Âm lịch
Dương lịch
Sửa đổi lịch
Lịch Do thái
Lịch Việt Nam và Trung quốc
Lịch Nhật bản
Âm lịch
Mặt trăng quay xung quanh trái đất
và thay đổi từ lúc bắt đầu tuần trăng mới (new moon)
đến trăng rằm, tròn, rồi khuyết dần cho đến mất hẳn
để lại bắt đầu tuần trăng mới kế tiếp. Sự chuyển
vần theo một chu kỳ gần như
nhất định của mặt trăng rất dễ nhận thấy nên từ xưa,
người ta đã bắt đầu làm lịch dựa theo chu kỳ của mặt
trăng. Người Trung Hoa đã dùng chữ Nguyệt nghĩa là
mặt trăng để chỉ tên tháng. Chữ Month trong tiếng
Anh cũng do chữ Moon mà ra (Pogge, Astronomy 161, 07
tháng 1, 2001). Lịch dựa trên chu kỳ tuần hoàn của
mặt trăng, ta gọi theo Trung hoa là âm lịch.

Dựa
trên di tích lịch sử tìm được, Alexander Marshack
(theo Phil Burns, 27 tháng 3, 2000) đưa ra thuyết
là âm lịch đã được khắc trên xương, trên các khúc gỗ
từ 27000 năm trước Công nguyên (nghĩa là 29 ngàn năm
trước đây).
Và âm lịch đã được sử
dụng trong nhiều nền văn hóa khác nhau như thổ dân ở
Úc vẫn dùng giây thắt gút để tính ngày tháng theo âm
lịch. Theo truyền thuyết vua Hoàng đế của Trung hoa
đã lập nên âm lịch từ thế kỷ 26 trước Công nguyên,
tức hơn 4600 năm rồi.
Năm âm lịch thường có 12
tháng, mỗi tháng có 29 (tháng thiếu) hay 30 (tháng
đủ) ngày. Như thế một năm âm
lịch thường,
có từ 353 đến
355 ngày. Trái đất quay quanh mặt trời và quay trọn
một vòng trong 365 ngày (đúng ra là 365, 242199
ngày, là một năm thiên văn, astronomic
year). Tùy theo vị trí tương ứng giữa trái đất và
mặt trời mà sinh ra mùa màng trên trái đất. Ðể mùa
màng vẫn xảy ra đúng với ngày tháng âm lịch, nên cứ
hai hoặc ba năm lại có năm nhuận. Thường thì trong
19 năm sẽ có 7 năm nhuận. Năm nhuận có 13 tháng, có
hai tháng trùng tên, tháng thứ nhì là tháng nhuận.
Tùy theo tháng nhuận, năm
nhuận có từ 382 đến
385 ngày.
Dương lịch
Dương lịch tức là lịch đang được chính thức dùng
trên hầu hết các nước trên thế giới được tính theo
sự chuyển vần biểu kiến của mặt trời. Người La
Mã (Roman) lúc đầu dùng âm lịch (theo mặt trăng).
Mỗi năm theo lịch La Mã cổ chỉ có 10 tháng, mỗi
tháng có 29 hay 30 ngày thành ra lịch đi đường lịch,
mùa màng đi đường mùa màng, không ăn khớp với nhau.
Sau đó thì mỗi năm được tăng lên thành 12 tháng,
nhưng thế cũng chỉ có 354 ngày trong một năm, chưa
đúng với 365 ngày được. Nên sau một thời gian tuy
lâu hơn trước một chút, mùa màng không còn ứng đúng
với lịch nữa. Người La Mã sửa chữa các sai biệt
bằng cách lâu lâu cho thêm tháng thứ 13, nhưng điều
này không giải quyết được các sai biệt mà lại làm
rắc rối thêm. Dưới thời
Julius Caesar, ông
cho sửa lại lịch và ấn định lại mỗi năm có 12 tháng
và có 365 ngày. Từ đó lịch La Mã không còn theo chu
kỳ của mặt trăng nữa.
Ðể cho sát với thời gian trái
đất quay chung quanh mặt trời một vòng (365,242199
ngày -- theo năm thiên văn) cứ bốn năm lại có một
năm nhuận (số năm chia chẵn cho 4, như 40, 1620,
1964, 1980...), trong năm đó tháng hai được thêm một
ngày. Nhưng lịch Julian (theo tên của Julius
Caesar) vẫn chưa hoàn hảo. Cứ 128 năm sự sai biệt
lên đến một ngày.
