở Ba Lan và những cuộc bắt bớ và ban bố tình trạng khẩn cấp kế
tiếp. Những sự nghi ngờ ngày càng mạnh ngay cả trong những người cố thử giữ
gìn dù cho chỉ một mẩu thế giới quan một thời của họ. Câu hỏi giày vò chúng
tôi là một trong những câu hỏi cơ bản của thế kỷ 20: thực ra hệ thống mà
người ta gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện tồn” là loại hệ thống gì? Liệu nó có
đi cùng một cách không tránh khỏi với nhiều đau khổ mà chúng ta đã
phải chịu đựng, từ nạn đói, sự lạc hậu kỹ thuật, đến thiếu hụt kinh niên, từ
bóp nghẹt tự do tư duy đến sự khủng bố tàn bạo của cảnh sát và Gulag hay
không? Hay tất cả những kinh nghiệm đau xót này chỉ là sự méo mó do việc
thực hiện tồi một cách tội lỗi gây ra, chứ thực ra chẳng liên quan gì đến
Marx, đến học thuyết của ông và đến cương lĩnh hành động mà ông công bố?
Diễn đạt theo cách khác: Marx có chịu
trách nhiệm không về những gì đã xảy ra ở Liên Xô của Lenin, Stalin,
Khrushev và Brezhnev, ở Trung Quốc của Mao và ở các nước cộng sản khác do
các học trò của họ cai trị?
Nhiều người đã diễn toàn bộ câu chuyện
trong trí tưởng tượng của mình: giả như nếu với cùng thân thể và tâm hồn
thời xưa của ông, giả như ông không sống vào thời đó, mà đã sống trong thế
kỷ 20, thí dụ ở Budapest, thì Marx đã ứng xử thế nào? Có thể phỏng đoán rằng
ông đã bắt đầu như một người cộng sản, nhưng tinh thần phản kháng của ông
mau chóng kéo ông vào hàng ngũ những người chống lại chế độ cộng sản. Có lẽ
ông phải vào trại tập trung trong các năm 1950, nhưng thoát ra được, ông đã
tham gia các cuộc tranh luận trí tuệ hồi hộp trước và chuẩn bị tinh thần cho
cách mạng 1956. Chắc ông đã ở giữa các nhà cách mạng khi đó, và nếu tránh
được làn sóng bắt bớ sau đó, thì chắc ông đã xuất bản chui những phê phán
của mình với dọng châm chọc chua cay chống lại nền kinh tế kiểu Soviet. Đây
là một dòng suy nghĩ lý thú, trong trí tưởng tượng nó miễn thứ cho Marx, cho
con người, cho tính cách rất đặc trưng đối với ông, và khính trọng lòng dũng
cảm và lòng trung thành với nguyên tắc của ông. Nhưng đồng thời nó cũng lảng
tránh câu hỏi thực sự xác đáng được nêu ra ở trước: quan hệ giữa những tư
tưởng lý thuyết của Marx và thực tế lịch sử của hệ thống xã hội chủ nghĩa là
gì? Trong phép xấp xỉ đầu tiên, tôi sẽ thử trả lời một cách ngắn gọn: hệ
thống xã hội chủ nghĩa (không phải loại hệ thống không tưởng đẹp đẽ trong
trí tưởng tượng, mà là hệ thống đã tồn tại mà trong đó bản thân tôi đã sống)
đã thực hiện kế hoạch của Marx.
Tôi biết rằng nghe câu chắc nịch này
nhiều người sẽ sửng sốt, có lẽ cả một số người ngồi đây nữa. Nhưng tôi vẫn
nhắc lại. Theo niềm tin của tôi, khẳng định đó là đúng và có thể được hậu
thuẫn bằng những sự thực kinh nghiệm lịch sử, rằng cái đã hình thành sau
1917 trong khu vực cộng sản của thế giới, và đã tồn tại đến 1989, về cơ bản
đã thực hiện cái mà Marx đã coi là hệ thống xã hội chủ nghĩa sẽ hình thành
như cái đối lập của chủ nghĩa tư bản.
Cái nhân cốt lõi của dòng tư duy Marxian
là sở hữu tư nhân đặc trưng cho các mối quan hệ sở hữu của chủ nghĩa tư bản.
Để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản phải chuyển tư liệu sản xuất thành công hữu.
Chừng nào sở hữu tư nhân còn chiếm ưu thế, thì thị trường điều phối sự hợp
tác con người, sự trao đổi tài sản, sự phân bổ lực lượng sản xuất. Thị
trường là nhà điều phối hoạt động không tốt, thị trường rắm rối, không rõ
ràng, hỗn loạn. Sở hữu công sẽ cho phép phân bổ lực lượng sản xuất và rốt
cuộc lao động con người trở nên minh bạch, rõ ràng và có kế hoạch.
