John Steinbeck ra đời vào ngày 27 tháng
2 năm 1902 tại Salinas thuộc tiểu bang
California. Cha của nhà văn là ông John Ernst
Steinbeck đã tới định cư tại nơi
này sau khi Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ
chấm dứt. Bà mẹ của nhà văn tên là
Olive Hamilton, là một giáo viên dạy tại
nhiều trường thuộc khu vực Salinas.
John Steinbeck đã trưởng thành trong miền
thung lũng đẹp và trù phú này nên đây là
nơi mà nhà văn đã tìm thấy nhiều
chất liệu để viết ra các tiểu
thuyết về sau.
Vào tuổi thiếu thời, trí tưởng tượng
của John Steinbeck đã được nuôi dưỡng
do bà mẹ, một bà giáo, thường đọc
cho con nghe nhiều cuốn truyện trong nền văn
chương thế giới. Các tác phẩm
của Dostoevsky, Milton, Flaubert, George Eliot, Malory, Thomas
Hardy. . . đã gây hứng thú sâu rộng tới
cậu bé John ham đọc sách, rồi về sau,
John Steinbeck còn xác nhận chịu ảnh hưởng
của Darwin, Marx và Bộ Thánh Kinh với bản
dịch của Vua James.
Sau khi tốt nghiệp trường trung học
Salinas, John Steinbeck ghi danh vào Đại Học
Stanford nhưng rồi do bản chất ưa thích
phóng khoáng, không chịu ép mình theo kỷ luật
học đường, John Steinbeck đã không
tốt nghiệp đại học. Trong 5 năm
của thập niên 1920, John Steinbeck đã lãnh
nhiều công việc làm, kể cả làm trong
đồn điền Spreckles tọa lạc 10
dậm phía nam của Salinas và kinh nghiệm từ
nơi làm việc này đã khiến cho tác
giả John Steinbeck sau này viết ra tác phẩm
“Về Chuột và Người” (Of Mice and Men,
1937).
Vào năm 1922, John Steinbeck làm nhân viên hóa chất
(bench chemist) tại cơ xưởng chế
tạo đường củ cải (sugar-beet
factory) gần Salinas và địa điểm làm
việc này đã được nhà văn
dựng thành cuốn truyện “Tortilla Flat”
(1935). Sau đó John Steinbeck cùng người em Mary
theo học khóa hè của cơ sở Hopkins Marine
Station tại Pacific Grove, gần Monterey. Sự
hiểu biết của nhà văn về sinh
học biển (marine biology) đã bắt đầu
từ nền giáo dục này.
Từ khi bỏ ngang không theo đại học,
John Steinbeck xuống tầu từ Los Angeles vào tháng
11- 1925, đi New York qua ngả Kênh Đào Panama.
Tại New York, John Steinbeck làm công nhân xây dựng
tại Madison Square Garden rồi chán nản trước
nghề lao động, ông quay về miền tây,
sống tại hồ Fallen Leaf, gần hồ Tahoe.
Chính tại nơi có phong cảnh rừng thông,
hồ rộng này, bắt đầu cuộc đời
của một nhà văn viết tiểu
thuyết. John Steinbeck phác thảo cuốn
truyện “Ly Vàng” (Cup of Gold) và vào thời gian này,
tác giả đã gặp cô Carol Henning, người
nhận đánh máy bản thảo. Năm 1929,
cuốn truyện “Ly Vàng” được
xuất bản nhưng bán không chạy, nhất là
vào thời gian này nền kinh tế của Hoa
Kỳ bắt đầu xuống dốc với
nhiều ngân hàng đóng cửa, nhiều cơ
sở thương mại phải khai phá sản.
Năm 1930, John Steinbeck kết hôn với cô Carol
Henning, họ dọn về sống trong một căn
nhà mùa hè của cha mẹ tại Pacific Grove và nhà
văn bắt đầu sáng tác cuốn tiểu
thuyết thứ hai có tên là “Nói với Thượng
Đế không biết” (To a God Unknown, 1933).
