Vụ Nổ Lớn là một lý thuyết
khoa học về nguồn gốc của vũ
trụ. Lý thuyết đó phát biểu
rằng vũ trụ được bắt đầu từ
một điểm kỳ dị có mật độ vật
chất và nhiệt độ lớn vô hạn
tại một thời điểm hữu hạn
trong quá khứ. Từ đó, không
gian đã mở rộng cùng với
thời gian và làm cho các
thiên hà di chuyển xa nhau
hơn tạo ra một vũ trụ giãn
nở như chúng ta thấy ngày
nay.
Ý tưởng trung tâm của lý
thuyết này là quá trình vũ
trụ đang giãn nở. Nó được
minh chứng bằng các thí
nghiệm về dịch chuyển đỏ của
các thiên hà (định luật
Hubble). Điều đó có nghĩa là
các thiên hà đang rời xa
nhau và cũng có nghĩa là
chúng đã từng ở rất gần nhau
trong quá khứ và quá khứ xa
xưa nhất, cách đây khoảng
13,7 tỷ (13.7 × 109)
năm, là một điểm kỳ dị. Từ
"vụ nổ lớn" được sử dụng
trong một nghĩa hẹp, đó là
một thời điểm trong thời
gian khi sự mở rộng của vũ
trụ bắt đầu xuất hiện, và
theo nghĩa rộng, đó là quá
trình tiến hóa, giải thích
nguồn gốc và sự phát triển
của vũ trụ.
Lịch sử
Lý thuyết Vụ Nổ Lớn được đưa
ra dựa trên cơ sở của các
thành tựu của lý thuyết và
thực nghiệm. Về mặt thực
nghiệm, năm 1910, nhà khoa
học Vesto Slipher và sau này
là Carl Wilhelm Wirtz đã xác
định rằng hầu hết các tinh
vân hình xoáy ốc đang rời xa
Trái Đất, nhưng họ không
nhận ra ý nghĩa của việc
này, họ cũng không nhận ra
được là các tinh vân đó là
các thiên hà ở ngoài Ngân Hà
của chúng ra.
Cũng vào những năm 1910, lý
thuyết tương đối rộng của
Albert Einstein thừa nhận
một vũ trụ không tĩnh tại.
Vũ trụ được mô tả bằng một
ten sơ metric là một vũ trụ
đang giãn nở hoặc đang co
lại. Nhưng bản thân Einstein
lại cho rằng một vũ trụ như
thế là sai và ông đã bổ sung
một hằng số vũ trụ, có tác
dụng như một lực hút để có
thể mô tả một vũ trụ tĩnh
tại. Người đầu tiên nghiên
cứu thuyết tương đối rộng
một cách nghiêm túc mà không
cần đến hằng số vũ trụ là
Alexander Friedmann, và ông
đưa ra các phương trình mô
tả cho vũ trụ
Friedmann-Lemaître-Robertson-Walker.
Năm 1927, một thầy tu dòng
tên người Bỉ là Georges
Lemaître cũng đưa ra các
phương trình
Friedmann-Lemaître-Robertson-Walker
một cách độc lập dựa trên
các quan sát về sự lùi xa
của các tinh vân hình xoáy
ốc, và giả thiết rằng vũ trụ
bắt đầu từ một "vụ nổ" của
một "nguyên tử nguyên thủy"
mà sau này gọi là "Vụ Nổ
Lớn".

Năm 1929, Edwin Hubble
đã
đưa ra các cơ sở thực nghiệm
cho lý thuyết của Lemaître.
Hubble chứng minh rằng, các
tinh vân hình xoáy ốc là các
thiên hà và ông đo khoảng
cách giữa chúng bằng các
ngôi sao Cepheid. Ông phát
hiện ra rằng các thiên hà
đang rời ra xa chúng ta theo
tất cả các hướng với vận tốc
tỷ lệ với khoảng cách giữa
chúng. Sự giãn nở này được
gọi là định luật Hubble.
Do sự giới hạn của nguyên lý
vũ trụ, định luật Hubble gợi
ý rằng vũ trụ đang giãn nở.
Điều này cho phép hai khả
năng trái ngược nhau có thể
xảy ra. Khả năng thứ nhất là
lý thuyết về vụ nổ lớn của
của Lemaître, và sau đó được
George Gamow mở rộng là
đúng. Khả năng thứ hai là vũ
trụ tuân theo mô hình trạng
thái dừng của Fred Hoyle,
trong đó, vật chất được tạo
ra khi các thiên hà chuyển
động ra xa khỏi nhau. Theo
mô hình của Hoyle, vũ trụ
gần như không đổi theo thời
gian. Thực ra chính Hoyle là
người đã đặt tên cho lý
thuyết của Lemaître một cách
mỉa mai trên một chương
trình của đài BBC vào năm
1949 là "vụ nổ lớn", đến năm
1950 cái tên trên mới được
in ở trên các bài báo.
Trong rất nhiều năm, ý tưởng
này vẫn gây nhiều tranh cãi.
Tuy nhiên, có nhiều bằng
chứng thực nghiệm ủng hộ ý
tưởng cho rằng vũ trụ bắt
đầu từ một trạng thái đặc
nóng. Từ khám phá bức xạ
phông vi sóng vũ trụ vào năm
1965 thì lý thuyết vụ nổ lớn
được coi là lý thuyết tốt
nhất để mô tả nguồn gốc và
tiến hóa của vũ trụ.