Tôi đưa ra vài trích dẫn để hậu thuẫn cho
những điều mà tôi nhắc đến ở trên đúng là các tư tưởng riêng của Marx (chứ
không chỉ là các tư tưởng Marxian có lẽ do những môn đồ của ông đã pha loãng
hay đã hiểu nhầm chúng). Tôi trích Tư bản luận: “Độc quyền tư bản trở
thành xiềng xích của chính phương thức sản xuất đã nảy sinh và thịnh vượng
với nó và dưới nó… Giờ tận số của sở hữu tư nhân tư bản đã điểm. Những kẻ
chiếm đoạt bị tước đoạt.” (Capital Vol. 1 (1867) [1967], p. 763).
Hay một trích dẫn quan trọng khác: “…sự hỗn loạn liên tục và những biến
động chu kỳ là những thứ đi cùng chí tử của sản xuất tư bản chủ nghĩa…” –
Marx viết trong nghiên cứu về “Nội chiến ở Pháp” ((1871) [1988], p.61). Và
trong cùng đoạn văn vừa được trích dẫn có thể thay cụm từ kế hoạch chung các từ mà
người ta hay nhắc đến: “…các hiệp hội hợp tác điều tiết nền sản xuất
quốc dân theo một kế hoạch chung, đặt nền sản xuất ấy dưới sự điều khiển của
mình…”
Bây giờ chúng ta hãy so sánh các luận đề
lý thuyết nêu trên với thực tế của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã hình thành ở
Liên Xô và các nước cộng sản khác! Hai nét đặc trưng quan trọng nhất của hệ
thống hiện thực chính là cái Marx đã kỳ vọng và chỉ dẫn:
1)
Đã tiến rất gần đến việc xóa bỏ
hoàn toàn sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (tuy những tàn tích què quặt,
bị siết chặt của nó vẫn tồn tại đó đây), và thay vào đó sở hữu công, chủ yếu
dưới dạng sở hữu nhà nước, trở nên áp đảo.
2)
Đã tiến rất gần đến việc xóa bỏ
hoàn toàn điều phối thị trường (tuy những tàn tích vẫn còn trong nền kinh tế
đen và xám), và thay vào đó kế hoạch hóa tập trung, điều phối quan liêu, nền
kinh tế chỉ huy trở nên áp đảo.
Tôi đã không tùy tiện đưa ra hai đặc điểm
trong số các đặc điểm thứ yếu của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Ở đây tôi nói
về hai đặc điểm cơ bản của hệ thống kinh tế.
Nếu tôi đã tranh luận với các nhà Marxist
thiển cận về điều này, thì một trong những lập luận phản lại quen thuộc đã
là: chế độ Stalinist hay Maoist đã sử dụng tên của Marx chỉ như biểu tượng
đánh lạc hướng, đã chỉ nhắc đến như thánh bảo trợ, mặc dù trong thực tế
chúng chẳng có gì chung với ông cả. Ở trên tôi đã cố gắng đối chọi với lập
luận này bằng những lời lẽ của chính Marx và Engels. Các chế độ đó có toàn
quyền để dẫn chiếu đến Marx, vì chúng đã thực hiện nhiệm vụ lịch sử vĩ đại
do ông đề ra.
(Tôi lưu ý chỉ trong ngoặc đơn, rằng phân
tích đặc điểm nêu trên phù hợp với đảng cộng sản Trung Quốc ngày nay, cái
đảng trương ảnh Marx trên tường như “thánh bảo trợ” trong các dịp nghi lễ
chính trị để che dấu chính sách thực của nó. Đảng cộng sản Trung Quốc trình
bày ý thức hệ giả mạo khi dẫn chiếu đến chủ nghĩa Marx. Cái hệ thống mà đảng
cộng sản ngự trị về cơ bản mang tính tư bản chủ nghĩa, vì sở hữu tư nhân đã
trở thành hình thức sở hữu áp đảo, và bởi vì cơ chế điều phối chính là cơ
chế thị trường. Như thế, chính xác là cái đối lập đã được thực hiện trong
mười-hai mươi năm so với cái Marx đã nêu thành cương lĩnh, cũng như cái đã
thực sự hình thành ở các nước xã hội chủ nghĩa trước kia.)
Những người bảo vệ kiên định các học
thuyết của Marx không thích đối mặt với khẳng định đanh thép rằng đảng
Bolshevik Nga và các đảng đi theo ở các nước khác đã thực hiện cương lĩnh
biến đổi của Marx. Không phải một lần tôi đã đích thân trải nghiệm điều này.
