
Tên
tháng |
Do
thái |
Ngày |
Nissan |
ניסן |
30 |
Iyar |
איר |
29 |
Sivan |
סיון |
30 |
Tamouz |
תמוז |
29 |
Av |
אב |
30 |
Eloul |
אלול |
29 |
Tishri |
תשרי |
30 |
Heshvan |
חשון |
thay
đổi 29/30 |
Kislev |
כסלו |
thay
đổi
29/30 |
Tevet |
טבת |
29 |
Shvat |
שבט |
30 |
Adar (Chỉ
năm nhuần thôi
) |
אדר |
30 |
Adar 2,
hay
vé-adar
(năm
thường thì tháng này
gọi là Adar) |
ואדר |
29 |
-
Nissan (Theo
kinh thánh, Nissan là
tháng đầu tiên của năm)
Theo nguyên tắc của âm dương hiệp lịch.
Lịch Do thái có phép tính ngày lễ Rô'sh Hashshânâh (ngày Tết của
họ) một cách hết sức phức tạp. Hồi giáo cũng dùng âm lịch,
nhưng cộng thêm ngày cho trùng hợp với chu kỳ của mặt trăng mà
không sửa chữa theo sự vận hành của trái đất quanh mặt trời.
Do đó 1410 năm theo âm lịch Hồi giáo chỉ tương ứng với 1368 năm
dương lịch. Ðạo Bahâ'i lại dùng một lịch, dựa trên âm lịch
và ngày đầu năm là ngày xuân phân (vernal equinox). Ðiểm
đặt biệt là lịch này gồm 19 tháng, mỗi tháng 19 ngày (một năm có
361 ngày), và có thêm 4 ngày mỗi năm chen vào giữa các tháng và
sau bốn năm thì thêm một ngày nữa như năm nhuận dương lịch.
Người Việt
nam dùng âm lịch để tính lễ tiết và chọn ngày cho các công việc
quan trọng như cưới hỏi, xây nhà, mở cửa tiệm làm ăn ...
Âm lịch này giống như âm lịch của Trung quốc nghĩa là dựa trên
chu kỳ của mặt trăng và phối hợp với sự chuyển động của trái đất
quanh mặt trời. Mỗi năm có 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày,
tháng thiếu, 29 ngày. Cứ 19 năm thì nhuận 7 lần, mỗi lần
nhuận một tháng. Tháng đầu năm là tháng giêng và tháng
cuối năm là tháng chạp không bao giờ được lấy làm tháng nhuận.
Ngày đầu năm, ngày mùng một Tết, là ngày đầu tuần trăng
thứ nhì sau ngày tiết Ðông chí (Winter solstice, thường xem như
là ngày mà đêm dài nhất trong năm). Tùy theo tuần trăng ở
ngày Ðông chí mà ngày đầu năm sẽ đến trong khoảng 30 đến 59 ngày
sau ngày đó. Do đó ngày mùng
một Tết chỉ có thể nằm trong khoảng 20 tháng 1 đến 21 tháng 2
dương lịch. Tháng âm lịch thường đi sau tháng dương
lịch một hay hai thứ, như tháng ba âm lịch ứng với tháng tư hoặc
tháng năm dương lịch.
Năm âm lịch không tính theo số mà dùng tên ghép gồm hai chữ.
Chữ đầu là một trong 10 thiên can (Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu,
Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quý). Chữ thứ nhì là một trong 12
địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão hay Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân,
Dậu, Tuất và Hợi). Mười hai địa chi là tên 12 con vật.
Âm lịch Việt nam khác âm lịch Trung quốc ở chỗ năm Sửu thì theo
lịch Việt nam là năm con trâu, còn Trung quốc là con bò, còn năm
Mão hay Mẹo ở Việt nam là năm con mèo, thì trong lịch Trung quốc
lại là năm con thỏ. Vì bội số chung của 10 (thiên can) và
12 (địa chi) là 60, nên cứ 60 năm, tên các năm lại được lập đúng
trở lại. Và cũng vì thế mà mỗi can chỉ đi chung với sáu
năm trong 12 địa chi, hay mỗi năm theo địa chi chỉ có thể đi
chung với 5 can mà thôi. Thí dụ như can Giáp chỉ đi chung
với các năm Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân và Tuất, còn can Ất chỉ đi
chung với các năm Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu và Hợi.
