Lịch sử cuốn lịch - phần3

Vietsciences-Thuần Ngọc         12/04/2006    

      Lịch sử cuốn lịch - phần 1
    
Lịch sử cuốn lịch - phần 2
    
Lịch sử cuốn lịch - phần 3

================================

Lịch qua các thời đại
Lịch các nước
  A) Lịch La Mã
     I) Lịch thời cổ Roma Numa Pompilius
     II) Lịch Julien
     III) Lịch Gregorien
  B) Lịch Gaulois:
     1) Lịch của xã Coligny
     2) Lịch Cộng hòa Pháp:
  C) Các lịch khác

    1) Lịch đạo Hồi
    2) Lịch Do thái
    3) Lịch Việt Nam và Trung quốc
    4) Lịch Nhật bản
 
================================

C) Các lịch khác:

1) Lịch đạo Hồi

Nhà tiên tri Mahomet theo truyền thống, rời khỏi đền thờ đêm 15 cho tới 16 tháng 7 năm 622 (lịch hiện tại). Niên đại Hồi giáo lấy sự ra đi đó để dùng làm điểm khởi đầu. Lịch Hồi là âm lịch và gồm 12 tháng xen kẽ 30 hay 29 ngày. Chu kỳ 30 năm với 11 năm có 355 ngày và 19 năm với 354 ngày.

Tháng cuối cùng, là tháng của Aïd el Kébir có thêm 1 ngày  cho những năm lạ thường hay những năm phồn thịnh, theo chu kỳ 30 năm cho những  năm 2, 5, 7, 10, 13, 16, 18, 21, 24, 26, 29

Lịch này sai lệch rất nhiều so với dương lịch

Kỷ nguyên đạo Islam gọi là hégire bắt đầu năm 622 của kỷ nguyên đạo thiên chúa (ngày mà Mohamet ra đi)

100 năm hégire tương đương với 97 năm 8 ngày và 4 giờ theo dương lịch

100 năm dương lịch tương đương với 103 năm 24 ngày và 12 giờ theo đạo Hồi

 

2)  Lịch Do thái

Tên tháng Do thái Ngày
Nissan ניסן 30
Iyar איר 29
Sivan סיון 30
Tamouz תמוז 29
Av אב 30
Eloul אלול 29
Tishri תשרי 30
Heshvan חשון thay đổi 29/30
Kislev כסלו thay đổi 29/30
Tevet טבת 29
Shvat שבט 30
Adar (Chỉ năm nhuần thôi ) אדר 30

Adar 2, hay vé-adar
(năm thường thì tháng này gọi là Adar)

ואדר 29

 

  • Nissan (Theo kinh thánh, Nissan là tháng đầu tiên của năm)

Theo nguyên tắc của âm dương hiệp lịch.  Lịch Do thái có phép tính ngày lễ Rô'sh Hashshânâh (ngày Tết của họ) một cách hết sức phức tạp.  Hồi giáo cũng dùng âm lịch, nhưng cộng thêm ngày cho trùng hợp với chu kỳ của mặt trăng mà không sửa chữa theo sự vận hành của trái đất quanh mặt trời.  Do đó 1410 năm theo âm lịch Hồi giáo chỉ tương ứng với 1368 năm dương lịch.  Ðạo Bahâ'i lại dùng một lịch, dựa trên âm lịch và ngày đầu năm là ngày xuân phân (vernal equinox).  Ðiểm đặt biệt là lịch này gồm 19 tháng, mỗi tháng 19 ngày (một năm có 361 ngày), và có thêm 4 ngày mỗi năm chen vào giữa các tháng và sau bốn năm thì thêm một ngày nữa như năm nhuận dương lịch.