Tại vài đại học Mỹ tôi đã gặp các sinh viên thông minh và quan tâm, những
người tự coi mình là “các nhà kinh tế học cấp tiến”. Họ tận tâm đọc và học
các tác phẩm mà họ cho là có thể chấp nhận được về mặt chính trị. Họ đã sẵn
sàng tìm hiểu, thậm chí nghiên cứu kỹ lưỡng cả các lý thuyết kinh tế học và
các phương pháp của dòng chủ lưu nữa. Thế nhưng, họ không thèm nghiên cứu
sâu nền kinh tế của Liên Xô hay của các nước Đông Âu. Trong con mắt của họ
đấy là cái gì đó không đáng quan tâm, hay có lẽ trúng hơn, nếu tôi nói: là
hiện tượng khả ố, ghê tởm chẳng liên quan gì đến họ và chẳng có quan hệ gì
với các tư tưởng của Marx mà họ kính trọng và chấp nhận. Theo quan điểm của
tôi họ chúi đầu vào cát như những con đà điểu.
Tôi bắt gặp hiện tượng này không chỉ ở
các sinh viên trẻ. Bây giờ, khi chuẩn bị cho báo cáo này, tôi đọc lại các
công trình của các nhà bác học có đầu óc cởi mở, có học thức cao, diễn giải
lại các lý thuyết Marxist, tôi chợt thấy rằng ngay các công trình xuất sắc
nhất cũng hoàn toàn bỏ qua sự đối sánh những kinh nghiệm lịch sử của Liên
Xô, của Trung Quốc và các nước Đông Âu trước cải cách với cương lĩnh xã hội
chủ nghĩa của Marx. Những tên như Lenin hay Stalin chẳng hề xuất hiện trong
các tác phẩm này.
Theo quan điểm của tôi, sự chính trực trí
tuệ và chính trị đòi hỏi chúng ta phải đối mặt một cách tận tâm với câu hỏi:
những tư tưởng của Marx có liên quan gì đến hệ thống xã hội chủ nghĩa đã
được thực hiện? Marx có liên quan gì đến Lenin và Stalin? Tôi đã thử đưa ra
câu trả lời thẳng thắn của mình. Có thể tranh luận về câu trả lời của tôi,
song tính chính đáng của câu hỏi thì khó có thể tranh cãi.
Một nền kinh tế, nơi người ta loại bỏ
sáng kiến tư nhân và sự điều phối thị trường, buộc phải dựa vào sự điều
chỉnh hành chính, từ trên xuống. Trong một cơ chế như vậy, phải cưỡng bức kỷ
luật và thực hiện các mệnh lệnh từ trên xuống bằng con đường hành chính. Hệ
thống xã hội chủ nghĩa không thể hoạt động mà không có sự trấn áp. Nếu nới
lỏng bộ máy trấn áp, chẳng sớm thì muộn hệ thống sẽ sụp đổ. Điều này đã xảy
ra ở Liên Xô, và khi nó bắt đầu tan rã, ở các nước cộng sản Đông Âu cũng
thế.
Gắn vào đây là lập trường của Marx về vấn
đề nền độc tài [chuyên chính] và dân chủ. Có lẽ, bản thân ông cũng rùng
mình, nếu giả như với chính mắt mình ông nhìn thấy cái gì xảy ra trong các
phòng tra khảo của Cheka hay tại các trại tù ở Siberia. Thế nhưng trong khi
cần diễn đạt chỉ trên tờ giấy, thì cả Marx lẫn Engels đều khinh miệt nói về
chủ nghĩa lập hiến, chế độ đại nghị, nền dân chủ tư sản sáo rỗng và hình
thức, và ủng hộ tư tưởng của nền độc tài [chuyên chính] vô sản.
Những ngày qua tôi đọc lại tranh luận nổi
tiếng của Kautsky và Lenin, cuốn Nền chuyên chính vô sản của Kautsky
(1918), và cuốn Cách mạng vô sản và tên phản bội Kautsky đáp lại của
Lenin (1918). Kautsky viết với giọng khách quan, điềm tĩnh, ông kiên định
tin vào tư tưởng xã hội chủ nghĩa, nhưng đồng thời là tín đồ tận tâm của dân
chủ đại nghị. Ông lên tiếng ái ngại rằng nhân danh quyền lợi của giai cấp vô
sản người ta có thể bóp nghẹt ý chí của đa số, có thể lạm dụng quyền lực,
thiểu số bị bỏ rơi không được bảo vệ. Lenin với giọng mỉa mai khinh miệt,
chà đạp lên danh dự của đối thủ, bẻ lại từng lý lẽ của Kautsky. Đọc với con
mắt hôm nay, mọi lo sợ của Kautsky tỏ ra chính đáng. Ông đã đúng trong mọi
vấn đề ngược với Lenin, trừ một chủ đề quan trọng duy nhất, cụ thể là trong
lý giải lập trường của Marx và Engels. Không phải Kautsky, mà Lenin mới là
người đã có thể đưa ra các trích dẫn thuyết phục từ tư tưởng của hai nhà
tiên tri vĩ đại này để ủng hộ cho lý lẽ của mình. Ông nhắc tới những lời nổi
tiếng của Marx: “…những người công nhân sẽ thay thế nền độc tài của giai cấp
tư sản bằng nền độc tài cách mạng của mình…” (Marx (1873) [1974] p. 300).