Trước những năm cuối của
thập kỷ 1960, rất nhiều nhà
vũ trụ học nghĩ rằng điểm kỳ
dị có mật độ vô hạn tại thời
điểm bắt đầu của thời gian
trong mô hình vũ trụ của
Friedmann có thể không đúng
nếu trước đó, vũ trụ ở pha
co lại nhưng khi đến gần các
thiên hà trượt qua nhau và
chuyển sang pha giãn nở như
hiện nay. Richard Tolman gọi
vũ trụ như thê này là vũ trụ
dao động. Tuy nhiên, vào
những năm 1960, Stephen
Hawking và những người khác
chứng minh rằng vũ trụ như
thế không thể tồn tại và
điểm kỳ dị là một đặc điểm
quan trọng nhất của vật lý
được mô tả bằng lý thuyết
hấp dẫn của Einstein. Điều
này thuyết phục phần lớn các
nhà vũ trụ học chấp nhận vũ
trụ được mô tả bằng lý
thuyết tương đối rộng được
sinh ra tại một thời điểm
hữu hạn trong quá khứ. Tuy
nhiên, vì lý thuyết hấp dẫn
lượng tử chưa hoàn thiện nên
không có cách nào kiểm chứng
điểm kỳ dị tại Vụ nổ lớn là
một điểm khởi đầu cho vũ trụ
và cũng không thể nào nói
rằng vũ trụ có tuổi vô hạn.
Ngày nay, tất cả các công
trình lý thuyết về vũ trụ
học đều là phần mở rộng hoặc
hiệu chỉnh lại lý thuyết Vụ
nổ lớn ban đầu. Rất nhiều
các công trình hiện nay về
vũ trụ học bao gồm việc
nghiên cứu sự hình thành của
các thiên hà trong bối cảnh
sau Vụ nổ lớn, tìm hiểu cái
gì đã xảy ra tại Vụ nổ lớn
và so sánh các kết quả thực
nghiệm với lý thuyết.
Việc nghiên cứu về Vụ nổ lớn
có những bước tiến bộ vượt
bậc vào những năm 1990 và
những đầu năm của thế kỷ 21
nhờ vào sự phát triển của kỹ
thuật kính thiên văn kết hợp
với một lượng lớn các dự
liệu vệ tinh như Máy thăm dò
phông vũ trụ (COBE), kính
thiên văn không gian Hubble
và Máy dò dị hướng vi sóng
Wilkinson (WMAP). Các dữ
liệu này cho phép các nhà vũ
trụ học tính toán rất nhiều
thông số về Vụ nổ lớn với độ
chính xác cao và cho ra khám
phá bất ngờ là sự giãn nở
của vũ trụ không phải là đều
mà đang được gia tốc. (Xem
năng lượng tối).
Mô tả lý thuyết
Dựa trên các phép đo về sự
giãn nở của vũ trụ bằng sao
siêu mới loại I, các phép đo
về sự trồi sụt của bức xạ
phông vi sóng vũ trụ và các
phép đo về hàm liên kết của
các thiên hà, người ta xác
định được tuổi của vũ trụ là
13.7 ± 0.2 tỷ năm. Kết quả
giống nhau của ba phép đo
độc lập này được coi là bằng
chứng thuyết phục cho một mô
hình gọi là mô hình
Lambda-CDM mô tả chi tiết
tính chất của vũ trụ.
Vũ trụ vào giai đoạn sớm là
một vũ trụ đồng nhất và đẳng
hướng với mật độ năng lượng,
nhiệt độ và áp suất cực cao.
Sau đó đó vũ trụ nở ra, lạnh
đi và trải qua một quá trình
chuyển pha giống như sự
ngưng tụ của hơi nước hoặc
sự đóng băng của nước khi
nhiệt độ giảm xuống, tất
nhiên là không phải sự
chuyển pha của phân tử nước
mà là của các hạt cơ bản.
Khoảng 10-35 giây sau kỷ
nguyên Planck, một loại
chuyển pha làm cho vũ trụ
trải qua giai đoạn phát
triển theo hàm mũ được gọi
là giai đoạn lạm phát vũ
trụ. Sau khi quá trình lạm
phát kết thúc, thành phần
của vũ trụ gồm các plasma
quark-gluon (gồm tất cả các
hạt khác, một số thực nghiệm
gần đây gợi ý có thể vũ trụ
lúc đó là một loại chất lỏng
quark-gluon)[1]
(
http://www.aip.org/pnu/2005/split/728-1.html
).
Các hạt này đều chuyển động
tương đối. Khi vũ trụ tiếp
tục gia tăng kích thước thì
nhiệt độ tiếp tục giảm. Tại
một nhiệt độ nhất định, một
giai đoạn mà hiện nay người
ta vẫn chưa biết hết về nó
gọi là quá trình sinh hạt
baryon, tại đó, các quark và
gluon kết hợp với nhau để
tạo nên các hạt baryon, như
là proton và neutron, và
bằng cách nào đó mà thể hiện
tính phi đối xứng giữa vật
chất và phản vật chất. Nếu
tiếp tục hạ nhiệt độ thì sẽ
dẫn đến nhiều quá trình
chuyển pha có tính đối xứng
bị phá vỡ hơn và làm cho các
lực vật lý và các hạt cơ bản
tồn tại ở trạng thái như
chúng ta thấy ngày nay. Sau
đó, một số proton và neutron
kết hợp với nhau để hình
thành các hạt nhân nguyên tử
deuterium và hêli, quá trình
này gọi là sự tổng hợp hạt
nhân vụ nổ lớn. Khi vũ trụ
tiếp tục bị nguội đi, vật
chất không còn chuyển động
với vận tốc tương đối nữa và
mật độ năng lượng do khối
lượng nghỉ thể hiện dưới
dạng hấp dẫn sẽ thống trị
mật độ năng lượng thể hiện
dưới dạng bức xạ. Khoảng
300.000 năm sau vụ nổ lớn,
các điện tử và các hạt nhân
kết hợp với nhau tạo nên các
nguyên tử (phần lớn là
hydrogen); do đó, bức xạ được
tách khỏi vật chất và tiếp
tục truyền trong không gian
mà hầu như không bị cản trở.