Trần Ngọc
Thùy Trang (cựu chủ tịch UVSA)
có nhận xét là các năm bắt đầu bằng can Canh có số đơn vị là 0,
Tân có số đơn vị là 1 ... theo số năm dương lịch,
nhưng không rõ sự tương ứng. Thật ra
đó là sự tương ứng một gióng một (correspondence one to one): vì
hệ thống số đang dùng theo thập phân, từ 0 đến 9, nên số hàng
đơn vị mỗi năm ứng với mười thiên can, không xê dịch, không thay
đổi được. Năm có can Canh luôn luôn ứng với năm
dương lịch có số cuối là 0 (như Canh Thìn là 1940, 2000; Canh
Ngọ là 1990, Canh Thân là 1980 ...), Tân ứng với số cuối là 1
(Tân Tỵ là 1941, 2001; Tân Mùi là 1991, Tân Dậu là 1981 ...),
Nhâm ứng với số cuối là 2 (Nhâm Ngọ là 1942, 2002, Nhâm Thân là
1992, Nhâm Tuất là 1982 ...), Quý, với số cuối là 3 (Quý
Mùi là 1943, 2003; Quý
Hợi là 1983, Quý Dậu là 1993 ...), Giáp
ứng với số cuối là 4 (Giáp Thân là 1944, 2004; Giáp Tuất là
1994, Giáp Dần là 1974 ...) vân vân. Cứ mười
hai năm làm một giáp (great year), 60 năm làm một vận niên
lục giáp (cycle) và 3600 năm làm một kỷ nguyên (epoch)
** |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
0 |
1 |
2 |
3 |
|
Giáp |
Ất |
Bính |
Ðinh |
Mậu |
Kỷ |
Canh |
Tân |
Nhâm |
Quý |
Tý |
1984 |
|
1996 |
|
|
|
|
|
1972 |
|
Sửu |
|
1985 |
|
1997 |
|
|
|
|
|
1973 |
Dần |
1974 |
|
1986 |
|
1998 |
|
|
|
|
|
Mão |
|
1975 |
|
1987 |
|
1999 |
|
|
|
|
Thìn |
1964 |
|
1976 |
|
1988 |
|
2000 |
|
|
|
Tỵ |
|
1965 |
|
1977 |
|
1989 |
|
2001 |
|
|
Ngọ |
1954 |
|
1966 |
|
1978 |
|
1990 |
|
2002 |
|
Mùi |
|
1955 |
|
1967 |
|
1979 |
|
1991 |
|
2003 |
Thân |
2004 |
|
1956 |
|
1968 |
|
1980 |
|
1992 |
|
Dậu |
|
2005 |
|
|
|
1969 |
|
1981 |
|
1993 |
Tuất |
1994 |
|
2006 |
|
1958 |
|
1970 |
|
1982 |
|
Hợi |
|
1995 |
|
2007 |
|
|
|
1971 |
|
1983 |
** Số tương
ứng với 10 thiên can.
Mỗi năm âm lịch lại chia ra
làm 24 tiết.
Tiết
(âm
lịch)
|
Dương lịch
(khoảng) |
Số ngày giữa
hai tiết |
Lập
xuân |
4 tháng 2 |
15 |
Vũ
thủy |
19 tháng 2 |
15 |
Kinh
trập |
6 tháng 3 |
(năm
nhuận, 16 ngày) 15 |
Xuân phân |
21 tháng 3 |
15 |
Thanh minh |
5 tháng 4 |
15 |
Cốc vũ
|
20 tháng 4 |
15 |
Lập hạ
|
6 tháng 5 |
16 |
Tiểu mãn |
21 tháng 5 |
15 |
Mang chủng |
6 tháng 6 |
16 |
Hạ
chí |
21 tháng 6 |
15 |
Tiểu thử |
7 tháng 7 |
16 |
Ðại thử
|
23
tháng 7 |
16 |
Lập thu |
8 tháng 8 |
16 |
Xử thử
|
23 tháng 8 |
15 |
Bạch lộ
|
8 tháng 9 |
16 |
Thu
phân |
23 tháng 9 |
15 |
Hàn
lộ |
8 tháng 10 |
15 |
Sương giáng |
23 tháng 10 |
15 |
Lập
đông |
7 tháng 11 |
15 |
Tiểu tuyết |
22 tháng 11 |
15 |
Ðại
tuyết |
6 tháng 12 |
14 |
Ðông
chí
|
22 tháng 12 |
16 |
Tiểu hàn |
5 tháng1 |
14 |
Ðại
hàn |
20 tháng 1 |
15 |
Tổng cộng
|
|
365 |
* Thanh
minh trong tiết tháng ba trong truyện Kiều là trong tháng ba âm
lịch đến sau tiết xuân phân khoảng hai tuần.
Ngoài Việt nam và Trung quốc còn có Nhật bản cũng dùng âm lịch
như trên.
Người Nhật gọi tiết là ki. Xuân phân theo tiếng Nhật là
Shunbun, Hạ chí là Geshi, Thu phân là Shuubun và Ðông chí là
Touji.
Tên tháng
trong lịch Nhật lúc đầu không theo cách đếm số mà theo mùa màng
hay công việc đồng áng. Tháng giêng là MuTsuki có nghĩa là mùa
xuân thái hòa, tháng ba là Yayohi, có nghĩa là cỏ mọc xanh rì,
tháng sáu là Mina Tzuki, tháng tưới nước (đưa nước vào ruộng),
tháng 8 là Ha Tzuki, tức là tháng của lá cây. Ðặc
biệt là tháng 10 được gọi là tháng của các vị thần, KaNa Tzuki
vì theo truyền thuyết các thần về họp mặt tại đền Izumo trong
phủ Shimane. Vì vậy người ta vẫn coi tháng 10 là tháng
không có thần thánh bảo hộ ở các phủ khác.
Tháng
âm lịch có ba tuần, theo con trăng: thượng tuần, trung tuần và
hạ tuần. Riêng âm lịch Nhật chia tuần lễ theo bảy ngày từ
năm 807. Năm 806 nhà sư Koubou Daishi cho biết là
không thể tính chính xác ngày xấu, ngày tốt trong lịch Nhật vì
không biết được ngày bí mật, tiếng Nhật là Mitsubi. Thật
ra Mitsubi do chữ Mitsu, âm từ tiếng thổ âm Samarkand mee-ruu
là Sunday. Từ đó lịch Nhật bản áp dụng tuần lễ bảy ngày
theo tên Mặt trời và tên sáu hành tinh (planets) trong Thái
dương hệ. Trong hồi ký viết năm 1007, Michinaga
Fujiwara đã ghi lại ngày 23 tháng 9 là ngày thứ ba
(Kayoubi), ngày của Hỏa tinh.
Cho đến nay, người Nhật bản, người Trung quốc, và người Việt nam
đều dựa vào âm lịch để giải quyết các việc quan trọng trong đời
sống, và âm lịch đã thật sự có một ảnh hưởng sâu đậm trong ba
nước này. Xin đọc tiếp:
Lịch sử cuốn lịch - phần 1
Lịch sử cuốn lịch - phần
2
|