Ông trích dẫn Engels: “…đảng chiến thắng không muốn phải chiến đấu vô ích,
nó phải duy trì sự thống trị của mình bằng nỗi sợ hãi do vũ khí của nó tạo
ra trong những kẻ phản động.” (Engels (1872) [1978] p. 733). Và một trích
dẫn Engels nữa mà Lenin dụi vào mũi Kautsky một cách nhạo báng: “Nhà nước
không là gì khác bộ máy đàn áp của một giai cấp đối với giai cấp khác, và
quả thực trong một nền cộng hòa dân chủ cũng chẳng kém hơn trong nền quân
chủ.” (Engels (1891) [1988], p. 22).
Kautsky không thể đưa ra các trích dẫn
của Marx để hậu thuẫn cho lý lẽ của ông ở đây. Ông cũng trích dẫn các lời
của Marx về nền độc tài cách mạng của giai cấp vô sản, và buộc phải đưa thêm
bình luận chua chát sau: “Đáng tiếc, Marx đã bỏ quên việc nêu chính xác ông
hình dung nền độc tài này thế nào.” (Kautsky (1919) [1964] p. 43). Cả ở
Kautsky, lẫn ở các nhà nghiên cứu–Marx
đương đại, thực sự rất khách quan và trong nhiều khía cạnh có cảm tình với
Marx, tôi cũng chẳng tìm thấy trích dẫn nào, trong đó Marx
– nhà phân tích chính trị vô cùng lỗi lạc,
người đã thảo luận toàn diện đến vậy về sự cầm quyền chính trị, nhà nước, và
các mối liên hệ giữa áp bức và tự do – giả
như đã khảo sát nghiêm túc mối quan hệ giữa các định chế dân chủ và quyền
con người, và các mối đe dọa của nền độc tài. Marx đã bỏ qua bản thân vấn
đề, bỏ qua toàn bộ lĩnh vực vấn đề khó giải quyết về sự bảo vệ chế định
của các quyền tự do và quyền con người. Sự khinh thường nhạo báng này [của
Marx] đã ăn sâu vào Lenin và vào những môn đồ trung thành của ông.
Sự khẳng định, rằng nền dân chủ là nền
độc tài của giai cấp tư sản, thế chỗ cho nó phải đưa một nền độc tài khác
vào bằng con đường cách mạng, đã làm mờ đi sự phân biệt sắc nét giữa nền dân
chủ và nền độc tài. Chỉ sau khi Hitler lên nắm quyền, những người cộng sản
phương tây mới đột nhiên nhận ra rằng nền dân chủ “hình thức”, “tư sản”, chế
độ đại nghị, nhà nước pháp quyền, sự hợp pháp không phải là trò viển vông,
mà là giá trị không thể thay thế được. Một trong những lý do là vì nó cung
cấp sự bảo vệ chế định cho những người muốn nói và viết, cho những người phê
phán chính phủ mọi thời, cho những người làm thay đổi xã hội triệt để, trong
đó có các trí thức bức xúc về lẽ phải như Marx đã là trong thời của ông.
Có thể, trong thời của Marx cặp đối lập
dân chủ–độc tài, nền độc tài của giai cấp
tư sản hay của giai cấp vô sản mới chỉ có vẻ là cuộc đấu khẩu. Ngày nay
trong con mắt của những người đã sống và đã sống sót dưới các chế độ chuyên
quyền của Stalin, Mao, Rákosi và của những kẻ khác, thì các từ này có nghĩa
khác. Ngày nay đã có thể thấy rằng sự khinh bỉ dân chủ trong các bài viết
của Marx dường như đã chuẩn bị mặt bằng mà trên đó tòa nhà chuyên chế
Leninist–Stalinist–Maoist
được dựng lên, đã làm tê liệt sự kháng cự chống áp bức trong những tín đồ
của tư tưởng Marxian.
Hiển nghiên tôi dùng từ “trách nhiệm”
không theo nghĩa hình sự. Bản thân việc công bố một tư tưởng sai lầm không
phải là một hành vi tội phạm. Vấn đề “trách nhiệm” cũng chẳng nổi lên ngay
cả theo nghĩa đạo đức học. Marx không vi phạm các mệnh lệnh đạo đức bằng
việc lên tiếng đòi xóa bỏ sở hữu tư nhân và thị trường, và đã không nhận ra
tầm quan trọng của dân chủ đại nghị và nhà nước pháp quyền trong bảo vệ các
quyền con người. Tôi chỉ nói về trách nhiệm trí tuệ. Nếu tôi công bố một tư
tưởng thúc đẩy hành động xã hội, thì không chỉ những người trực tiếp thực
hiện hành động đó, mà cả tôi cũng chịu trách nhiệm về cái xảy ra, và tôi
cũng chịu trách nhiệm về những hệ quả của những cái xảy ra này. Lời tôi càng
có ảnh hưởng, thì trách nhiệm của tôi càng lớn. Thế mà, chưa bao giờ, chẳng
có ai bằng tư tưởng của mình, bằng cương lĩnh được công bố của mình, lại có
ảnh hưởng đến những con người lớn hơn Karl Marx đã ảnh hưởng.
