Anneliese Marie Frank sinh
ngày 12 tháng 6 năm 1929 tại
Frankfurt-on-Main, nước Đức,
trong một gia đình Do Thái.
Anne
là con gái thứ hai của Otto Heinrich
Frank và Edith Holländer.
Otto
Heinrich Frank đã từng là
sĩ quan trong quân đội Đức
vào thời kỳ Thế Chiến Thứ
Nhất, nhưng khi Hitler lên
nắm chính quyền và dùng sắc
dân Do Thái làm dê tế thần,
tức là một loại kẻ thù của
nước Đức Quốc Xã, thì ông
Otto đã quyết định mang gia
đình qua thành phố
Amsterdam, nước Hòa Lan
năm 1933. Vào
tháng 12 năm 1940, ông Otto
buôn bán thực phẩm tại một
tòa nhà cũ xây dựng vào thế
kỷ 17, mang số 263 trên
đường Prinsengracht. Các
nhân viên làm việc với ông
Otto đã coi ông là người
công bằng và ân cần.
Đối với Anne Frank, các năm
đầu sống tại thành phố
Amsterdam là thời gian hạnh
phúc. Trong miền ngoại ô vui
tươi này, các người trong
gia đình đều quên đi quá khứ
Đức mà dần dần mang đặc tính
Hòa Lan với chị Margot hơn
Anne 3 tuổi, là một thiếu nữ
thông minh và
xinh đẹp, nhưng
Anne nhậy cảm, duyên dáng và
nói chuyện bộc trực hơn.
Anne ưa thích phim ảnh,
chuyện thần thoại Hy Lạp và
các bạn bè.
Peter Schiff
Chữ ký của Anne Franck
Thủ bút của Anne
Tháng
2/2008 vừa qua, người
bạn thuở thiếu niên của
Peter Schiff tặng cho viện
bảo tàng Anne Frank tại
Amsterdam, hình Peter Schiff,
người yêu của Anne
Frank,
chụp năm 1939.
Vào tháng 5 năm 1940, quân
đội của Hitler tràn qua miền
đất Hòa Lan trung lập. Gia
đình Frank cũng như toàn thể
sắc dân Do Thái trở thành
nạn nhân của một hệ thống
chính trị đàn áp và khủng
bố. Đầu tiên, chế độ Quốc Xã
cấm đoán các người Do Thái
không được ký các hợp đồng
thương mại, sau đó các cuốn
sách do người Do Thái viết
ra bị đốt bỏ, rồi tiếp theo
là các đạo luật nghiêm trị
các cuộc hôn nhân giữa người
Do Thái và người Đức. Người
Do Thái không được phép vào
các thư viện, công viên, bờ
biển, rạp chiếu bóng v.v.
Tại Hòa Lan vào tháng
9/1941, chị Margot và Anne
bị chuyển qua ngôi trường
học gồm toàn học sinh Do
Thái. Tới tháng 4 năm sau,
mọi người Do Thái nhận được
lệnh phải mang ngôi sao 6
cánh màu vàng trên y phục,
họ không được phép dùng điện
thoại, bị cấm đi xe đạp...
Vào 8 giờ sáng ngày 6 tháng
6 năm 1944, đài BBC loan tin
quân đội Đồng Minh đổ bộ lên
bờ biển Normandy. Hy vọng đã
lóe lên trong căn phòng bí
mật. Có thể đây là năm chiến
thắng và giải phóng? Nếu như
vậy, Anne mơ mộng trở lại
trường học trong khóa học
tới? Vài ngày sau, Anne kỷ
niệm ngày sinh thứ 15.
Thế nhưng khúc cuối bi đát
đã tới vào buổi sáng ngày
thứ Sáu, tức là ngày 4 tháng
8, sau khi các người ẩn núp
đã trải qua 761 ngày dài lâu
và đau khổ.
(Có tám
người cùng sống trong
một nơi giam hãm nhỏ xíu
là
Otto và Edith Frank,
cha mẹ Anne, chị cả
Margot, nha sĩ Fritz
Pfeffer, ông bà
Van Pels và con trai
Peter của họ).
Vào khoảng 10
giờ 30 sáng, một chiếc xe
quân đội Đức ngừng lại trước
tòa nhà số 263 đường
Prinsengracht và các cảnh
sát mặc thường phục với một
cảnh sát mặc sắc phục dẫn
đường chạy vào tòa nhà.
Chúng chĩa súng vào Victor
Kugler, bắt anh phải dẫn tới
tủ sách giả và chúng ra lệnh
cho anh mở lối vào. Một lúc
sau, tám người Do Thái lẩn
trốn đã bị bắt. Một xe tải
bít bùng đã chở họ cùng với
Kugler và Johannes Kleimann
đi mất.
