Những bài cùng tác giả
Alan Bartlett Shepard Jr
(1923-1998) phi hành gia
Mỹ đầu tiên, là phi hành gia thứ nhì của thế giới ,
sau Youri Gagarin, là người thứ năm đi trên Mặt
trăng.
Những bài liên
quan:
chuyến bay ra Vũ trụ đầu
tiên của Mỹ
Là
một trong 12 người đã đi trên Mặt trăng, Alan
B. Shepard sinh ngày 18/11/1923
tại East Derry (New Hamshire).
Học tiểu học và trung học tại
East Derry. Năm 1944 đậu Cử nhân tại
United States Naval Academy
và Cao học hạng danh dự năm 1962 tại
Dartmouth College và Tiến sĩ khoa học tại
Miami University (Oxford, Ohio)
năm 1971 và
Tiến sĩ về nhân chủng học tại Franklin Pierce
College năm 1972.
Ra trường Naval Test Pilot School
năm 1951 và
Naval War College, Newport, Rhode Island
năm 1957.
Thành viên của
American Astronautical Society
và Society of Experimental
Test Pilots. Hội viên của
Kiwanis, Mayflower Society, Order of the Cincinnati,
và American Fighter Aces. Hội
viên danh dự của Board of Directors
cho trường Houston School
cho trẻ em điếc. Giám đốc
viện National Space Institute,
và giám đốc viện nghiên cứu tai
Los Angeles Ear Research Institut
Được cấp những
huy chương Congressional Medal of Honor (Không
gian); Được lãnh những huy
chương NASA Distinguished Service Medals,
NASA Exceptional Service Medal, Navy
Astronaut Wings, Navy Distinguished Service Medal,
và Navy Distinguished
Flying Cross
Nhận
huy chương Langley Medal (giải
cao nhất của Smithsonian Institution)
vào ngày 5/5/1964.
Năm 1971 nhận Lambert Trophy, Kinchloe
Trophy, Cabot Award, Collier Trophy, City of New
York Gold Medal.
Tháng
7/1971,
Shepard được
Tổng thống
Richard Nixon bổ nhiệm đại
diện cho hội nghị United Nations General
Assembly thứ 26 và làm việc cho hội
đồng suốt thời gian cho tới khi kết thúc vào tháng
12/1971.
Trung tá Hải quân
Shepard là một lực sĩ đầy đủ, cao 1,8, nặng 74 ký .
Con nhà binh (cha là một Trung tướng hưu trí)
ông theo học tại trường Thủy quân Annapolis. Trong
trận Đại chiến vừa qua, ông được bổ nhiệm rèn khu
vực hạm Gogswell hành binh trong Thái bình dương. Hết
giặc, ông được sung dụng ở trường không quân Corpus
Chritis (Texas) rồi qua trường Không quân Pensacola
(Floride). Tại đây, tháng 3/1947 ông đậu bằng phi
công thử máy bay. Từ đấy ông chuyên môn khảo cứu về
vấn đề hàng không và phụ giúp hoàn thành kỹ thuật
tiếp tế trên không và hạ máy bay trên các hàng không
mẫu hạm. Người ta bảo ông rất thông minh và
thông hiểu khoa học khá nhiều, nhất là về môn thiên
văn học, vật lý thiên văn, khí tượng học, địa dư và
thuật hàng không giữa các thiên thể. Các nhiên
liệu cũng như các máy móc điều khiển từ xa đối với
ông không còn gì là bí mật. Mấy năm sau đó ông
được bay thử ở cao độ để khảo sát cách truyền bá của
ánh sáng và cách di chuyển khí trời trên lục địa Mỹ
châu. Cho tới lần ra khỏi Vũ trụ đầu tiên này, Alan đã bay tới 3700 giờ, trong số đó có 1800
giờ với phi cơ phản lực.
Năm
1959, ông được chọn vào NASA (mới vừa thành lập ngày
29/07/1958) , nhập vào nhóm 7 phi hành gia đầu
tiên của chương trình Mercury. Ông là một trong bảy
phi công tình nguyện bay ra Vũ trụ.
23 ngày sau khi Liên Xô đặt vào
quỹ đạo của trái đất một nhà phi hành, phi thuyền
Freedom-7 mang theo Alan Shepard cũng được
phóng lên vào lúc 9:34 giờ ngày 5/5/1961 bằng hỏa
tiễn Redstone do nhóm chuyên viên của Wernher Von
Braun chế tạo. Nhưng phi thuyền Freedom-7 chỉ bay
một phần quỹ đạo.
Chuyến bay Mercury Redstone (MR3) , nơi đó ông lái
capsule
Freedom 7 trong 15
phút 22 giây
(với 3
phút trong trạng thái không trọng
lực, apesanteur, impesanteur).
4 phút rưỡi sau khi hỏa tiễn được khai hỏa, nhà phi
hành Shepard đã lên tới điểm cao nhất là 115 dậm,
ông ta đã nhìn vũ trụ qua viễn kính toàn cảnh và đã
phải thốt lên câu
"What a
beautiful view!" (cảnh
đẹp quá chừng!). 8 phút sau
khi phóng lên, phi thuyền Freedom-7 trở về lớp khí
quyển và Shepard đã phải chịu đựng áp suất 10 G. Lúc
9:45 giờ, phi thuyền đáp xuống bình yên ngoài khơi
Florida 302 dậm. Alan Shepard được chở lên Hàng
Không Mẫu Hạm Lake Champlain bằng máy bay trực thăng.