Cái tiếp tục sống từ các học thuyết
của Marx
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, quan điểm khá
phổ biến trong giới trí thức khắp thế giới rằng các tư tưởng của Marx đã sụp
đổ một lần và mãi mãi. Thấy đấy, lịch sử đã phủ nhận điều đó. Không phải một
lần tôi bắt gặp những bài viết huyênh hoang hay bài nói ngạo mạn: Marx đã là
“passé –quá khứ”, lỗi thời, và không cần quan tâm thêm.
Trong những ngày này, khi khủng hoảng
diễn ra, hình thành đúng là tâm trạng ngược lại. Marx lại trở thành mốt.
Trong các giới chính trị gia và nhà báo, việc dẫn chiếu đến những tiên đoán
mang tính tiên tri của Marx trở nên sang trọng, khi người ta vẽ ra những
cảnh tượng kinh hoàng về sự sụp đổ đến nơi của chủ nghĩa tư bản. Đột nhiên
Tư bản luận trở thàng sách bán chạy nhất.
Cả hai trào lưu mốt này đều không có căn
cứ. Với công trình của ông Marx đã không chỉ ghi tên mình vĩnh viễn vào
lịch sử chính trị và tư tưởng, mà nhiều tư tưởng của ông ngày nay cũng
vẫn đứng vững, và giúp cho sự hiểu biết thế giới đương đại. Tôi sẽ
quay lại ngay vấn đề này. Nhưng trước đó tôi muốn nói vài lời về sự phục
hưng gần đây nhất của Marx. Đúng là Marx thường đưa ra các lời tiên tri được
lặp đi lặp lại, theo đó trong chủ nghĩa tư bản có các lực tự hủy diệt hoạt
động, các lực đó sẽ dẫn hệ thống đến khủng hoảng chí tử và sụp đổ. Ngay cả
một vài trong số các nhà nghiên cứu-Marx, những người khính trọng các tư
tưởng của Marx nhất, cũng thừa nhận rằng dòng tư duy giải thích sự sụp đổ
cuối cùng là khó theo dõi, bí ẩn, khó hiểu, hay đơn giản là sai lầm.
Tôi không thích tiên tri, và tôi đã học
được ngần ấy từ kinh nghiệm riêng của mình rằng những thay đổi có tầm quan
trọng lịch sử thế giới nhiều khi lại diễn ra một cách đột ngột không ngờ
được. Tôi không biết cơ cấu xã hội sẽ như thế nào trong tương lai. Tôi chỉ
có thể nói ngần này: trong tầm nhìn của tôi không xuất hiện sự kết liễu của
chủ nghĩa tư bản, và lời tiên tri của Marx về sự thay thế chủ nghĩa tư bản
bằng chủ nghĩa xã hội còn ít có khả năng trở thành hiện thực hơn. Theo tôi
những nền tảng của chủ nghĩa tư bản tỏ ra vững chắc hơn thế nhiều. Tất nhiên
vấn đề sẽ không thể được giải đáp bởi cuộc đấu khẩu, tranh luận giữa các lời
tiên tri tranh cãi nhau, mà bởi lịch sử tương lai. Ngày nay chúng ta
chỉ có thể khẳng định ngần này với sự chắc chắn hoàn toàn rằng hiện thời chủ
nghĩa tư bản đang co giật – nhưng vẫn sống.
Trong báo chí hàng ngày chúng ta có thể
đọc thấy những tuyên bố của các chính trị gia và các nhà báo rằng sự “soviet
hóa” của thế giới phương tây đã bắt đầu. Bởi vì cái gì khác có thể giải
thích cho sự thực rằng chính phủ của một số nước không cho không các khoản
cứu trợ, mà thay vào đó đòi quyền sở hữu [các doanh nghiệp được cứu trợ].
(Hãy để tôi nói thêm: muộn hơn chính phủ có thể tư nhân hóa [bán] sở hữu nhà
nước này, trừ trường hợp có loại đảng cộng sản nắm được quyền ở Hoa Kỳ và ở
Anh mà đảng đó kiên quyết áp dụng mô hình Soviet bằng mọi giá). Những kẻ
huyên thuyên về “soviet hóa” và về việc đưa chủ nghĩa xã hội vào, là những
kẻ tự bộc lộ về mình rằng họ không những không hiểu Marx, mà cũng chẳng biết
gì về lịch sử của Liên Xô và các nét đặc trưng thực sự của hệ thống xã hội
chủ nghĩa.