Tới xế chiều, hai người thư
ký là cô Miep Gies và cô Bep
Voskujl đã chờ đợi rồi mới
dám vào căn phòng bí mật.
Bọn Quốc Xã lục lọi khắp
nơi. Trong cảnh hỗn độn này,
Cô Miep thu lượm các tờ giấy
rải rác trên sàn nhà. Cô đã
kiếm được một thứ quý giá
hơn cả tiền bạc và nữ trang,
đó là tập nhật ký của Anne
Frank.
Ngày 27 tháng 1 năm 1945,
khi quân đội Xô Viết tràn
quân qua trại tử thần
Auschwitz thì ông Otto Frank
đang nằm trong bệnh viện,
nhờ vậy ông đã không bị đưa
tới phòng hơi ngạt và được
giải thoát. Ông Otto Frank
là người duy nhất thuộc nhóm
8 người, còn sống sót từ các
trại tử thần, sau đó trở về
thành phố Amsterdam, Hòa
Lan, rồi trong một lần thăm
viếng nơi ở cũ, gặp lại cô
Miep Gies, cô này đã trao
cho ông một tập giấy viết
tay và nói: “Đây là di sản
của con gái ông”.
Một tháng sau, 8 người Do
Thái lẩn trốn kể trên bị dồn
vào toa xe lửa cuối cùng chở
các tù nhân từ Hòa Lan tới
trại tử thần Auschwitz.
Đàn ông và đàn bà bị
chia cách
nhau, họ không bao giờ
gặp lại nhau. Anne và Margot
bị đưa tới trại
Bergen-Belsen.
Sự nghiên cứu chính xác của
Carol Ann Lee
từ những tài liệu, những
nhân chứng, đã cho ta biết
những gì xảy ra sau cuộc
lùng bắt những
người trốn trong xưởng đó.
Sự bắt bớ, cái chết của Anne
15 tuổi và Margot 18 tuổi và
Edith, mẹ các cô gái không
còn trừu tượng nữa.
Những
người thoát nạn từ
Auschwitz,
cũng gốc Hòa Lan, diễn
tả lại nơi mẹ con Edith ở:
Buổi sáng sớm lúc 3
giờ rưỡi bị đánh thức dậy để
làm một việc hết sức vô lý,
đó là xới đất để gom
thành đống đất trộn với cỏ. Anne phải đi
phân phối bánh mì cho bữa ăn
tối. Margot và mẹ bị chọn để
làm việc nơi một kho đạn
dược Tchèque
nhưng cả hai từ chối
không bỏ Anne ở lại một
mình, lúc đó Anne bị
ghẻ lở. Nhưng sau đó
mẹ con lại bị chia rẽ nhau: Anne
và Margot bị gởi tới
Bergen-Belsen
thuộc về miền
trung của nước Đức, tại nơi
này, giống như 28,000 tù
nhân khác, hai cô gái mắc
bệnh thương hàn..
Những người bạn ở chung
kể rằng những tháng
cuối cùng của hai chị em, là
nỗi đau khổ dai dẳng của họ.
Trong một trong những
căn nhà tồi tàn, quá đông
đúc và hôi thối, Margot và
Anne hấp hối. Hai người con
gái chết vì bệnh thương
hàn nơi một cái giường
thê thảm nhất có thể có
được, đặt sát cửa ra vào.
Hai chị em gầy còm, hốc hác
trông rất khủng khiếp.
Da mọc đầy mụn mủ. Gương
mặt không còn chút thịt nào,
chỉ da bọc xương và họ lạnh
kinh khủng. Margot chết
trước.
Anne chăm sóc chị tới
ngày chót và qua đời sau chị
vào tháng 3 năm 1945, vài
tuần lễ trước khi quân đội
Anh tiến vào trại tử thần
ngày 15/4/1945.