Sửa đổi lịch
Từ đó cho đến năm 1582 theo Công
nguyên, thì sự sai biệt đã lên đến 10 ngày. Giáo
Hoàng
Gregory
XIII quyết định bỏ 10 ngày trong tháng 10 năm đó
để cho lịch và mùa màng tương ứng trở lại. Sau
ngày 4 tháng 10 năm 1582 là ngày 15 tháng 10. Và để
tránh sai biệt, tuy vẫn giữ năm nhuận (lấy năm có số
thứ tự chia chẵn cho 4 làm năm nhuận như 1964, 1980,
2004), các năm tận cùng bằng 00 (năm cuối của thế kỷ
như 1600, 1700 ...) thì chỉ các năm chia chẵn cho
400 mới là năm nhuận (1600, 2000, 2400 ...). Nhờ
thế mà trong 3322 năm mới có sai biệt một ngày giữa
năm thiên văn và năm theo dương
lịch. Lịch đã sửa mang tên lịch Gregorian và được
áp dụng cho đến bây giờ. Vì sự thông tin chậm trễ
và vì lý do tôn giáo, nhiều nước không áp dụng lịch
Gregorian ngay sau đó. Nước Anh (và Hoa kỳ lúc còn
là thuộc địa của Anh) mãi đến 1752 mới theo lịch
này, và khi đó phải bỏ bớt 11 ngày trong lịch (do đó
George Washington
sinh ngày 11 tháng 2 năm 1731, nhưng Hoa Kỳ ăn mừng
sinh nhật của ông vào ngày 22 tháng 2. Nga chỉ theo
lịch này sau năm 1917, do đó mấy nước khi
còn theo Cộng sản ăn mừng lễ lớn
Cách mạng tháng 10 Nga vào tháng 11 dương lịch.
Âm lịch cũng trải qua
nhiều thay đổi, sửa chữa. Trước hết, gọi là âm
lịch để đối chiếu với dương lịch chứ thật ra âm
lịch, tuy dựa trên chu kỳ tuần hoàn của mặt trăng,
lại phối hợp với sự vận hành của trái đất quanh mặt
trời (và của một số tinh tú trên bầu trời), thành ra
tên của lịch phải là Âm dương hiệp lịch (Lunisolar
calendar). Trong bài, từ đây về sau, dùng chữ âm
lịch thay cho bốn chữ âm dương hiệp lịch cho tiện.
Âm lịch đã được dùng ở Babylon và đến năm 1000 trước
Công nguyên đã được sửa chữa cho lịch tương ứng với
mùa màng. Trong việc sửa chữa, người ta có nhắc lại
là phải tính sao cho định tinh Sirius
(ngôi sao sáng nhất, sau Mặt
trời,
gấn Trái đất nhất)
lúc sáng nhất phải nằm trong
một tháng nào đó.
Ðến năm 747 trước Công nguyên, lịch
(mang tên là lịch theo chu kỳ Metonic) được
sửa thêm lần nữa. Làm lịch theo chu kỳ Metonic, cứ
mỗi kỳ 19 năm thì có bảy năm nhuận, mỗi năm nhuận có
thêm một tháng. Như thế mỗi năm có 365,2467463
ngày, chính xác hơn lịch Julian (sửa năm 46 trước
Công nguyên) vì đến 219 năm mới sai biệt một ngày so
với năm thiên văn. Hiện nay, người ta đã định là cứ
342 năm (18 kỳ 19 năm) bỏ đi một năm nhuận. Như vậy
đến 336 700 năm mới có sai biệt một ngày đối với năm
thiên văn.
Người Do thái cũng dùng
lịch Metonic và giữ gần nguyên tên các tháng trong
lịch (như Nisan cho tháng Nisannu) nhưng chỉ dùng kỳ
19 năm cho bảy năm nhuận.
Lịch Do thái
theo
nguyên tắc của âm dương hiệp lịch. Lịch Do thái có
phép tính ngày lễ Rô'sh Hashshânâh (ngày Tết của họ)
một cách hết sức phức tạp. Hồi giáo cũng dùng âm
lịch, nhưng cộng thêm ngày cho trùng hợp với chu kỳ
của mặt trăng mà không sửa chữa theo sự vận hành của
trái đất quanh mặt trời. Do đó 1410 năm theo âm
lịch Hồi giáo chỉ tương ứng với 1368 năm dương
lịch. Ðạo Bahâ'i lại dùng một lịch, dựa trên âm
lịch và ngày đầu năm là ngày xuân phân (vernal
equinox). Ðiểm đặt biệt là lịch này gồm 19 tháng,
mỗi tháng 19 ngày (một năm có 361 ngày), và có thêm
4 ngày mỗi năm chen vào giữa các tháng và sau bốn
năm thì thêm một ngày nữa như năm nhuận dương lịch.