Tuy nhiên, đáng nhấn mạnh rằng có thể
thấy những nhận xét thiên tài trong tập I và tập III của Tư bản luận
về sự bành trướng tín dụng quá đáng lúc này lúc khác và về tác động gây
khủng hoảng của nó. Có lẽ ông là người đầu tiên, hay chí ít cũng là một
trong những người đầu tiên, chú ý đến hiện tượng rằng bành trướng tín dụng
dẫn đến sản xuất thừa (theo thuật ngữ Marxian) như thế nào, tức là dẫn đến
sản xuất vượt cầu thực sự, hay là dẫn đến thừa năng lực cần thiết để đạt mức
sản xuất quá cao. Và quá trình bành trướng gia tăng này tiếp tục cho đến khi
chuỗi cho vay bắt đầu đột ngột đứt tung.
Trong một–hai thập kỷ qua đã có các kinh
tế gia hàn lâm và các chuyên gia tài chính thực tiễn nhận ra những mối nguy
hiểm tiềm ẩn trong việc cho vay vô trách nhiệm, tính toán sai lầm những rủi
ro, và trong yếu kém của sự điều tiết hệ thống tín dụng, thậm chí đã đưa ra
những kiến nghị để ngăn ngừa tai họa, nhưng người ta đã không lắng nghe họ.
Những lời cảnh báo tỉnh táo này không đến từ các giới Marxist, cũng chẳng
đến từ những kẻ thù cấp tiến của chủ nghĩa tư bản, mà đến từ những tín đồ
chăm lo bảo vệ chủ nghĩa tư bản, từ các nhà phê phán tập quán cho vay hiện
hành, từ các nhà cải cách hệ thống.
Còn bây giờ quay trở lại khung khổ kể
chuyện chủ quan, tôi muốn nói vài lời về các tư tưởng đáng làm bài học nhất
cho tôi từ những tư tưởng ngày nay vẫn còn đúng của Marx. Nhà bác học thiên
tài này đã thực sự làm tràn ngập chúng ta với những dòng thác ý tưởng và các
công cụ phân tích. Trong tiểu luận ngắn này tôi đã tranh luận với vài tư
tưởng rất quan trọng của ông, và tôi đã ra hiệu rằng về phần mình tôi không
chấp nhận chúng. Thế nhưng – nếu tôi vẫn có thể tiếp tục nói nhân danh cá
nhân mình – có nhiều đóng góp quan trọng của Marx đối với tư duy khoa học,
mà tôi vẫn tiếp tục chấp nhận, và tôi cố gắng sử dụng chúng. Tôi chỉ giới
hạn ở vài thí dụ sau đây.
Hầu hết chúng ta thường dẫn chiếu đến
Schumpeter, khi nói đến “sự sáng tạo hủy diệt”. Chúng ta nghĩ đến các nhà
kinh doanh, các nghiệp chủ, những người tổ chức việc đưa ra các sản phẩm
mới, các công nghệ mới, phương thức quản lý mới, chiếm lĩnh các thị trường
mới. Và bên cạnh đó chúng ta nghĩ đến sự phát triển tư bản chủ nghĩa do
Schumpeter mô tả, nó phá hủy thế giới cũ, tạo ra thế giới của riêng nó,
phương thức sản xuất của riêng nó thế vào đó, áp đặt chúng lên xã hội. Tuy
nhiên, chúng ta phải nói ngay, Marx và Engels đã mô tả quá trình này, lực
lượng tạo ra và lực lượng hủy diệt của chủ nghĩa tư bản, trước rất lâu rồi,
trong những dòng đầu tiên đầy quyến rũ của Tuyên ngôn Cộng sản. Theo
quan niệm của kinh tế học chính trị Marxian các nhà tư bản có vai trò nổi
bật trong tổ chức quá trình đổi mới kỹ thuật.