Tại Pacific Grove, John Steinbeck đã gặp Edward
Ricketts, một nhà sinh học biển và ông này
trở thành người bạn lâu năm và cũng
là nhân vật “Doc” trong tác phẩm “Cannery
Row” về sau. Vào thời gian này, John Steinbeck
bắt đầu viết cuốn truyện
“Mục Trường của Thiên Đường”
(Pastures of Heaven), được xuất bản năm
1932 nhưng bán không chạy. Khi bà mẹ Olive
Steinbeck bị bệnh nặng, bên giường
của mẹ, nhà văn khởi tác cuốn
truyện “Con Ngựa con Màu Đỏ” (the Red
Pony) với phần đầu xuất hiện trên
tạp chí North American Review.
John Steinbeck chịu cảnh sống eo hẹp
của nhà văn chưa thành danh cho tới năm
1935 khi tác phẩm “Tortilla Flat” được
xuất bản, mô tả một cách khôi hài các
cuộc phiêu lưu của nhóm người Mỹ
gốc Mễ, ưa thích vui thú, uống rượu,
ăn trộm, theo đuổi phụ nữ, đam
mê âm nhạc và nhẩy múa . . . Cuốn tiểu
thuyết này đoạt Huy Chương Vàng
của Câu Lạc Bộ Commonwealth tại San
Francisco và được Hollywood mua bản
quyền với giá tiền $3,000. Kể từ nay,
John Steinbeck cảm thấy vững tâm khi kiếm
sống bằng cây viết.
Vào năm 1936, gia đình Steinbeck dọn về
sống tại Los Gatos, California, và nhà văn cho
xuất bản cuốn truyện “Trong Trận
Chiến không được thua” (In Dubious Battle)
qua đó đề cập tới các loại
bạo hành kinh tế, các cuộc đình công và
con người trong các hoàn cảnh tranh chấp.
Nội dung của cuốn tiểu thuyết này
đã gây ra nghi ngờ về lý thuyết Mác Xít
của tác giả đồng thời độc
giả cũng phải chú ý tới nhà văn John
Steinbeck. Kể từ thời kỳ này, các
truyện ngắn của John Steinbeck dần dần
được in trên các tạp chí có tầm quan
trọng toàn quốc như Harper’s và Esquire
rồi nhà văn được đề
nghị viết một loạt bài cho tờ báo
San Francisco News, liên quan tới các công nhân.
Năm 1937, John Steinbeck cho ra đời cuốn
tiểu thuyết “Về Chuột và Người”
(Of Mice and Men). Đây là câu chuyện bi thương
giữa hai công nhân di cư gắn bó với nhau.
Cuốn tiểu thuyết này đã được
Câu Lạc Bộ Sách Trong Tháng (Book-of-the-Month Club)
chọn lựa và tác giả John Steinbeck được
Hội Văn Học (The Best Literary Society) ca
ngợi tại thành phố New York. Sau đó nhà văn
tới sống tại Hạt Bucks (Bucks county)
thuộc tiểu bang Pennsylvania để cộng tác
với George Kaufman trong việc đưa tác
phẩm lên sân khấu, với kết quả là tác
phẩm “Về Chuột và Người” đã
thành công theo kịch nghệ hơn là về
mặt tiểu thuyết, đã giật được
Giải Thưởng Phê Bình Kịch New York (the New
York Drama Critic Circle ‘s Award) ngay từ vòng bỏ
phiếu đầu tiên rồi sau đó kịch
bản này được chuyển thành một
cuốn phim hấp dẫn.
Để viết ra các cuốn tiểu thuyết,
John Steinbeck thường phải sống, làm
việc và hiểu rõ về loại người mà
nhà văn muốn mô tả. Vì vậy ông đã
đi tới tiểu bang Oklahoma trong khi vở
kịch “Về Chuột và Người” đang
được trình diễn trên sân khấu
Broadway. John Steinbeck tham gia cùng các di dân trên con
đường hướng về California, cư
ngụ với họ tại Hoovervilles, xin việc
làm giống như họ, hòa đồng vào
loại người trôi dạt này để
hiểu rõ các đặc tính của họ. John
Steinbeck đã thăm viếng nhiều trại di dân,
quan sát hoàn cảnh làm việc của họ và mô
tả các cảnh ngộ của những người
thiếu may mắn này.