 

3) Lịch Việt Nam và Trung quốc

Người Việt nam dùng âm lịch để tính lễ tiết và chọn ngày cho các công việc quan trọng như cưới hỏi, xây nhà, mở cửa tiệm làm ăn ...   Âm lịch này giống như âm lịch của Trung quốc nghĩa là dựa trên chu kỳ của mặt trăng và phối hợp với sự chuyển động của trái đất quanh mặt trời.  Mỗi năm có 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu, 29 ngày.  Cứ 19 năm thì nhuận 7 lần, mỗi lần nhuận một tháng.  Tháng đầu năm là tháng giêng và tháng cuối năm là tháng chạp không bao giờ được lấy làm tháng nhuận.  Ngày đầu năm, ngày  mùng một Tết, là ngày đầu tuần trăng thứ nhì sau ngày tiết Ðông chí (Winter solstice, thường xem như là ngày mà đêm dài nhất trong năm).  Tùy theo tuần trăng ở ngày Ðông chí mà ngày đầu năm sẽ đến trong khoảng 30 đến 59 ngày sau ngày đó.  Do đó ngày mùng một Tết chỉ có thể nằm trong khoảng 20 tháng 1 đến 21 tháng 2 dương lịch.  Tháng âm lịch thường đi sau tháng dương lịch một hay hai thứ, như tháng ba âm lịch ứng với tháng tư hoặc tháng năm dương lịch.

            Năm âm lịch không tính theo số mà dùng tên ghép gồm hai chữ.   Chữ đầu là một trong 10 thiên can (Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quý).  Chữ thứ nhì là một trong 12 địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão hay Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi).  Mười hai địa chi là tên 12 con vật.   Âm lịch Việt nam khác âm lịch Trung quốc ở chỗ năm Sửu thì theo lịch Việt nam là năm con trâu, còn Trung quốc là con bò, còn năm Mão hay Mẹo ở Việt nam là năm con mèo, thì trong lịch Trung quốc lại là năm con thỏ.  Vì bội số chung của 10 (thiên can) và 12 (địa chi) là 60, nên cứ 60 năm, tên các năm lại được lập đúng trở lại.  Và cũng vì thế mà mỗi can chỉ đi chung với sáu năm trong 12 địa chi, hay mỗi năm theo địa chi chỉ có thể đi chung với 5 can mà thôi.  Thí dụ như can Giáp chỉ đi chung với các năm Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân và Tuất, còn can Ất chỉ đi chung với các năm Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu và Hợi.

Trần Ngọc Thùy Trang (cựu chủ tịch UVSA) có nhận xét là các năm bắt đầu bằng can Canh có số đơn vị là 0, Tân có số đơn vị là 1 ... theo số năm dương lịch, nhưng không rõ sự tương ứng.   Thật ra đó là sự tương ứng một gióng một (correspondence one to one): vì hệ thống số đang dùng theo thập phân, từ 0 đến 9, nên số hàng đơn vị mỗi năm ứng với mười thiên can, không xê dịch, không thay đổi được.   Năm có can Canh luôn luôn ứng với năm dương lịch có số cuối là 0 (như Canh Thìn là 1940, 2000; Canh Ngọ là 1990, Canh Thân là 1980 ...), Tân ứng với số cuối là 1 (Tân Tỵ là 1941, 2001; Tân Mùi là 1991, Tân Dậu là 1981 ...), Nhâm ứng với số cuối là 2 (Nhâm Ngọ là 1942, 2002, Nhâm Thân là 1992, Nhâm Tuất là 1982 ...),  Quý, với số cuối là 3 (Quý Mùi là 1943, 2003; Quý Hợi là 1983, Quý Dậu là 1993 ...), Giáp ứng với số cuối là 4 (Giáp Thân là 1944, 2004; Giáp Tuất là 1994, Giáp Dần là 1974 ...)  vân vân.   Cứ mười hai năm làm một giáp (great year),  60 năm làm một vận niên lục giáp (cycle) và 3600 năm làm một kỷ nguyên (epoch)

 

** 4 5 6 7 8 9 0 1 2 3
  Giáp Ất Bính Ðinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý
1984   1996           1972  
Sửu   1985   1997           1973
Dần 1974   1986   1998          
Mão   1975   1987   1999        
Thìn 1964   1976   1988   2000      
Tỵ   1965   1977   1989   2001    
Ngọ 1954   1966   1978   1990   2002  
Mùi   1955   1967   1979   1991   2003
Thân 2004   1956   1968   1980   1992  
Dậu   2005       1969   1981   1993
Tuất 1994   2006   1958   1970   1982  
Hợi   1995   2007       1971   1983

 

** Số tương ứng với 10 thiên can.

 

Mỗi năm âm lịch lại chia ra làm 24 tiết.