Trước và sau Marx sự chú ý của đa số các
nhà kinh tế tập trung vào các trạng thái cân bằng, mà cụ thể là vào một
trường hợp đặc biệt của cân bằng thị trường, khi cầu và cung cân bằng với
nhau. Muộn hơn kinh tế học gọi trạng thái cân bằng đặc biệt này là cân bằng
Walrasian. Bên cạnh Malthus, Marx là người mở đường của hướng nghiên cứu
phân tích các trạng thái lệch khỏi cân bằng thị trường, cụ thể là không chỉ
nghiên cứu những thăng giáng ngẫu nhiên xung quanh cân bằng thị trường
(Walrasian), mà cả những sự lệch kéo dài nữa. Marx đặc biệt quan tâm đến thị
trường sức lao động về khía cạnh này, trong đó cung cao hơn cầu không chỉ
tạm thời mà kéo dài. Marx đã không thử đưa ra lời giải thích nhân
khẩu học, mà đưa ra lời giải thích kinh tế học khi ông khảo sát hiện tượng
mà ông gọi là “nạn nhân mãn [quá nhiều người] tương đối”. Ngày nay cũng tình
trạng này, tình trạng dư cung sức lao động kéo dài, được kinh tế học sức lao
động gọi là cân bằng thất nghiệp. (Xem thí dụ, Layard-Nickell-Jackman 2005,
p. 8 và 11). Ít người nhớ rằng Marx là ông tổ mở đường. Về phần mình, tôi
nhấn mạnh, trước hết tôi học từ Marx rằng đáng chú ý nhường nào đến những sự
lệch kéo dài khỏi cân bằng thị trường.
Tôi không biết chính xác lịch sử về khái
niệm “chủ nghĩa tư bản” hình thành ra sao và được đưa vào tư duy khoa học
như thế nào. Tôi tin, tôi không nhầm, nếu tôi khẳng định: từ lâu hầu hết các
chính trị gia, các nhà bình luận và các nhà khoa học xã hội gắn sự đưa vào
khái niệm “chủ nghĩa tư bản” với Marx và trào lưu tư tưởng Marxist, và đối
sánh hệ thống tư bản chủ nghĩa thực sự hình thành về mặt lịch sử với một thế
giới mới, với hệ thống xã hội chủ nghĩa mà trước đó Marx mới chỉ tiên tri và
ao ước. Marx không hình dung cái sau (hệ thống xã hội chủ nghĩa) như một sự
không tưởng, mà như một thực tế lịch sử chắc chắn sẽ xuất hiện.
Sự tạo khái niệm này gắn mật thiết với
học thuyết liên quan đến các phương thức sản xuất kế tục nhau, khác
nhau về những đặc trưng quan trọng nhất.
Thành phần quan trọng này của tòa lâu đài
trí tuệ của Marx ngày nay vẫn có ảnh hưởng mạnh đến tư duy của tôi. Trong
một bài viết của mình tôi gọi cách xem xét này là “khung mẫu hệ thống–system
paradigm”, tức là cách xem xét không tách một lát (cắt) duy nhất, phần
được giới hạn duy nhất của xã hội, ấy là lĩnh vực chính trị, lĩnh vực văn
hóa và tư tưởng hay nền kinh tế, mà tập trung vào cái toàn thể do các
phần đó tạo nên. Nó tập trung chú ý đến các phần khác nhau phụ thuộc lẫn
nhau thế nào, những mối quan hệ nào hình thành giữa chúng. Nó không mô tả hệ
thống trong bức ảnh tĩnh chụp chớp nhoáng, mà nó cố hiểu động học của hệ
thống, như hệ thống diễn ra trong lịch sử. Marx là người mở đường vĩ đại và
bậc thầy vô song của system paradigm. Cùng một lúc, trong một cá nhân, ông
vừa là nhà kinh tế, nhà xã hội học, nhà khoa học chính trị và nhà sử học.
Thời đó, đã chẳng ai dùng từ “liên ngành–interdisciplinary”, nhưng ông đã
nêu một tấm gương về làm thế nào để vượt lên trên giới hạn chuyên ngành hạn
hẹp và nghiên cứu với tư cách một nhà khoa học xã hội toàn diện.
Người ta thường hỏi, tôi có là nhà
Marxist hay không? Câu trả lời của tôi dứt khoát là không.
Những người khác nói: tôi thuộc trường phái Áo, hay tôi là người theo trường
phái Keynes, tân cổ điển hay tân tự do, và v.v. Tôi lắc đầu từ chối trong
mỗi trường hợp. Tôi không là một tín đồ vô điều kiện của một trường phái hay
chủ nghĩa nào cả. Nếu những người khác thử làm việc đó, tôi cũng chẳng để
mình bị nhốt trong một cái hộp nào. Tôi ưa thú nhận rằng các thành tố của tư
duy của tôi – mượn các từ châm biếm của Engels – hòa lẫn thành cháo biện
chứng của kẻ ăn mày. Nếu tôi có thiện chí hơn với bản thân mình, tôi vui
lòng nói rằng tôi cố gắng tích hợp nhiều loại trào lưu tư tưởng. Khi phải
nêu tên những người đã có ảnh hưởng nhiều nhất đến tôi, tôi thường nhắc đến
tên Schumpeter, Keynes, Hayek, nhưng cùng trong danh sách này tên của Karl
Marx luôn đứng ở vị trí đầu tiên.
Tài liệu tham khảo
BENCE, G. – KIS, J. [1978]:
Towards an East European Marxism, under the pseudonym Marc Rakovski,
London: Allison and Busby.