Năm 2001,
Carol Ann Lee
tác giả Mỹ đã in
ra tiểu sử cuộc đời Anne Frank
2/ Tóm tắt cuộc hành
trình
12/05/1889 : |
Otto Frank
sinh
tại
Franfurt,
Đức |
16/01/1900 |
Edith Holländer
sinh
tại
Aix-la-Chapelle (Đức)
|
12/05/1925 : |
Đám
cưới của Otto
Frank
và Edith
Holländer |
16/02/1926 : |
Margot Frank,
sinh
tại
Franckfurt
, Đức |
12/06/1929 : |
Anne Frank
,
sinh
tại
Frankfurt,
Đức |
8/1933 : |
Otto Frank
đi
đến Hòa Lan và những
người còn lại ở Aix
la Chapelle,
nhà
bà
ngoại Holländer |
9/1933 : |
Otto Frank
mở
hãng Opekta
ở Amsterdam . |
12/1933 : |
Cả
gia đình đến
Amsterdam |
3/1939 : |
Bà
ngoại Holländer
đến ở với các con tại
Amsterdam |
12/1940 : |
Otto Frank
thành
lận hãng ở 263
Prinsengracht |
5/1941 : |
Để
tránh sự cướp đoạt,
Otto Frank
sang
nhượng hãng và trở thành
« Handelsvereniging Gies
&
Co » |
8/1941 : |
Anne
và
Margot
bị ép
buộc phải rời
trường Montessori
|
01/1942 : |
Bà
ngoại
Holländer
từ trần |
12/06/1942 : |
Quà
sinh nhật thứ 13 của
Anne là một quyển nhật
ký. |
5/07/1942 : |
Margot
nhận
giấy triệu tập của chính
quyền để đến "trại lao
động" |
6/07/1942 : |
Gia
đình
Frank
trở
nên vô gia cư và trốn
trong căn phòng bí mật
|
13/07/1942 : |
Gia
đình
Van
Pels
gặp Frank
nơi
căn phòng bí mật |
16/11/1942 : |
Fritz Pfeffer
vào ở
trong căn phòng bí mật,
cùng phòng với
Anne |
4/08/1944 : |
Tám
người bị bắt |
8/08/1944 : |
Chuyển sang trại
Westerbork |
3/09/1944 : |
Bị
đày đến Auschwitz
,
Pologne |
6/09/1944 : |
Đến
Auschwitz,
Hermann Van Pels
chết
trong phòng
ngạt |
10/1944 : |
Anne
và Margot
bị
chuyển sang
Bergen-Belsen, Fritz
Pfeffer
tới
Neuengamme. |
20/12/1944 : |
Fritz Pfeffer
chết
trong trại
Neuengamme |
6/01/1945 : |
Edith Frank
chết
tại
Auschwitz-Birkenau |
27/01/1945 : |
Otto Frank
được
giải thoát nhờ các đội
Nga tại Auschwitz |
3/945 : |
Anne
và Margot
chết
tại Bergen-Belsen,
cách nhau vài ngày |
5/1945 : |
Peter Van Pels
chết
tại Mathausen,
và mẹ
là Auguste
Van Pels
chết
tại Theresin. |
3/06/1945 : |
Otto Frank
đến
Amsterdam |
|
Otto Frank
hay
tin các con đã chết.
Miep Gies
đưa
ông cuốn nhật ký của
Anne Frank |
|
Một
bài viết đăng trong
báo
Het parool
tựa
đề "tiếng nói của đứa
trẻ đăng trong báo hàng
ngày của Hòa Lan", nói
lên lợi ích của
cuốn Nhật ky Anne Frank |
8/1947 : |
Nhật
ký Anne Frank được
đăng tại Hòa Lan,
là
bản đầu tiên được viết
bằng tiếng
Hòa Lan (bản gốc). |
1950 : |
Xuất
bản đầu tiên bằng
tiếng Pháp |
1952 : |
Hoa
Kỳ đăng bằng tiếng
Anh dưới tựa đề " Nhật
ký của một cô gái trẻ"
(The
diary of a young girl) |
11/1953 : |
Otto Frank
cưới
Elfriede Geiringer
và ở
tại Bâle,
Thụy
sĩ
(Suisse) |
1955 : |
Một
vở kịch lấy từ Nhật ký
Anne Frank được diễn tại
Hoa Kỳ |
1959 : |
Phim
đầu tiên của Hoa Kỳ
trích từ Nhật ký Anne
Frank, do
Georges
Stevens
thực hiện
|
19/08/1980 : |
Otto Frank
mất
tại Suisse, 91
tuổi. |
3/ Ai là kẻ
phản bội ?
Ai là người
đã phản bội các người Do
Thái đau khổ kể trên tại
thành phố Amsterdam?
Có
phải
là một công nhân mới
của nhà kho đã tò mò vì các
tầng lầu ở trên, vì thèm
muốn số tiền thưởng do bọn
Quốc Xã tặng nếu bắt được
người Do Thái? Mặc dù người chỉ điểm này bị
điều tra hai lần nhưng anh
ta đã không bị truy tố.
Kleiman và Kugler bị tống
giam tại Hòa Lan nhưng về
sau trở về làm việc tại tòa
nhà số 263 đường
Prinsengracht. Ông Otto sau
này sống với cô Miep Gies và
người chồng của cô này tên
là Jan tại thành phố
Amsterdam rồi qua đời vào
năm 1980 ở tuổi 91.