Lịch
Việt Nam và Trung quốc
Người Việt nam dùng âm lịch để tính
lễ tiết và chọn ngày cho các công việc quan trọng
như cưới hỏi, xây nhà, mở cửa tiệm làm ăn ... Âm
lịch này giống như âm lịch của Trung quốc nghĩa là
dựa trên chu kỳ của mặt trăng và phối hợp với sự
chuyển động của trái đất quanh mặt trời. Mỗi năm có
12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu, 29
ngày. Cứ 19 năm thì nhuận 7 lần, mỗi lần nhuận một
tháng. Tháng đầu năm là tháng giêng và tháng cuối
năm là tháng chạp không bao giờ được lấy làm tháng
nhuận. Ngày đầu năm, ngày mùng một Tết, là ngày
đầu tuần trăng thứ nhì sau ngày tiết Ðông chí
(Winter solstice, thường xem như là ngày mà đêm dài
nhất trong năm). Tùy theo tuần trăng ở ngày Ðông
chí mà ngày đầu năm sẽ đến trong khoảng 30 đến 59
ngày sau ngày đó. Do đó ngày
mùng một
Tết chỉ có thể nằm trong khoảng 20 tháng 1 đến 21
tháng 2 dương lịch. Tháng âm lịch thường đi sau
tháng dương
lịch một hay hai thứ, như tháng ba âm lịch ứng với
tháng tư hoặc tháng năm dương lịch.
Năm âm lịch không tính
theo số mà dùng tên ghép gồm hai chữ. Chữ đầu là
một trong 10 thiên can (Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu,
Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quý). Chữ thứ nhì là một
trong 12 địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão hay Mẹo, Thìn,
Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi). Mười hai địa
chi là tên 12 con vật. Âm lịch Việt nam khác âm
lịch Trung quốc ở chỗ năm Sửu thì theo lịch Việt nam
là năm con trâu, còn Trung quốc là con bò, còn năm
Mão hay Mẹo ở Việt nam là năm con mèo, thì trong
lịch Trung quốc lại là năm con thỏ. Vì bội số chung
của 10 (thiên can) và 12 (địa chi) là 60, nên cứ 60
năm, tên các năm lại được lập đúng trở lại. Và cũng
vì thế mà mỗi can chỉ đi chung với sáu năm trong 12
địa chi, hay mỗi năm theo địa chi chỉ có thể đi
chung với 5 can mà thôi. Thí dụ như can Giáp chỉ đi
chung với các năm Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân và Tuất,
còn can Ất chỉ đi chung với các năm Sửu, Mão, Tỵ,
Mùi, Dậu và Hợi.
Trần Ngọc Thùy Trang (cựu chủ tịch
UVSA)
có nhận xét là các năm bắt đầu bằng can Canh có số
đơn vị là 0, Tân có số đơn vị là 1 ... theo
số năm dương lịch, nhưng không rõ sự
tương ứng. Thật ra đó là sự tương ứng một gióng
một (correspondence one to one): vì hệ thống số đang
dùng theo thập phân, từ 0 đến 9, nên số hàng đơn vị
mỗi năm ứng với mười thiên can, không xê dịch, không
thay đổi được. Năm có can Canh luôn luôn ứng với
năm dương lịch có số cuối là 0 (như Canh Thìn là
1940, 2000; Canh Ngọ là 1990, Canh Thân là 1980
...), Tân ứng với số cuối là 1 (Tân Tỵ là 1941,
2001; Tân Mùi là 1991, Tân Dậu là 1981 ...), Nhâm
ứng với số cuối là 2 (Nhâm Ngọ là 1942, 2002, Nhâm
Thân là 1992, Nhâm Tuất là 1982 ...), Quý, với số
cuối là 3 (Quý Mùi là 1943, 2003; Quý
Hợi là 1983,
Quý Dậu là 1993 ...), Giáp ứng với số cuối là 4
(Giáp Thân là 1944, 2004; Giáp Tuất là 1994, Giáp
Dần là 1974 ...) vân vân. Cứ mười hai năm làm một
giáp (great year), 60 năm làm một vận niên lục giáp
(cycle) và 3600 năm làm một kỷ nguyên (epoch)
** |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
0 |
1 |
2 |
3 |
|
Giáp |
Ất |
Bính |
Ðinh |
Mậu |
Kỷ |
Canh |
Tân |
Nhâm |
Quý |
Tý |
1984 |
|
1996 |
|
|
|
|
|
1972 |
|
Sửu |
|
1985 |
|
1997 |
|
|
|
|
|
1973 |
Dần |
1974 |
|
1986 |
|
1998 |
|
|
|
|
|
Mão |
|
1975 |
|
1987 |
|
1999 |
|
|
|
|
Thìn |
1964 |
|
1976 |
|
1988 |
|
2000 |
|
|
|
Tỵ |
|
1965 |
|
1977 |
|
1989 |
|
2001 |
|
|
Ngọ |
1954 |
|
1966 |
|
1978 |
|
1990 |
|
2002 |
|
Mùi |
|
1955 |
|
1967 |
|
1979 |
|
1991 |
|
2003 |
Thân |
2004 |
|
1956 |
|
1968 |
|
1980 |
|
1992 |
|
Dậu |
|
2005 |
|
|
|
1969 |
|
1981 |
|
1993 |
Tuất |
1994 |
|
2006 |
|
1958 |
|
1970 |
|
1982 |
|
Hợi |
|
1995 |
|
2007 |
|
|
|
1971 |
|
1983 |
** Số tương ứng với 10 thiên can.
Mỗi năm âm lịch lại chia ra làm 24
tiết.