 

Tiết (âm lịch)

Dương lịch (khoảng) Số ngày giữa hai tiết   

Lập xuân            

4 tháng 2   15

thủy

19 tháng 2  15

Kinh trập 

6 tháng 3 (năm nhuận, 16 ngày) 15

Xuân phân 

21 tháng 3 15   

Thanh minh

5 tháng 4 15  
Cốc vũ               20 tháng 4 15

Lập hạ       

6 tháng 5        16 

Tiểu mãn

21 tháng 5 15 

Mang chủng  

6 tháng 6 16  

Hạ chí       

21 tháng 6 15  

Tiểu thử   

7 tháng 7 16 

Ðại thử    

23 tháng 7 16 

Lập thu  

8 tháng 8 16
Xử thử 23 tháng 8 15

Bạch lộ     

8 tháng 9 16 

Thu phân        

23 tháng 9 15  

Hàn lộ            

8 tháng 10 15 

Sương giáng    

23 tháng 10  15

Lập đông  

7 tháng 11  15

Tiểu tuyết   

22 tháng 11  15 

Ðại tuyết  

6 tháng 12 14 

Ðông chí             

22 tháng 12 16     

Tiểu hàn   

5 tháng1  14  

Ðại hàn       

20 tháng 1    15
Tổng cộng            365

      

* Thanh minh trong tiết tháng ba trong truyện Kiều là trong tháng ba âm lịch đến sau tiết xuân phân khoảng hai tuần.

 

 4) Lịch Nhật bản

            Ngoài Việt nam và Trung quốc còn có Nhật bản cũng dùng âm lịch như trên.

  Người Nhật gọi tiết là ki.  Xuân phân theo tiếng Nhật là Shunbun, Hạ chí là Geshi, Thu phân là Shuubun và Ðông chí là Touji. 

 Tên tháng trong lịch Nhật lúc đầu không theo cách đếm số mà theo mùa màng hay công việc đồng áng.  Tháng giêng là MuTsuki có nghĩa là mùa xuân thái hòa, tháng ba là Yayohi, có nghĩa là cỏ mọc xanh rì, tháng sáu là Mina Tzuki, tháng tưới nước (đưa nước vào ruộng),  tháng 8 là Ha Tzuki, tức là tháng của lá cây.   Ðặc biệt là tháng 10 được gọi là tháng của các vị thần, KaNa Tzuki vì theo truyền thuyết các thần về họp mặt tại đền Izumo trong phủ Shimane.  Vì vậy người ta vẫn coi tháng 10 là tháng không có thần thánh bảo hộ ở các phủ khác. 

Tháng âm lịch có ba tuần, theo con trăng: thượng tuần, trung tuần và hạ tuần.  Riêng âm lịch Nhật chia tuần lễ theo bảy ngày từ năm 807.  Năm 806 nhà sư Koubou Daishi cho biết là không thể tính chính xác ngày xấu, ngày tốt trong lịch Nhật vì không biết được ngày bí mật, tiếng Nhật là Mitsubi.  Thật ra Mitsubi do chữ Mitsu, âm từ tiếng thổ âm Samarkand mee-ruu  là Sunday.  Từ đó lịch Nhật bản áp dụng tuần lễ bảy ngày theo tên Mặt trời và tên sáu hành tinh (planets) trong Thái dương hệ.  Trong hồi ký viết năm 1007, Michinaga Fujiwara đã ghi lại ngày 23 tháng 9 là ngày thứ ba (Kayoubi), ngày của Hỏa tinh.

            Cho đến nay, người Nhật bản, người Trung quốc, và người Việt nam đều dựa vào âm lịch để giải quyết các việc quan trọng trong đời sống, và âm lịch đã thật sự có một ảnh hưởng sâu đậm trong ba nước này.

 

Xin đọc tiếp:

     Lịch sử cuốn lịch - phần 1
    
Lịch sử cuốn lịch - phần 2

 

           © http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org http://vietsciences.net http://vietsciences2.free.fr    Thuần Ngọc