Dấu vết của bức xạ này tồn
tại đến ngày nay chính là
bức xạ phông vi sóng.
Theo thời gian, một số vùng
có mật độ vật chất cao hơn
sẽ hút nhau do lực hấp dẫn
và càng làm cho các vùng đó
đặc hơn nữa để hình thành
nên các đám mây vật chất,
các ngôi sao, các thiên hà
và các cấu trúc vũ trụ mà
chúng ta quan sát được ngày
nay. Chi tiết của quá trình
này phụ thuộc vào lượng và
loại vật chất trong vũ trụ.
Có ba loại vật chất được
biết là vật chất tối lạnh,
vật chất tối nóng và vật
chất thường. Các phép đo
thực nghiệm cho thấy rằng
dạng vật chất tối lạnh thống
trị vũ trụ, nó chiếm đến hơn
80% khối lượng, trong khi
hai loại vật chất kia chỉ
chiếm chưa đến 20% khối
lượng.
Về mặt năng lượng thì vũ trụ
hiện nay có vẻ như bị thống
trị bởi một dạng năng lượng
bí ẩn được gọi là năng lượng
tối. Khoảng 70% mật độ năng
lượng toàn phần của vũ trụ
tồn tại ở dạng này. Sự có
mặt của dạng năng lượng này
được suy ra từ sự sai khác
giữa sự giãn nở của vũ trụ
và công thức liên hệ giữa
tốc độ - khoảng cách làm cho
không thời gian giãn nở
nhanh hơn trông đợi tại các
khoảng cách lớn. Năng lượng
tối xuất hiện như là một
hằng số vũ trụ trong các
phương trình Einstein của lý
thuyết tương đối rộng. Nhưng
bản chất, các chi tiết về
phương trình trạng thái, và
mối liên hệ với mô hình
chuẩn của vật lý hạt vẫn còn
chưa sáng tỏ và cần được
nghiên cứu cả về lý thuyết
lẫn thực nghiệm.
Tất cả các quan sát đều được
giải thích bằng mô hình
Lambda-CDM, trong đó, mô
hình toán học về vụ nổ lớn
có sáu thông số tự do. Bí ẩn
xuất hiện khi người ta quan
sát gần điểm khởi đầu, khi
mà năng lượng của các hạt
lớn hơn năng lượng mà các
thực nghiệm chưa đạt được.
Hiện không có mô hình vật lý
nào mô tả vũ trụ ở thời điểm
trước 10-33 giây,
trước thời điểm chuyển pha
được gọi là lý thuyết thống
nhất lớn. Tại thời khắc ngắn
ngủi đầu tiên này, lý thuyết
Einstein về hấp dẫn tiên
đoán một điểm kỳ dị hấp dẫn,
tại đó mật độ vật chất trở
nên vô hạn. Để giải quyết
nghịch lý vật lý này, người
ta cần đến lý thuyết lượng
tử hấp dẫn. Đó là một trong
những vấn đề chưa giải quyết
được trong vật lý.
Cơ sở lý thuyết
Lý thuyết Vụ Nổ Lớn ngày nay
dựa trên ba giả thuyết sau:
1. Tính phổ quát của các
định luật vật lý
2. Nguyên lý vũ trụ học
3. Nguyên lý Copernic
Ban đầu, các giải thuyết
trên chỉ được thừa nhận
nhưng ngày nay có rất nhiều
thực nghiệm kiểm tra tính
đúng đắn của chúng. Tính phổ
quát của các định luật vật
lý được chứng minh là đúng
đắn vì các sai số lớn nhất
về hằng số cấu trúc tinh tế
trong một khoảng thời gian
bằng tuổi của vũ trụ chỉ cỡ
khoảng 10-5. Tính dị hướng
của vũ trụ xác định nguyên
lý vũ trụ và được kiểm
nghiệm với độ chính xác 10-5
và vũ trụ được xác định là
đồng nhất trên quy mô lớn
với độ sai số khoảng 10%.
Hiện nay người ta vẫn đang
trong quá trình kiểm tra
nguyên lý Copernic bằng cách
nghiên cứu tương tác giữa
các đám thiên hà bằng CMB
thông qua hiệu ứng
Sunyaev-Zeldovich với độ
chính xác 1%.
Lý thuyết Vụ Nổ Lớn sử dụng
giả thuyết Weyl để đo thời
gian tại bất kỳ thời điểm
nào sau kỷ nguyên Planck.
Các phép đo này dựa trên các
tọa độ quy chiếu trong đó
khoảng cách quy chiếu và
thời gian quy chiếu đã loại
bỏ sự giãn nở của vũ trụ
trên quan điểm của các phép
đo không-thời gian. Khoảng
cách quy chiếu và thời gian
quy chiếu được định nghĩa
sao cho các vật thể chuyển
động trong các vũ trụ giãn
nở khác nhau có cùng một
khoảng cách và các chân trời
hạt hay các giới hạn quan
sát (của một vũ trụ nào đó)
được xác định bởi thời gian
quy chiếu.