Theo năm
tháng, nhiều giả thuyết được đưa ra
để thử tìm lý lịch kẻ phản bội. Ba
kẻ tình nghi lộ ra:
Wim
van Maaren, người
làm công cho Otto Frank, Lena
Hartog-Van Bladeren
người giúp việc nhà và Anthon
Ahlers, một lính
Hòa Lan nghiên về Đức quốc xã.
Năm 2002, nhà
sử học
Carol Anne Lee,
tác giả của bài tiểu sử Otto
Frank đã phỏng
đoán là Anthon Ahlers là thủ phạm.
Ahlers cộng tác viên cũ của Otto
nhưng lại là người bài Do Thái, thêm
vào đó ông ta rất cần tiền và
cần sự bảo trợ của Nazi.
Theo nhà văn Áo
Melissa Muller
thì ngược lại, chính bà giúp việc
Lena Hartog-Van Bladeren
là kẻ đã tố
giác gia đình Frank vì sợ chính mình
bị đày đến trại giam.
Trước đó thì
Wim van Maaren là
kẻ
tình nghi chính, nhưng sau
chiến tranh những cuộc điều
tra thất bại không có bằng cớ.
Tuy nhiên năm
2003, một cuộc điều tra toàn bộ của
Viện nghiên cứu tư liệu chiến tranh
Hòa Lan (NIOD = Het Nederlands
Instituut voor Oorlogsdocumentatie)
đã kết luận rằng sẽ không thể biết
ai đã phản bội gia đình Anne Frank.
4/ Lò hỏa
thiêu Holocaust
Vào cuối năm 1944, quân đội
Xô Viết tiến vào lãnh thổ
Đức qua ngã Ba Lan, họ đã
gặp trại tử thần Majdanck
bên trong có trang bị nhiều
phòng hơi ngạt và nhiều lò
hỏa thiêu để tận diệt các
người Do Thái. Nhiều phóng
viên báo chí đã đi vào trong
trại này và đã phổ biến
những điều mắt thấy tai
nghe. Ký giả H. W. Lawrence
đã viết cho tờ báo New York
Times: “Tôi đã nhìn thấy một
nơi khủng khiếp nhất trên
trái đất”.
Tới mùa xuân năm 1945, địa
danh của các trại tập trung
người Do Thái như Ohrdruf,
Buchenwald, Dachau,
Nordhausen, Auschwitz... vẫn
chỉ là những tên gọi tầm
thường trên các bản đồ quân
sự nhưng khi đoàn quân Hoa
Kỳ đã tiến vào Ohrdruf ngày
6/4/1945, các quân nhân Mỹ
đã nhìn thấy nhiều bãi đất
chứa thây người chết, đa số
thối rữa giữa ánh nắng tháng
4, một số khác là các đống
xác người rất lớn, hỏa thiêu
giữa trời và cháy dở dang,
còn các tù nhân sống sót
trông giống như các bộ xương
biết đi. Mùi tử khí xông lên
nồng nặc. Các cảnh tàn sát
các tù nhân, các cảnh giết
người dã man tàn ác này đã
ra ngoài sức tưởng tượng của
các người lính Hoa Kỳ.
Những hình ảnh về
Holocaust nơi trang :
http://shamash.org/holocaust/photos/
Holocaust là hệ thống lò hỏa
thiêu 6 triệu người Do Thái
do bọn Quốc Xã Đức (the
Nazis) và các kẻ cộng tác
gây nên trong thời kỳ Thế
Chiến Thứ Hai. Bọn Quốc Xã
đã gọi công việc tàn sát tập
thể này bằng danh từ “Giải
pháp cuối cùng của vấn đề Do
Thái” (the Final Solution to
the Jewish Problem).
5/
Căn phòng bí mật.
Tủ sách giả che
ngõ vào của nơi
Anne trốn, tại
Amsterdam
|
Một năm sau
cuốn nhật ký được xuất bản
dưới nhan đề do Anne chọn
lựa là “Căn phòng bí mật”.
Lời nói của cô bé cầu mong
được sống trước cõi chết
trong cuốn nhật ký đã làm
rung động lòng thương xót
của hàng triệu người gần xa.
Từ khi ấn bản tiếng Hòa Lan
xuất hiện vào năm 1947, cuốn
nhật ký này đã được dịch
sang 55 ngôn ngữ và đã bán
được trên 25 triệu cuốn. Tại
Hoa Kỳ, tác phẩm có tên là
“Nhật Ký của một Thiếu Nữ”
(The Diarry of a Young
Girl), và ước mơ của Anne
Frank trở nên một nhà văn,
đã thành sự thực.
|
Nhà số
263
Prinsengracht
nơi
mà gia đình
Anne Frank
trốn trong
hai năm và
là nơi nhật
ký của Anne
ra đời (Ảnh
của
Laurie
Williams
Sowby)
|
Cuốn nhật ký của Anne Frank
đã được phổ biến nên chẳng
bao lâu nhiều người muốn
được coi căn phòng bí mật.