Vào năm 1938, một tập các truyện ngắn
của John Steinbeck xuất hiện với tên là
“Thung Lũng Dài” (The Long Valley) rồi tiếp
theo là cuốn truyện “Máu của họ thì
Mạnh” (Their Blood is Strong) gồm những bài
viết về các công nhân di cư, đăng trên
tạp chí San Francisco Chronicle. Qua năm 1939, tác
phẩm “Chùm Nho Uất Hận” (The Grapes of Wrath)
đã gây ra sóng gió tại Hoa Kỳ và tại các
nước khác. Ngay sau khi xuất bản, cuốn
tiểu thuyết này đã trở thành “loại
bán chạy nhất” (a best-seller). Nhà đạo
diễn Darryl Zanuck đã mua bản quyền
của tác phẩm, cho các thám tử tới Thung Lũng
Trung Tâm (the Central Valley) để điều tra
sự chính xác của câu chuyện trước
khi cốt truyện được chuyển thành
phim.
Do đề cập tới sự thiếu công
bằng, thiếu bao dung và cảnh bóc lột người
lao động, cuốn “Chùm Nho Uất Hận”
bị coi là một tiểu thuyết “cấp
tiến” (a radical novel), đã bị Quốc
Hội Hoa Kỳ lên án. Cuốn tiểu thuyết
này cũng bị cấm đoán tại tiểu
bang Oklahoma, bị phản đối dữ dội
tại California cùng với các lời chỉ trích
tác phẩm rải rác tại nhiều nơi. Tác
phẩm kể trên đã gây nên sóng gió vì
nhiều người đã quên rằng đây không
phải là một bản tuyên ngôn chính trị, mà
chỉ là một cuốn tiểu thuyết hư
cấu, một sáng tác nghệ thuật mang
cấu trúc tượng trưng và ẩn dụ
(allegorical). Các kẻ chống đối đã không
nhớ rằng tác giả muốn nói lên ý nghĩa
của sự tự do của con người,
đề cập tới tiềm năng của
linh hồn và sự liên hệ giữa cá nhân
với tập thể, với lương tri
của tập thể này. Chủ đích của tác
giả không phải là một công cuộc cải
cách xã hội mà là một mục tiêu có tính
tự nhiên phối hợp với nền đạo
đức theo siêu nhiên và theo Thánh Kinh.
Đồng thời với các lời phản
đối, hơn nửa triệu ấn bản
cuốn “Chùm Nho Uất Hận” đã được
bán hết và tác phẩm này được
dịch sang nhiều ngôn ngữ để phổ
biến trên khắp thế giới. “Chùm Nho
Uất Hận” đã trở thành một
biến cố lịch sử và văn chương.
Các danh dự dồn về phía tác giả kể
cả Giải Thưởng Pulitzer và Giải Thưởng
Sách Hoa Kỳ (the American Bookseller ‘s Award). John
Steinbeck được mời làm hội viên
của Viện Nghệ Thuật và Văn Chương
Quốc Gia (the National Institute of Arts and Letters).
Năm 1939, John Steinbeck cùng với người
bạn Edward Ricketts tham dự một cuộc
khảo sát sinh học biển (marine-biological)
dọc theo bờ biển phía bắc của
tiểu bang California, tới Vịnh California và
cuộc hành trình này được mô tả trong
cuốn truyện “Vùng Biển của Cortez” (The
Sea of Cortez). Tháng 4 năm này, John Steinbeck qua xứ
Mexico để thực hiện cuốn truyện
phim tài liệu “Ngôi Làng bị bỏ quên” (The
Forgotten Village). Nhà văn John Steinbeck đã mải
mê tìm hiểu sự vật, bỏ quên tại
Pacific Grove người vợ Carol. Năm 1942 bà
Carol Henning đã nạp đơn xin ly dị
với nhà văn và kết quả là John Steinbeck
phải dàn xếp bằng số tiền $220,000
theo sau cảnh chia ly.
Khi Hoa Kỳ tham dự vào Cuộc Thế Chiến
Thứ Hai, John Steinbeck là phóng viên chiến trường
vào năm 1943, đã viết ra tác phẩm và
truyện phim “Câu chuyện của một đội
phi hành trên Oanh Tạc Cơ” (Bombs Away : The Story of
a Bomber Team) và tiểu thuyết kịch ngắn
(play-novella) có tên là “Mặt Trăng lặn”
(The Moon is Down), một tác phẩm rất phổ
biến tại miền Bắc châu Âu và được
truyền bá một cách lén lút tại các quốc
gia bị Đức Quốc Xã chiếm đóng.