Vì vũ trụ có thể được mô tả
bởi các tọa độ như vậy, vụ
nổ lớn không phải là một vụ
nổ trong đó vật chất được
phóng ra và lấp đầy một vũ
trụ trống rỗng; cái đang
giãn nở chính là không-thời
gian. Đó chính là sự giãn nở
làm cho khoảng cách vật lý
giữa hai điểm cố định trong
vũ trụ của chúng ta tăng
lên. Các vật thể liên kết
với nhau (ví dụ bị liên kết
bởi lực hấp dẫn) thì không
giãn nở cùng không-thời gian
vì các định luật vật lý điều
khiển chúng được giả thiết
là đồng nhất và độc lập với
các giãn nở metric. Hơn nữa,
sự giãn nở của vũ trụ tại
nấc thang cục bộ ngày nay
quá nhỏ nên nếu có sự phụ
thuộc nào của các định luật
vật lý vào sự giãn nở thì sự
phụ thuộc đó cũng rất nhỏ
làm cho các máy đo không thể
xác định được.
Bằng chứng thực nghiệm
Nói chung, có ba bằng chứng
chủ yếu ủng hộ lý thuyết vụ
nổ lớn về nguồn gốc vũ trụ.
Đó là định luật Hubble cho
thấy sự giãn nở của vũ trụ
dựa trên sự dịch chuyển đỏ
của các thiên hà; việc tìm
ra bức xạ phông vi sóng vũ
trụ; và sự thống trị của các
nguyên tố nhẹ. (Xem thêm
tổng hợp hạt nhân Vụ Nổ
Lớn). Hơn nữa, các hàm liên
kết của các cấu trúc tại các
nấc thang vĩ mô của vũ trụ
hoàn toàn trùng khớp với lý
thuyết Vụ Nổ Lớn.
Định luật Hubble về sự
giãn nở của vũ trụ
Các quan sát về các thiên hà
và các quasar xa xôi cho
thấy rằng ánh sáng từ chúng
phát ra bị dịch chuyển về
phía các ánh sáng có bước
sóng dài hơn (dịch chuyển
đỏ) và sự dịch chuyển đó tỷ
lệ với khoảng cách giữa
chúng. Sự dịch chuyển ánh
sáng được rút ra từ phổ tần
số của vật thể khi so sánh
với các vạch phổ phát xạ
hoặc hấp thụ của nguyên tử
của các nguyên tố tương tác
với bức xạ. Sự dịch chuyển
đỏ này được giải thích bằng
hiệu ứng Doppler đối với ánh
sáng khi nguồn phát chuyển
động ra xa nguồn thu. Sự
dịch chuyển về phía bước
sóng dài tỷ lệ với khoảng
cách và hiện tượng này được
biểu diễn bằng định luật
Hubble như sau:
v = H0 D
trong đó v vận tốc rời xa, D
khoảng cách và H0 hằng số
Hubble có giá trị bằng 71 ±
4 km/giây/Mpc.
Bức xạ phông vũ trụ
Lý thuyết vụ nổ lớn tiên
đoán về sự tồn tại của bức
xạ phông vi sóng vũ trụ được
tạo thành từ các quang tử
phát ra từ giai đoạn sinh
hạt baryon. Vì vũ trụ thời
kỳ sơ khai ở trạng thái cân
bằng nhiệt động nên nhiệt độ
của bức xạ và plasma bằng
nhau cho đến khi plasma tái
hợp. Trước khi nguyên tử
được hình thành thì bức xạ
bị hấp tụ và tái phát xạ đều
trong một quá trình gọi là
tán xạ Compton: vũ trụ vào
giai đoạn sơ khai không
trong suốt với ánh sáng. Tuy
nhiên, quá trình nhiệt độ
của vũ trụ bị giảm đi khi
giãn nở làm cho nhiệt độ
xuống thấp hơn 3000 K, tại
nhiệt độ này thì điện tử và
hạt nhân kếp hợp với nhau để
tạo ra nguyên tử và các
plasma nguyên thủy bị biến
thành khí trung hòa. Quá
trình này được gọi là quá
trình giải phóng quang tử.
Một vũ trụ chỉ gồm các
nguyên tử trung hòa cho phép
bức xạ truyền qua mà không
bị cản trở nhiều.
Vì tại các giai đoạn sớm, vũ
trụ ở trong trạng thái cân
bằng nhiệt động nên bức xạ
từ thời điểm này có phổ phân
bố giống như phổ phát xạ của
một vật đen được truyền một
cách tự do cho đến ngày nay
sẽ bị dịch chuyển đỏ theo
định luật Hubble. Bức xạ đó
phải được giống nhau theo
mọi hướng trong không gian.
 |
Kính thiên văn vô tuyến
hình kèn mà hai nhà thiên văn Penzias
và Wilson dùng và phát hiện bất ngờ
bức xạ phông vũ trụ, tàn dư của Big
Bang. |
Năm 1964, Arno Penzias và
Robert Wilson đã phát hiện
ra bức xạ phông vũ trụ khi
họ tiến hành nghiên cứu một
máy thu tín hiệu vi sóng ở
phòng thí nghiệm Bell. Khám
phá của họ đã khẳng định
tiên đoán về bức xạ phông vũ
trụ, một bức xạ đẳng hướng
và đồng nhất phân bố giống
như phổ phát xạ của vật đen
có nhiệt độ khoảng 3 K.
Penzias và Wilson được trao
giải Nobel về vật lý nhờ
khám phá này.