Vào mỗi buổi sáng, dù trời
mưa hay nắng, có một đoàn
người xếp hàng bên ngoài tòa
nhà bốn tầng mang số 263
trên đường Prinsengracht
thuộc thành phố Amsterdam,
nước Hòa Lan. Đôi khi họ còn
xếp hàng hai, kéo dài tới
tận góc đường. Họ chờ đợi
tới lượt được leo lên một
cầu thang nhỏ dẫn tới “căn
phòng bí mật”, tại nơi này
hơn 50 năm về trước, một cô
gái nhỏ tên là Anne Frank đã
viết ra một nhật ký làm đau
lòng mọi người trên khắp thế
giới.
Căn phòng bí mật gồm bốn
phòng phụ nhỏ phía sau tòa
nhà kể trên, nằm trên hai
tầng cao, phía trên là tầng
sát mái. Các người Do Thái
đau khổ vì bị truy lùng, đã
trốn tránh tại nơi đây nhưng
rồi họ đã bị phản bội, bị
bọn Đức Quốc Xã bắt đi, sau
đó nhờ cuốn nhật ký của Anne
Frank mà câu chuyện của họ
được mọi người biết đến. Họ
gồm 8 người,
thuộc hai gia
đình và một người trưởng
thành khác, ẩn núp tại nơi
chật hẹp này trong 25 tháng,
họ thức và ngủ trong nỗi lo
sợ, trải qua các thời gian
dài buồn tẻ, luôn luôn hoảng
hốt vì sợ bị khủng bố, nhưng
tinh thần của Anne không bị
suy sụp. Ba tuần lễ trước
khi cuộc ẩn núp chấm dứt,
Anne Frank cho thấy niềm tin
không lay chuyển: “Mặc dù
mọi sự việc, tôi còn tin
rằng con người có bản tâm
thật tốt. Đối với tôi, tôi
không thể xây dựng cuộc đời
của tôi trên nền móng hỗn
độn, đau khổ và cõi chết.
Nhưng tôi đang nhìn thấy thế
giới đang chuyển thành hoang
dã. Tôi nghe thấy tiếng sấm
lại gần. Tôi cảm thấy nỗi
đau khổ của hàng triệu
người. Nhưng khi tôi nhìn
lên trời cao, dù sao tôi còn
cảm thấy rằng nền hòa bình
và sự yên ổn sẽ trở lại”.
Từ ngày 12/6/1942, Anne
Frank bắt đầu viết nhật ký.
Cô được cha mẹ cho một quyển
giấy mỏng có bìa sọc nhiều
màu nhân ngày sinh thứ 13.
Trên những trang đầu, Anne
kể lại nhiều câu chuyện tầm
thường về lớp học nhưng sang
tuần lễ sau, cô đã ghi:
“Ngày 20 tháng 6, các người
Do Thái bị bắt buộc phải nộp
các xe đạp. Họ không được
dùng xe điện, đi xe hơi ngay
cả ngồi trên xe của họ.
Người Do Thái bị cấm ra
đường trong khoảng thời gian
từ 8 giờ tối tới 6 giờ sáng,
bị cấm không được ngồi trong
vườn của họ sau 8 giờ tối”.
Trước các hành động khủng bố
này, cha của Anne bắt đầu
thu xếp cho gia đình ẩn núp
trong các căn phòng không sử
dụng nằm dưới mái nhà của
tòa nhà số 263 đường
Prinsengracht. Vào ngày chủ
nhật, ông Otto lén lút mang
các vật dụng gia đình, đồ
đạc và các lon đồ ăn cất vào
trong căn phòng bí mật. Biết
rằng cần tới sự giúp đỡ của
người bên ngoài, ông đã tin
cẩn nhờ bốn nhân viên cũ tên
là Johannes Kleiman, Victor
Kugler và hai cô thư ký trẻ
Miep Gies và Bep Voskuijl.
Anne đã ghi trong nhật ký:
“Vài ngày trước đây, cha bắt
đầu nói tới việc đi trốn với
vẻ rất nghiêm trọng làm cho
tôi sợ hãi. Ông nói “đừng
bận tâm, con hãy hưởng cuộc
đời vô lo khi còn có thể
hưởng”. Ôi, cầu mong những
lời đơn sơ này trở thành sự
thật và dài lâu”.
Nhưng chỉ sau ít giờ khi
Anne bắt đầu ghi nhật ký thì
lệnh của bọn lính Quốc Xã SS
được giao cho Margot, 16
tuổi. Chị phải trình diện
ngày hôm sau để bị chuyển
tới trại lao động cải tạo
bên trong nước Đức. Không
còn trì hoãn được nữa. Sáng
sớm ngày hôm sau, toàn thể
gia đình Frank biến mất.