Cả bảy người đều
ăn lương như thường ngày, chỉ có được thêm phụ
cấp những giờ bay với phi cơ phản lực. Tuy nhiên, tờ
tuần báo Life chịu trả một số tiền 70.000 đô la Mỹ
cho tất cả bảy người để dành độc quyền đăng tải bài
tường thuật của nhà du hành vũ trụ đầu tiên.
Tiếp
theo, ông là phi công dự bị cho sứ mệnh Mercury-Atlas 9
và sau đó bị cấm bay vì lý do tai trong
bị bịnh, phải giải phẫu để
điều chỉnh lại,
cho tới năm
1969, lúc đó ông giữ chức sếp phòng phi hành gia
10 năm sau chuyến bay Freedom
7, ông chỉ huy sứ mệnh Apollo 14 cùng với
Stuart A. Roosa và
Edgar D. Mitchell và
đáp lên đồi gần miệng núi lửa
Fra Mauro
của Mặt trăng
ngày 5/2/1969, lúc 19 giờ 18 phút. Ông là
người thứ năm đi trên Mặt trăng và là người đầu tiên
đánh golf trên đó (vì ông đã hứa với cha ông như
vậy) và đã đạt kỷ lục thời gian ở trên Mặt
trăng (33 giờ) và kỷ lục đi trên Mặt trăng (hai lần
tổng cộng là 9 giờ 23 phút, lâu hơn 3 sứ mạng
Apollo khác). Câu đầu tiên khi ông đặt chân lên Mặt
trăng: "It's
been a long way but
we're here"
Ông là
người đầu tiên sử dụng một thiết bị vận tải lưu động
(Mobile Equipment Transporter
, MET), một loại xe cút kít
để đi lượm
khoảng 100 pounds (1 pound = 452 g) mẫu đất đá của
Mặt trăng để đem về Trái đất.
6/1971,
ông trở lại chức sếp văn phòng các phi hành gia và
giã từ NASA và Hải quân ngày 1/8/ 1974 với chức
Chuẩn đô đốc (Contre-Amiral, Rear-Admiral) để nhập
vô hãng "Marathon
Construction Company" ở
Houston, Texas với chức chủ tịch. Sau đó Alan B.
Shepard làm chủ tịch các hãng
«Seven/Fourteen» tại Houston.
Alan Shepard mất vì bệnh bạch
cầu (Leucémie) ngày 21/07/1998, thọ 74 tuổi
Vợ ông, Louise, mất sau chưa
đầy một tháng: tháng
8, 1998. Cả hai được ba con gái Julie, Laura và
Alice cùng với 6 cháu ngoại chăm sóc.
Chuẩn đô đốc Shepard đã ở trong
không gian tổng cộng là 216 giờ 57 phút trong
đó ông đã đi bộ trên Mặt trăng hết 9 giờ 17 phút ,
gọi là "sinh hoạt
EVA" (extra-vehicular
activities, hay “spacewalks”).
Ông đã bay cả thảy hơn 8000 giờ
trong số đó có 3700 giờ với phi cơ
phản lực.
Alan Shepard rnhận
giải thưởng đặc biệt của NASA (NASA
Distinguished Service Award)
do Tổng thống Kennedy trao tặng vào
tháng 5, 1961 sau chuyến bay thành
công Mercury-Redstone 3.
Vợ và mẹ của
Shepard
đứng bên trái và một
phi hành gia khác đứng đằng sau
|
|
===============
Những câu nói của Alan khi chơi
golf trên Mặt trăng:
"Got
more dirt than ball. Here we go again.”
(
người chơi golf tài tử chuẩn bị thêm
một cú đánh golf trên Mặt trăng)
“Miles and miles
and miles.”
(cho trái banh thứ hai)
“Because of the suit I was wearing, I
couldn't make a good pivot on the swing. And I had
to hit the ball with one hand.”
(Alan giải thích
vằ cú đánh golf trên Mặt trăng)
“The suit was so clumsy, being
pressurized, it was impossible to get two hands
comfortably on the handle and it’s impossible to
make any kind of a turn. It was kind of a one-handed
chili-dip. Then I
thought, with the same clubhead speed, the ball’s
going to go at least six times as far. There’s
absolutely no drag, so if you do happen to spin it,
it won’t slice or hook 'cause there’s no atmosphere
to make it turn.”
(Alan giải thích về cú đánh golf trên Mặt trăng cho
báo Ottawa Golf magazine.)
|
7 Phi hành gia đầu tiên
của Mercury
Freedom 7,
NASA
(Hàng
sau từ trái sang phải) Alan
Shepard, Gus Grissom, Grodon Cooper; (Hàng
đầu) Waltedr Schirra, Deke
Slayton, John Glenn, Scott Carpenter |
M. Scott Carpenter (1925-)
L. Gordon Cooper, Jr. (1927-2004)
John H. Glenn. Jr. (1921-)
(Người Mỹ đầu tiên tới quỹ đạo Trái
đất)
Virgil I. "Gus" Grissom (1926-1967)
Walter M. Schirra, Jr. (1923-)
Alan B. Shepard, Jr. (1923-1998)
(Người Mỹ đầu tiên ra không gian)
Donald K. "Deke" Slayton (1924-1993)
|
|
Edgar
Dean Mitchell |
Stuart
Allen Roosa |
Apollo 14 phóng
lên không trung |