Năm 1989, cơ quan hàng không
vũ trụ Hoa Kỳ NASA đã phóng
vệ tinh thăm dò phông vũ trụ
(COBE), các kết quả ban đầu
quan sát được rất phù hợp
với các tiên đoán của lý
thuyết vụ nổ lớn liên quan
đến bức xạ phông vũ trụ.
COBE đã tìm thấy nhiệt độ dư
là 2,726 K và xác định được
rằng bức xạ đó là đẳng hướng
với độ chính xác 10-5. Vào
những năm 1990, tính dị
hướng của bức xạ phông vũ
trụ được nghiên cứu rất chi
tiết bằng rất nhiều các thí
nghiệm và kết quả là về mặt
hình học, vũ trụ là phẳng
(xem hình dáng của vũ trụ).
Vào đầu năm 2003 các kết quả
từ vệ tinh dị hướng vi sóng
Wilkinson (WMAP) được phóng
và đã thu được các giá trị
chính xác nhất về các thông
số vũ trụ. Vệ tinh này cũng
loại bỏ một số mô hình lạm
phát vũ trụ đặc biệt nhưng
nhìn chung thì các kết quả
phù hợp với lý thuyết lạm
phát.
Sự hình thành các nguyên
tố cơ bản
Sử dụng mô hình vụ nổ lớn,
người ta có thể tính được
mật độ helium-4, helium-3,
deuterium và lithium-7 trong
vũ trụ so với mật độ của
hydrogen dựa trên tỷ lệ
quang tử/baryon. Tỷ lệ tính
toán là khoảng 0,25 đối với
4He/H, khoảng 10-3 đối với
2H/H, khoảng 10-4 đối với
3He/H và khoảng 10-9 đối với
7Li/H.
Tất cả cá giá trị đều rất
phù hợp với tính toán từ tỷ
lệ baryon/quang tử. Đây cũng
được coi là một trong những
bằng chứng rõ ràng nhất về
vụ nổ lớn, đây là lý thuyết
duy nhất có thể giải thích
được sự thống trị của các
nguyên tố nhẹ trong vũ trụ.
Trên thực tế, không có kết
quả thực nghiệm nào nằm
ngoài khuôn khổ lý thuyết vụ
nổ lớn, ví dụ, vũ trụ có
nhiều helium hơn deuterium
hoặc có nhiều deuterium hơn
3He.
Sự phân bố và tiến hóa
của các thiên hà
Các nghiên cứu thực nghiệm
về hình dáng và phân bố của
các thiên hà và các quasar
đã cho những bằng chứng rất
thuyết phục về vụ nổ lớn.
Kết hợp các quan sát và tính
toán lý thuyết gợi ý rằng
các quasar và các thiên hà
được hình thành khoảng một
tỷ năm sau vụ nổ lớn, và từ
đó các cấu trúc lớn hơn được
hình thành như các nhóm
thiên hà, đám thiên hà và
siêu đám thiên hà. Các ngôi
sao cũng già đi và tiến hóa,
do đó, các thiên hà xa xôi
(chúng ta thấy ở chúng ở
giai đoạn sớm của vũ trụ) sẽ
rất khác các thiên hà gần
hơn (chúng ta sẽ thấy chúng
ở giai đoạn muộn hơn). Hơn
nữa, các thiên hà hình thành
gần đây sẽ rất khác với các
thiên hà cũng ở gần như thế
nhưng hình thành tại các
giai đoạn rất sớm sau vụ nổ
lớn. Các quan sát này là các
chứng cớ phủ nhận mô hình
trạng thái dừng. Các quan
sát về sự hình thành các
ngôi sao, sự phân bố của các
thiên hà và quasar, và các
cấu trúc lớn hơn phù hợp rất
tốt với mô hình lý thuyết về
cấu trúc của vũ trụ và cho
phép hoàn thiện các tính
toán chi tiết.
Các đặc điểm và các bài
toán
Về mặt lịch sử, có rất nhiều
các bài toán xuất hiện trong
lý thuyết Vụ Nổ Lớn. Một số
bài toán chủ yếu có tính
lịch sử và được khắc phục
bằng cách thay đổi lý thuyết
hoặc thông qua các kết quả
thực nghiệm chính xác hơn.
Một số vấn đề khác như là
bài toán phân bố và bài toán
thiên hà lùn về vật chất tối
lạnh không được coi là quan
trọng vì chúng chỉ liên quan
đến các hiệu chỉnh của lý
thuyết.
Có một số lý thuyết không
tin vào sự tồn tại của Vụ Nổ
Lớn, cho rằng nghiệm của các
bài toán chuẩn là do các sửa
đổi và bổ sung tùy ý vào lý
thuyết. Phần lớn các lý
thuyết đó tấn công vào các
hiện tượng như vật chất tối,
năng lượng tối và thăng
giáng vũ trụ. Các vấn đề này
là các bài toán chưa có lời
giải trong vật lý, chúng tuy
chưa có lời giải nhưng có
nhiều quan sát ủng hộ chúng,
đó là bức xạ phông vi sóng,
cấu trúc vũ trụ tại các nấc
thang vĩ mô và các sao siêu
mới loại IA. Hiệu ứng hấp
dẫn của các thực thể này đã
được hiểu về mặt thực nghiệm
và lý thuyết thậm chí các mô
hình để giải thích cho chúng
chưa hoàn toàn phù hợp với
mô hình chuẩn của vật lý
hạt. Tuy vậy, phần lớn các
nhà thiên văn học và các nhà
vật lý đều đồng ý rằng sự
phù hợp giữa giải thuyết về
vụ nổ lớn và các quan sát đã
thiết lập các nền tảng cho
lý thuyết này.