Margot đi trước, chị lột bỏ
ngôi sao vàng trên áo và đạp
chiếc xe đạp ăn cắp, đi
trong trời mưa cùng với Miep
Gies tới nơi ẩn núp. Anne và
cha mẹ đi bộ theo sau. Họ đã
ra đi để được sống gần nhau
nhưng phải xa lìa mọi thứ
trên thế gian. Nhật ký đã
ghi: “Mỗi người chúng tôi có
một túi đeo và một túi xách
đầy ắp những đồ vật cần
thiết”.
Do xếp đặt trước, vài người
khác cũng tới nơi ẩn núp
này. Có 3 người Do Thái khác
đang gặp nguy khốn là ông
Hermann Van Pels, vợ ông ta
và con trai Peter, 15 tuổi.
Ông Hermann là đồng nghiệp
của ông Otto. Vào lúc này,
có tin đồn rằng gia đình
Frank đã bỏ trốn qua Thụy
Sĩ.
Nhật ký ghi thêm: “Ngày
11 tháng 7. Có vẻ như ngày
nghỉ trong một căn nhà trọ
lạ lùng. Căn nhà thì ẩm thấp
và nghiêng lệch, nhưng trong
cả nước Hòa Lan, không có
nơi ẩn núp nào tiện lợi hơn
nơi này. Phòng ngủ của chúng
tôi cho tới nay thì trơ
trụi, nhưng nhờ có cha mang
về các tờ báo điện ảnh, tôi
có thể dán kín các bức tường
bằng các hình đẹp mắt”.
Margot và Anne ngủ trong căn
phòng dài và hẹp này, bên
cạnh là căn phòng của cha
mẹ. Gia đình Van Pels chiếm
hai phòng kia. Cửa vào căn
phòng được ngụy trang bằng
một tủ sách xoay và trên mỗi
cửa sổ đều có màn tối che
phủ. Bên trong căn phòng,
mọi người phải thật thận
trọng khi nấu ăn, xả rác hay
dùng chiếc cầu tiêu duy
nhất. Vào ban ngày mọi người
phải mang
vớ
để
di chuyển, phải thì thầm nói
với nhau do e sợ bị các công
nhân làm trong nhà kho bên
dưới nghe thấy, bởi vì các
công nhân không biết rằng
trên đầu họ đang có
những kẻ
ẩn núp.
Các ngày buồn tẻ của mùa hè
năm 1942 trôi dần qua. Vào
tháng 11, cô Miep tới nơi ẩn
núp, báo cho mọi người biết
tin rằng nha sĩ Fritz
Pfeffer đang tuyệt đối cần
gấp một nơi trốn tránh vì
vậy chị Margot phải dọn vào
ngủ trong phòng với cha mẹ
và Anne chia phòng với người
mới đến. Như thường lệ, bốn
nhân viên trung thành thay
nhau tiếp tế cho các người
ẩn núp sau khi các công nhân
làm việc trong tòa nhà đã ra
về, họ mang tới đồ ăn và các
nhu yếu phẩm rất khó kiếm
như xà bông, kem đánh răng,
thuốc cảm aspirin. Họ cũng
tìm được vài cuốn sách và
các tạp chí. Anne đã ghi lại
như sau: “họ không hề than
phiền về gánh nặng mà họ
phải chịu đựng”.
Anne Frank cũng hỏi tin của
các bạn bè cùng gia đình của
các người bạn này nhưng
không bao giờ có các tin vui
cả. Qua chiếc máy truyền
thanh lén lút, các người ẩn
núp nghe thấy đài phát thanh
BBC loan báo về các vụ trục
xuất tập thể. Khi tới nơi
trú ẩn, ông Pfeffer cũng cho
các người trong nhà này biết
rằng bọn Đức Quốc Xã đã đi
từng nhà săn lùng các người
Do Thái.
Nhật ký của Anne Frank ghi
như sau: “Vào lúc trời tối,
tôi thường trông rõ nhiều
hàng dài các con người vô
tội bị dẫn đi. Họ đi vào cõi
chết. Tôi cảm thấy mắc tội
khi còn ngủ trên chiếc
giường ấm áp và hết sức hãi
hùng khi nghĩ đến các bạn
thân hiện nay là nạn nhân
của các con quỷ dữ tợn nhất
trên mặt đất. Tất cả là nạn
nhân, bởi vì họ là các người
Do Thái”. Sau này, Anne còn
viết rằng: “Nhưng tôi sẽ
không nói thêm về đề tài
này. Các ý nghĩ này đủ cho
tôi các cơn ác mộng”.