Tiết
(âm
lịch)
|
Dương lịch
(khoảng) |
Số ngày giữa hai tiết |
Lập xuân
|
4 tháng 2 |
15 |
Vũ
thủy |
19 tháng 2 |
15 |
Kinh trập |
6 tháng 3 |
(năm nhuận, 16 ngày) 15 |
Xuân phân |
21 tháng 3 |
15 |
Thanh minh |
5 tháng 4 |
15 |
Cốc vũ
|
20 tháng 4 |
15 |
Lập hạ
|
6 tháng 5 |
16 |
Tiểu mãn |
21 tháng 5 |
15 |
Mang chủng |
6 tháng 6 |
16 |
Hạ chí
|
21 tháng 6 |
15 |
Tiểu thử |
7 tháng 7 |
16 |
Ðại thử
|
23
tháng 7 |
16 |
Lập thu |
8 tháng 8 |
16 |
Xử thử
|
23 tháng 8 |
15 |
Bạch lộ
|
8 tháng 9 |
16 |
Thu phân |
23 tháng 9 |
15 |
Hàn lộ |
8 tháng 10 |
15 |
Sương giáng |
23 tháng 10 |
15 |
Lập đông |
7 tháng 11 |
15 |
Tiểu tuyết |
22 tháng 11 |
15 |
Ðại tuyết |
6 tháng 12 |
14 |
Ðông chí |
22 tháng 12 |
16
|
Tiểu hàn |
5 tháng1 |
14 |
Ðại hàn |
20 tháng 1 |
15 |
Tổng cộng
|
|
365 |
* Thanh minh trong tiết tháng ba
trong truyện Kiều là trong tháng ba âm lịch đến sau
tiết xuân phân khoảng hai tuần.
Lịch
Nhật bản
Ngoài Việt nam và Trung
quốc còn có Nhật bản cũng dùng âm lịch như trên.
Người Nhật gọi tiết là ki. Xuân
phân theo tiếng Nhật là Shunbun, Hạ chí là Geshi,
Thu phân là Shuubun và Ðông chí là Touji.
Tên tháng trong lịch Nhật lúc
đầu không theo cách đếm số mà theo mùa màng hay công
việc đồng áng. Tháng giêng là MuTsuki có nghĩa là
mùa xuân thái hòa, tháng ba là Yayohi, có nghĩa là
cỏ mọc xanh rì, tháng sáu là Mina Tzuki, tháng tưới
nước (đưa nước vào ruộng), tháng 8 là Ha Tzuki, tức
là tháng của lá cây. Ðặc biệt là tháng 10 được gọi
là tháng của các vị thần, KaNa Tzuki vì theo truyền
thuyết các thần về họp mặt tại đền Izumo trong phủ
Shimane. Vì vậy người ta vẫn coi tháng 10 là tháng
không có thần thánh bảo hộ ở các phủ khác.
Tháng
âm lịch có ba tuần, theo con trăng: thượng tuần,
trung tuần và hạ tuần. Riêng âm lịch Nhật chia tuần
lễ theo bảy ngày từ năm 807. Năm 806 nhà sư
Koubou Daishi cho biết là không thể tính chính
xác ngày xấu, ngày tốt trong lịch Nhật vì không biết
được ngày bí mật, tiếng Nhật là Mitsubi. Thật ra
Mitsubi do chữ Mitsu, âm từ tiếng thổ âm Samarkand
mee-ruu là Sunday. Từ đó lịch Nhật bản áp dụng
tuần lễ bảy ngày theo tên Mặt trời và tên sáu hành
tinh (planets) trong Thái dương hệ. Trong hồi ký
viết năm 1007, Michinaga Fujiwara đã ghi lại ngày 23
tháng 9 là ngày thứ ba (Kayoubi), ngày của Hỏa tinh.
Cho
đến nay, người Nhật bản, người Trung quốc, và người
Việt nam đều dựa vào âm lịch để giải quyết các việc
quan trọng trong đời sống, và âm lịch đã thật sự có
một ảnh hưởng sâu đậm trong ba nước này.

Michinaga Fujiwara |