Sau đây liệt kê tóm tắt các
bài toán của lý thuyết Vụ Nổ
Lớn.
Bài toán về chân trời
Bài toán về chân trời phát
sinh từ việc thông tin không
thể truyền nhanh hơn vận tốc
ánh sáng, do đó sẽ có hai
vùng không gian cách nhau
một khoảng cách lớn hơn
quãng đường mà ánh sáng đi
được trong một thời gian
bằng tuổi của vũ trụ. Như
vậy, nếu hai vật thể ở đầu
hai khoảng cách xa đến thế,
sẽ không thể biết được thông
tin về nhau, điều này tương
tự như tồn tại một chân
trời, mà đằng sau nó, chúng
không có mối quan hệ nhân
quả với chúng ta. Như thế
thì tính đẳng hướng của bức
xạ phông vũ trụ sẽ không
chắc chắn bởi vì kích thước
của chân trời hạt tại thời
điểm này chỉ tương ứng với
kích thước của hai độ khối
trên bầu trời. Nếu vũ trụ có
lịch sử giãn nở giống nhau
từ kỷ nguyên Planck thì sẽ
không có lý do nào làm cho
các vùng đó có cùng nhiệt
độ.
Sự bất hợp lý này được giải
quyết bằng lý thuyết lạm
phát, lý thuyết này cho rằng
trường năng lượng vô hướng
đồng nhất và đẳng hướng
thống trị vũ trụ tại thời
điểm 10-35 giây sau kỷ
nguyên Planck. Trong quá
trình lạm phát, vũ trụ trải
qua giai đoạn giãn nở theo
hàm mũ và những vùng nằm
trong mối liên hệ nhân quả
sẽ giãn nở sao cho chúng nằm
ngoài mối quan hệ nhân quả
với chân trời của vùng khác.
Nguyên lý bất định tiên đoán
rằng, trong thời kỳ lạm phát
có các thăng giáng nhiệt
lượng tử được khuyếch đại
lên đến quy mô vũ trụ. Các
thăng giáng này, có vai trò
như là các hạt nhân của các
cấu trúc vũ trụ hiện thấy
ngày nay. Sau thời kỳ lạm
phát, vũ trụ giãn nở theo
định luật Hubble và các vùng
nằm bên ngoài mối quan hệ
nhân quả sẽ trở lại chân
trời. Điều này giải thích
tính đẳng hường của bức xạ
phông vũ trụ. Thuyết lạm
phát còn tiên đoán thăng
giáng nguyên thủy hầu như
không đổi được coi là bất
biến khoảng cách và tuân
theo phân bố Gauss được
khẳng định bằng các quan sát
về bức xạ phông vũ trụ.
Bài toán về độ phẳng
Bài toán về độ phẳng là một
bài toán thực nghiệm phát
sinh từ việc nghiên cứu hình
dáng vũ trụ liên quan đến
nghiệm
Friedmann-Lemaître-Robertson-Walker.
Nói chung, vũ trụ có thể có
ba loại hình dáng: hình
hyperbol, hình Euclide và
hình ellip. Hình dáng của vũ
trụ phụ thuộc vào mật độ
năng lượng toàn phần của vũ
trụ (được đo bằng ten sơ ứng
suất-năng lượng): nếu mật độ
nhỏ hơn mật độ tới hạn thì
vũ trụ sẽ có dạng hình
hyperbol, nếu lớn hơn thì có
dạng ellip, còn nếu đúng
bằng giá trị đó thì sẽ có
dạng Euclide. Giá trị mật độ
năng lượng hiện nay của vũ
trụ đo được chỉ khác độ một
phần 1015 giá trị mật độ tới
hạn trong trạng thái ban đầu
của nó. Các thay đổi khác
(với giá trị một phần 1015)
sẽ dẫn đến hoặc Cái Chết
Nhiệt hoặc Vụ Co Lớn và vũ
trụ sẽ không tồn tại như
hiện nay.
Lời giải cho bài toán này
lại một lần nữa là lý thuyết
lạm phát. Trong thời kỳ lạm
phát, không-thời gian giãn
nở nhanh đến mức các độ cong
có liên quan đều bị là phẳng
đi và do đó vũ trụ có dạng
phẳng.
Các đơn cực từ
Đơn cực từ là một trong
những phản đề xuất hiện vào
cuối những năm 1970. Lý
thuyết thống nhất lớn tiên
đoán các sai hỏng điểm trong
không gian có vai trò như
các đơn cực từ có mật độ cao
hơn mật độ mà các quan sát
thu được, và cho đến nay,
chưa tìm thấy một đơn cực từ
nào. Bài toán này cũng được
giải bằng lý thuyết lạm
phát, loại bỏ tất cả các sai
hỏng điểm tương tự như giải
quyết bài toán về độ phẳng
của vũ trụ ở phần trước.