Các cơn ác mộng thật sự tới
với những người ẩn núp khi
có kẻ trộm lẻn vào nhà kho
bên dưới và cảnh sát Đức lục
lọi tòa nhà trong khi mà tám
nạn nhân trốn tránh trong
căn phòng bí mật. Nhật ký
ghi: “Có chân người bước lên
cầu thang, rồi tiếng kẹt kẹt
tại tủ sách. Tôi nói “bây
giờ tới số rồi”, nhưng sau
đó bước chân lui dần, cho
tới lúc này chúng tôi thoát
hiểm”.
Khi Anne Frank đã ghi hết
các trang giấy, cô Miep lại
mang tới những tờ giấy trắng
rời của các cuốn sổ ngân
hàng rồi Anne tiếp tục viết.
Cuốn nhật ký là người bạn
thân nhất của Anne, cô viết
theo trí tưởng tượng: “Tôi
cảm thấy mình như một con
chim sơn ca có cánh bị chặt
bỏ và tự đập mình vào thành
của chiếc lồng đen tối”. Hai
tháng sau lần viết ra câu
này, Anne tự hỏi: “Có ai
biết rằng tôi chỉ là một
thiếu nữ rất cần tới các trò
chơi đơn giản không?”.
Khi
mới quen
Peter Schiff
,
Anne được 11 tuổi, còn
Peter 13. Năm 1940
Peter đến đón Anne khi tan
học và mời Anne tới nhà.
Lúc
đầu, Anne Frank
chê Peter là “một cậu trai
vụng về, kết bạn chẳng có
lợi gì” nhưng vào mùa xuân
năm 1944 khi Anne sắp được
15, hai người trẻ tuổi này
đã yêu thương nhau. Họ
thường gặp nhau tại tầng sát
mái, nơi có cửa sổ nhìn lên
bầu trời xanh, nhìn thấy
ngọn cây hạt dẻ xanh tươi và
các con hải âu bay lượn theo
chiều gió.
Ngày 7/1/1944, Anne tả trong
nhật ký tình cảm đam mê của
mình:
..."
Tôi vẫn còn
nhìn thấy chúng tôi tay
trong tay trên đường phố...
Peter cao, đẹp, mảnh với
khuôn mặt đoan trang, bình
tĩnh và thông minh. Anh có
tóc sậm màu,
hai má nâu đỏ và cái
mũi thanh. Điều mà tôi yêu
quý nhất là nụ cười của anh,
nụ cười làm anh có vẻ ranh
mãnh và tinh nghịch"...
.."Ngày 16 tháng 4. Tôi nhớ
lại buổi gặp gỡ hôm qua. Đây
có phải là một ngày quan
trọng không khi người con
gái nhận nụ hôn đầu tiên?...
Cha muốn tôi chấm dứt việc
tôi lên trên tầng cao nhất
đó nhưng tôi thích gần
Peter. Tôi tin anh ấy”...
Cũng như Anne,
Peter Schiff chết
trong trại tập trung ở
Auschwit
Anne Frank đọc thật kỹ các
cuốn sách do cô Miep mang
tới: “Ôi, có quá nhiều để
tìm kiếm và để học hỏi” và
cô bé này ước mong viết ra
một cuốn sách có tên là “Căn
phòng bí mật”, tức là cuốn
nhật ký của cô. “Tôi muốn
trở thành một nhà văn. Tôi
biết rằng tôi có thể viết
văn. Tôi muốn tiếp tục sống
sau khi qua đời! Và đây là
lý do tại sao tôi biết ơn
Thượng Đế vì đã cho tôi năng
khiếu này, nhờ đó tôi có thể
diễn tả những gì bên trong
tâm hồn của tôi”.
7/ Xuất bản
cuốn nhật ký
Tiểu sử
Anne Frank chưa dừng sau cái
chết của cô mà vẫn tiếp tục
với việc xuất bản quyển nhật
ký. Qua thư từ của Otto
Frank và những người
bạn nhân chứng của
ông, phải
mất khá lâu ông Otto mới đọc
xong cuốn Nhật Ký của cô con
gái Anne Frank rồi dần dần
và trong nỗi cực nhọc, ông
Otto bắt đầu đánh máy bản
viết tay
để các họ hàng và bạn bè
đọc. Ông
kết hợp trang nhật ký và
những lời kể của bạn bè và
chứng nhân, xóa bớt
vài chỗ (những trang viết
thiếu vừa mới được tìm
thấy), bớt đi những lời dữ
tợn của Anne dành cho mẹ
cũng như những phê
phán của Anne về sự quan hệ
của cha mẹ. Ngoài ra tờ nhật
báo Hòa Lan
Het
Parool
nhận in trang nhật ký
với điều kiện là xóa
bỏ những đọan nói về tình
dục.