BRÓDY, ANDRÁS [1970]: Proportions,
Prices and Planning: A Mathematical Restatement of the Labor Theory of
Value, Budapest – Amsterdam: Akadémiai Kiadó - North Holland.
BRUS, W. (1961) [1972]: The
General Problems of the Functioning of the Socialist Economy, New York
-London: Routledge.
COLLINS, P. [2008]: Karl Marx: Did he
get it all right? Times, October 21, 2008.
http://www.timesonline.co.uk
(Downloaded November 4, 2008.)
ELSTER, J. [1991]: Making Sense of
Marx, Cambridge – Paris: Cambridge University Press – Maison des
Sciences de l’Homme.
ENGELS, F. (1872) [1978]: On
Authority, in Marx-Engels Reader, second edition (first edition in
1973), pp.730-733. New York: Norton.
ENGELS, F. (1981) [1988]:
Introduction, in Karl Marx: The Civil War in France: The Paris Commune,
pp.9-22. , New York: International Publishers..
FOLEY, D. [1986]: Understanding
Capital: Marx’s Economic Theory, Cambridge MA: Harvard University Press.
KAUTSKY, K. (1918) [1964]: The
Dictatorship of the Proletariat, University of Michigan Press.
KORNAI, J. [1980]: Economics of
Shortage, Amsterdam: North-Holland
KORNAI, J. [1993]: The Socialist
System, Princeton - Oxford, Princeton: University Press – Oxford
University Press. (Hệ thống xã hội Chủ nghĩa, NXB Thông tin, 2002)
KORNAI, J.(2005) [2007]: By Force
of Thought - Irregular Memoirs of an Intellectual Journey, Cambridge,
Massachusetts and London, England: The MIT Press. (Bằng sức mạnh Tư duy,
NXB Thanh Hóa, 2008)
LAYARD, R. – NICKELL, S. – JACKMAN,
R. [2005]: Unemployment. Macroeconomic Performance and the Labor Market.
Oxford: Oxford University Press.
LENIN, V. I. (1918) [1964]: The
Proletarian Revolution and the Renegade Kautsky, Moscow: Foreign
Languages Press.
MANDEL, E. [2008] Marx, Karl Heinrich
(1818–1883), in Durlauf, S.N. – Blume, L.E. (eds.) The New Palgrave
Dictionary of Economics. Second Edition. Vol. 5. pp. 384-405. Palgrave -
Macmillan.
MARX, K – F. ENGELS (1848) [1969]:
The Communist Manifesto, Marx-Engels Selected Works, Volume One,
Moscow: Progress , pp. 98-137.
Marx, K. (1871) [1988]: The Civil War
in France, in Karl Marx: The Civil War in France: The Paris Commune,
New York: International Publishers.
MARX, K (1873) [1974]: Political
Indifferentism, in Karl Marx: The First International and After, New
York: Vintage Books
MARX, K. (1867) [1967]: The
Capital: A Critique of Political Economy Vol. 1., New York:
International Publishers.
MARX, K. (1863-1883) [1967]: The
Capital: A Critique of Political Economy Vol. 3, New York: International
Publishers.
MORISHIMA, M. [1973]: Marx’s
Economics: A Dual Theory of Value and Growth, Cambridge: Cambridge
University Press.
OZ, A. [2006]: How to Cure a
Fanatic, Princeton: Princeton University Press.
ROEMER, E. J. (ed.) [1986]:
Analytical Marxism, Cambridge, UK: Cambridge University Press.
ROEMER, E. J. (ed.) [1994]:
Foundations of Analytical Marxism, Brookfield: Elgar.
TABBIT, F. [2006]: A Brief History,
Scope, and Peculiarities of „Analytical Marxism”, Review of Radical
Political Economics,
www.sagepublications.com
Tôi cảm ơn Dániel Zsuzsa,
Madarász Aladár, và Nagy Eszter vì sự giúp đỡ quý báu của họ cho việc
soạn tiểu luận này. Tôi cảm ơn Brian McLean đã dịch sang tiếng Anh, cảm
ơn Collegium Budapest và Đại học Trung Âu đã hỗ trợ nghiên cứu của tôi.
Tôi chọn ra các công trình
sau từ văn liệu gần đây và đương đại: Elster (1991), Foley (1986),
Kolakowski (1978), Mandel (2008), Roemer (1986 và 1994) và Tabbit
(2006).
Các sách giáo khoa về
lịch sử lý thuyết được dùng ở các đại học phương Tây – hay chí ít các
sách giáo khoa được xuất bản trong mười năm lại đây – có nhắc đến các
công trình của Marx nhưng thường không phân tích hay đánh giá chúng một
cách sâu sắc. Xem, thí dụ, Backhouse (2002) và Vaggi and Groenewegen
(2006)
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Quang A
|