Bất đối xứng baryon
Người ta vẫn không hiểu tại
áo có nhiều vật chất hơn
phản vật chất. Giả thiết đưa
ra là, khi vũ trụ còn trẻ và
nóng, vũ trụ ở trong một
trạng thái cân bằng thống kê
và có số baryon bằng số phản
baryon. Tuy nhiên, các quan
sát cho thấy rằng tất cả vũ
trụ đều được tạo thành từ
vật chất, ngay cả tại những
khoảng cách xa. Một quá
trình chưa được biết đến
được gọi là quá trình sinh
hạt baryon tạo ra sự bất đối
xứng này. Để quá trình sinh
hạt baryon xuất hiện, các
điều kiện Sakharov, do
Andrei Sakharov đưa ra, cần
phải được thỏa mãn. Các điều
kiện đó yêu cầu số các
baryon không được bảo toàn,
tức là đối xứng-C và đối
xứng-CP bị vi phạm, và vũ
trụ xuất phát từ trạng thái
cân bằng nhiệt động. Tất cả
các điều kiện này xuất hiện
trong Vụ Nổ Lớn, nhưng hiệu
ứng của nó không đủ mạnh để
giải thích sự tồn tại của
bất đối xứng baryon. Các
nghiên cứu mới về vật lý hạt
năng lượng cao cần được tiến
hành để giải thích vấn đề
trên.
Các đám cầu
Vào giữa những năm 1990, các
quan sát thực nghiệm về các
đám cầu mâu thuẫn với lý
thuyết Vụ Nổ Lớn. Các mô
phỏng máy tính để làm khớp
các quan sát thực nghiệm về
số các thiên thể của các đám
cầu cho thấy rằng chúng có
tuổi khoảng 15 tỷ năm, mâu
thuẫn với con số 13,7 tỷ
tiên đoán từ lý thuyết Vụ Nổ
Lớn. Bài toán này được giải
quyết vào cuối những năm
1990, khi các mô phỏng máy
tính tính đến sự mất mát
khối lượng do gió thiên thể
đã chỉ ra tuổi của các đám
cầu trẻ hơn nhiều so với mô
phỏng trước đây. Việc làm
thế nào để đo chính xác tuổi
của các đám cầu vẫn là vấn
đề cần giải quyết, nhưng rõ
ràng là các vật thể này là
các vật thể già nhất trong
vũ trụ.
Vật chất tối
Trong những năm 1970 và 1980
các quan sát thực nghiệm cho
thấy rằng không có đủ vật
chất khả kiến để làm cho vật
chất trong các thiên hà và
giữa các thiên hà để giữ
chúng quay bằng lực hấp dẫn.
Điều này dẫn đến ý tưởng cho
rằng 90% vật chất trong vũ
trụ là vật chất không bình
thường, không được tạo thành
từ các hạt baryon và được
gọi là vật chất tối. Nếu
không có giả thuyết về vật
chất tối thì không giải
thích được tại sao vũ trụ
lại quá phẳng và có quá ít
deuterium đến thế. Lúc đầu,
vật chất tối còn gây tranh
cãi nhưng bây giờ nó được
chấp nhận rộng rãi và được
coi như một phần của vũ trụ
chuẩn nhờ vào các quan sát
về dị hướng của bức xạ phông
vũ trụ, phân bố vận tốc của
các đám thiên hà, phân bố
cấu trúc tại các nấc thang
lớn của vũ trụ, nghiên cứu
về thấu kính hấp dẫn, các
phép đo tia X về đám thiên
hà. Vật chất tối chỉ được
quan sát thông qua ảnh hưởng
hấp dẫn của nó ngoài ra hiện
chưa có bằng chứng gì khác.
Tuy nhiên, có rất nhiều các
ứng cử viên vật lý hạt cho
vật chất tối, một vài dự án
đang được tiến hành.
Năng lượng tối
Vào những năm 1990, các phép
đo chi tiết về mật độ vật
chất của vũ trụ cho thấy
rằng giá trị đo được chỉ
bằng 30% giá trị tới hạn. Từ
quan sát bức xạ phông vũ trụ
người ta thấy vũ trụ là
phẳng và 70% mật độ năng
lượng của vũ trụ chưa được
tính đến. Điều này liên quan
đến một hiệu ứng khác, đó là
vũ trụ giãn nở với một gia
tốc chứ không phải tuân theo
chính xác định luật Hubble.
Để giải thích tính gia tốc
của quá trình giãn nở, lý
thuyết tương đối rộng yêu
cầu phần lớn vũ trụ tạo
thành từ một dạng năng lượng
có áp suất âm gọi là năng
lượng tối. Năng lượng tối
này được cho rằng chính là
phần 70% thiếu hụt từ quan
sát bức xạ phông vũ trụ. Bản
chất của năng lượng tối vẫn
là một trong những bí mật vĩ
đại nhất về Vụ nổ lớn. Các
lời giải khả dĩ là sự tồn
tại của một hằng số vũ trụ.
Tương lai của lý thuyết
Vụ Nổ Lớn
Trước khi có những bằng
chứng về năng lượng tối, các
nhà vũ trụ học đưa ra hai
kịch bản về tương lai của vũ
trụ. Nếu mật độ khối lượng
của vũ trụ cao hơn mật độ
tới hạn thì vũ trụ sẽ giãn
nở đến một kích thước cực
đại rồi bắt đầu co lại. Sau
đó, vũ trụ sẽ trở lên đặc
hơn và kết thúc ở một trạng
thái tương tự như trạng thái
mà nó sinh ra - một Vụ co
lớn. Nhưng nếu mật độ vũ trụ
bằng hoặc thấp hơn mật độ
tới hạn thì sự giãn nở sẽ
chậm đi nhưng không bao giờ
dừng lại. Sự hình thành các
vì sao sẽ không còn nữa và
vũ trụ trở lên loãng và lạnh
hơn. Nhiệt độ của vũ trụ sẽ
tiệm cận đến nhiệt độ không
tuyệt đối. Các hố đen sẽ bay
hơi hết. Entropy của vũ trụ
sẽ tăng đến một điểm mà ở đó
không còn một dạng năng
lượng nào có thể được phát
ra từ đó, kịch bản này gọi
là cái chết nhiệt. Hơn nữa,
nếu quá trình phân rã proton
mà có thực thì hydrogen, nguyên
tố phổ biến nhất của vật
chất baryon sẽ biến mất chỉ
để lại sau nó là các bức xạ.