Trong thập
niên 50, đầu tiên quyển nhật ký bị
các nhà xuất bản Đức từ chối, cũng
các nhà xuất bản
Knopf, Simon &
Schuster,
Viking của
Mỹ. Cuối cùng, Doubleday xuất bản
tại Hoa Kỳ.
Calmann-Lévy
in đầu tiên tại Pháp và đến năm 1989
thì nhà xuất bản này in trọn bộ
quyển Nhật ký.
8/
Một bằng chứng trước
tội ác diệt chủng.
|
Do cuốn Nhật Ký của Anne
Frank, tòa nhà số 263 đường
Prinsengracht trở nên một di
tích của các lời kêu than vì
nạn khủng bố và số du khách
viếng thăm căn phòng kỷ niệm
lên tới 6,000 người vào năm
1960 khiến cho tòa nhà không
bị phá bỏ và một ngân quỹ
được thành lập để phục hồi
tòa nhà trong đó có cả phòng
triển lãm. Vào ngày 3 tháng
5 năm 1960, tòa nhà này đã
chính thức mở cửa; trong năm
1994 đã đón tiếp 600,000 du
khách từ khắp nơi trên thế
giới.
Ngày nay các khách thăm
viếng “căn phòng bí mật” khi
đi qua cái tủ sách ngụy
trang xoay vào căn phòng của
Anne, sẽ nhìn thấy tấm bản
đồ Normandy trên đó ông Otto
đã vạch bước từng tiến của
quân đội Đồng Minh. Bên cạnh
tấm bản đồ là các nét bút
chì mà ông Otto đã ghi lại
chiều cao của ba đứa trẻ
chẳng bao giờ có được cơ hội
trở nên người trưởng thành!
Trong căn phòng của Anne,
dán trên tường là các hình
điện ảnh và các tấm ảnh nhạt
màu đã từng làm cho Anne
Frank vui tươi và nuôi ảo
mộng, nhưng cô bé Anne không
còn nữa, nhiều du khách đã
rơi nước mắt.
Cô bé Anne Frank là nạn nhân
danh tiếng nhất của Lò Hỏa
Thiêu Holocaust. Lời văn của
Anne vừa mạnh mẽ, vừa thật
thà, đã tạo nên sức hấp dẫn
của một cuốn tiểu thuyết vì
vậy có người đã viết trong
cuốn sổ dành cho các du
khách tại tòa nhà số 263
đường Prinsengracht như sau:
“nếu chỉ có hai cuốn sách
dành cho cuối cuộc đời của
tôi, hai cuốn này sẽ là cuốn
Thánh Kinh và cuốn Nhật Ký
của Anne Frank”.
Anne Frank trở nên bất tử do
sự nghiệp văn chương của cô.
Cô bé này là một nhà văn
xuất sắc mặc dù tuổi còn
nhỏ. Hàng triệu độc giả đã
phải xúc động vì cách mô tả
ngây thơ, chân thật của cô.
Anne tự hỏi về nhiều vấn đề
như sinh lý, tôn giáo, cha
mẹ... , cô mô tả sự nhàm
chán và buồn tẻ, cô thắc mắc
về các đề tài như lòng rộng
lượng và tính công
bằng
trong xã hội loài người.
Anne Frank đã cầu mong: “khi
nhìn lên trời cao, tôi nghĩ
rằng mọi sự việc sẽ trở nên
tốt lành, rằng sự tàn bạo sẽ
chấm dứt, rằng nền hòa bình
và sự yên tĩnh sẽ trở
lại...”. Đây không phải là
tiếng kêu của một người Do
Thái bị nhốt trên tầng chót
của một tòa nhà mà là tiếng
than của một tâm hồn trong
thế kỷ 20, là lời cầu mong
của kẻ lạc lõng, bất lực và
đau khổ giữa các thảm cảnh
đàn áp rất tàn bạo trong
thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai.
Bọn Đức Quốc Xã đã giết chết
một cô bé ngây thơ, vô tội,
nhưng cuốn Nhật Ký của cô
Anne Frank đã là một bằng
chứng về loại tội ác diệt
chủng.
Cho tới ngày nay, Anne Frank
vẫn là một ngọn nến cháy
sáng trong đêm tối vì loài
người, do cô bé đã ghi nhận:
“Tôi còn tin tưởng rằng dù
thế nào đi nữa, mọi người
đều có bản tâm thật tốt”.
Đăng
lần đầu ngày
28/06/05
Bổ sung lần 1
ngày
08/10/2006
Bổ sung
lần 2
ngày 03/03/2008
'It's time to
tell the truth'
http://www.biblioweb.org/-FRANK-Anne-.html
http://shamash.org/holocaust/photos/
http://annefrank.cidem.org/biographie.php
|