Các quan sát hiện đại về quá
trình giãn nở gia tốc gợi ý
rằng ngày càng có nhiều vật
chất khả kiến hiện nay sẽ đi
ra khỏi chân trời sự kiện và
thoát khỏi tầm tương tác với
chúng ta. Kết quả cuối cùng
thế nào chúng ta vẫn chưa
biết. Mô hình Lambda-CDM về
vũ trụ có chứa năng lượng
tối ở dạng một hằng số vũ
trụ. Lý thuyết này gợi ý
rằng chỉ có các hệ liên kết
với nhau bằng lực hấp dẫn
như là các thiên hà là có
thể liên kết với nhau và
chúng có thể chịu cái chết
nhiệt khi vũ trụ giãn nở và
lạnh đi. Một số giải thuyết
cho rằng năng lượng tối là
năng lượng ma và gợi ý rằng
các đám thiên hà và ngay cả
các thiên hà sẽ bị kéo ra xa
khỏi nhau và sự giãn nở sẽ
tăng lên mãi mãi trong một
quá trình gọi là Sự xé lớn.
Các vấn đề vật lý thú vị
Trong vũ trụ học, lý thuyết
Vụ nổ lớn đang được hoàn
thiện và được tinh chỉnh
trong tương lai. Nhưng người
ta vẫn chưa biết nhiều về
giai đoạn sớm nhất của vũ
trụ, khi quá trình lạm phát
xảy ra. Về nguyên tắc, chúng
ta có thể quan sát được một
phần vũ trụ ở thời đó. Nếu
là trường hợp lạm phát thì
điều này đòi hỏi: sự giãn nở
theo hàm mũ sẽ đẩy nhiều
vùng không gian ra khỏi chân
trời quan sát của chúng ta.
Có thể là vùng không gian đó
sẽ giảm đi khi chúng ta hiểu
rõ hơn vật lý năng lượng
cao. Người ta trông đợi
nhiều vào lý thuyết lượng tử
hấp dẫn.
Một số giả thuyết đưa ra là:
* Lạm phát vũ trụ
* Mô hình Vũ trụ màng:
coi
Vụ nổ lớn là sự va chạm giữa
các màng [2]
(
http://vietsciences.free.fr/timhieu/khoahoc/astronomie/ch7.pdf
)
* Vũ trụ dao động: vũ trụ ở
trạng thái ban đầu rất nóng,
đặc là kết quả của Vụ co
lớn. Vũ trụ có thể đã trải
qua vô số những vụ nổ, co
như vậy.
* Mô hình có điều kiện biên
Hartle-Hawking: toàn bộ
không thời gian là hữu hạn.
Một số kịch bản là tương
đương với nhau, tất cả các
kịch bản đều có chứa các yếu
tố chưa được kiểm chứng.
Ý nghĩa triết học và tôn
giáo
Có rất nhiều các giải thích
ý nghĩa của Vụ nổ lớn nằm
ngoài phạm vi khoa học. Một
số giả thuyết cho rằng Vụ nổ
lớn là tự thân (nguyên nhân
đầu tiên) nhưng bị các nhà
triết học theo phái tự nhiên
chủ nghĩa phê phán là coi lý
thuyết Vụ nổ lớn là thần
thoại về sự sáng thế. Một số
người cho rằng Vụ nổ lớn ủng
hộ quan điểm Sáng thế trong
Kinh thánh, trong khi một số
người khác thì cho rằng nó
hoàn toàn không phù hợp với
các tín điều trong Kinh
thánh. Lý thuyết Vụ nổ lớn
là một lý thuyết khoa học,
nó không liên quan đến bất
kỳ một tôn giáo nào.
Sau đây là một số cách giải
thích về Vụ nổ lớn của một
số tôn giáo:
* Rất nhiều người biện giải
cho Cơ đốc giáo, đặc biệt là
Giáo hội Công giáo La Mã đã
chấp nhận Vụ nổ lớn là bằng
chứng về nguồn gốc của vũ
trụ, coi đó là nguyên nhân
đầu tiên. Giáo hoàng Pius
XII ủng hộ lý thuyết này từ
khi nó chưa được chấp nhận
rộng rãi.
* Ngoài ra còn một số người
theo đạo Do thái và những
người tin theo thuyết phi
hình người chấp nhận Vụ nổ
lớn, điển hình là học giả
người Do thái Moses
Maimonides.
* Tín đồ Hồi giáo cũng tin
rằng vụ nổ lớn chính là sự
sang thế trong Kinh Qur`an.
* Một số người theo thuyết
hữu thần trong Ấn độ giáo
cũng tin như vậy.
* Phật giáo thừa nhận một vũ
trụ vĩnh hằng, không có quá
trình sáng thế. Tuy nhiên,
Vụ nổ lớn không được coi là
mâu thuẫn với Phật giáo vì
có nhiều cách để có được một
vũ trụ vĩnh cửu. Nhiều nhà
Thiền học nghiêng về vũ trụ
dao động.
Trích từ trang
http://datrach.blogspot.com
Bài liên quan:
-
Màng vũ
trụ mới
-
Big Bang
-
Vũ trụ theo quan niệm
phương Đông
-
Lịch sử
Thiên văn phương Đông
-
Lịch sử Thiên văn phương
Tây
|