Sau lần ly dị, John Steinbeck qua sống trong
tiểu bang New York rồi vào năm 1943, ông
kết hôn với cô Gwyndolen Conger, có hai người
con trai sinh năm 1944 và 1946. Nhà văn cũng xin làm
phóng viên tại nước Anh và vùng Bắc Phi
cho tờ báo Diễn Đàn New York (the New York Herald
Tribune). Cũng vào thời kỳ này, John Steinbeck
viết cốt truyện cho cuốn phim “Suồng
Cấp Cứu” (Lifeboat) của Hitchcock và cuốn
phim tuyên truyền “Huy Chương cho Benny” (A
Medal for Benny) của Jack Wagner.
Năm 1945, cuốn tiểu thuyết “Cannery Row”
được xuất bản, trong đó vẫn
mang đặc tính chỉ trích xã hội của tác
giả. Nhà văn John Steinbeck sau đó đã dùng
các tài liệu thu thập được trong
chuyến đi khảo sát tại xứ Mễ Tây
Cơ để viết ra cuốn tiểu
thuyết “Ngọc Trai” (The Pearl), về sau
được dàn dựng thành phim, đồng
thời cuốn tiểu thuyết dài “Chuyến
Xe Buýt bất thường” (The Wayward Bus) tuy
được chọn làm Sách-trong-Tháng
(Book-of-the-Month), thành công về mặt tài chính nhưng
không nhiều về mặt nghệ thuật.
Năm 1948 là năm pha trộn thành công và tai
họa đối với John Steinbeck. Ông được
bầu vào Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật và
Mỹ Tự Hoa Kỳ (The American Academy of Arts and
Letters) nhưng đồng thời cũng chịu
đựng cuộc ly dị lần thứ hai và
bị mất người bạn thân Edward Ricketts,
chết trong tai nạn trên xa lộ.
Trong nhiều năm, John Steinbeck thường
viết các bài báo và các truyện phim, đặc
biệt là phim “Viva Zapata!”, xuất hiện năm
1950. Cũng vào năm này, cuốn tiểu
thuyết “Phía Đông của Vườn Eden”
(East of Eden) được xuất bản. Đây
là cuốn truyện khó nhất và quan trọng
nhất của John Steinbeck, là cách tái tạo câu
chuyện theo Thánh Kinh kể về Cain và Abel,
lồng vào trong lịch sử của thung lũng
Salinas. Cốt truyện diễn tiến với ba
thế hệ của một gia đình sinh
sống trong tiểu bang California từ thập niên
1860 tới Thế Chiến Thứ Nhất, đã
mô tả các tranh chấp giữa hai thế hệ
anh em, một người tử tế là Adam Trask
trái ngược với người em hoang tàn
Charles, đề cập tới điều
thiện và điều ác, phản ánh cấu trúc
biểu tượng (symbolism).
Vào năm 1954, John Steinbeck cho xuất hiện
cuốn tiểu thuyết “Ngày Thứ Năm
ngọt ngào” (Sweet Thursday), một tác phẩm coi
như kế tiếp cuốn truyện “Cannery
Row”, với kết quả kém hơn so với
những tiểu thuyết trước kia, vì
thế vào năm 1961, Warren French cho rằng “ông
Steinbeck có vẻ là một nhân vật được
người khác viết ra nhiều hơn là chính
ông viết”. Trước niềm bi quan của các
nhà phê bình, John Steinbeck đã thắng lợi
bằng tác phẩm “Mùa Đông Bất Mãn” (The
Winter of Our Discontent). Trái với các chủ đề
bất công kinh tế, phí phạm quốc gia,
chịu đựng đau khổ ... của
thập niên 1930, tác phẩm “Mùa Đông Bất
Mãn” có khoảng thời gian là các năm
thịnh vượng nhưng tác giả đã phân
tích sâu xa và vững chắc các giá trị
của con người trong một xã hội mà
“người khôn khéo” (smart) móc túi các người
khác trong khi mà hình ảnh của các chính khách và
các nhà ái quốc được đóng hộp
như các hộp xà bông, với tình yêu bị
giảm giá thành một thứ đầu tư,
với các tham vọng về bóc lột, khai thác
kẻ khác.
Tác phẩm “Mùa Đông Bất Mãn” của John
Steinbeck đã gặt hái ngay được các thành
công rực rỡ do Giải Thưởng Nobel
về Văn Chương của năm 1962 mang
lại. Dù cho được sống trong hoàn
cảnh rất thoải mái về tiện nghi, dư
thừa về tiền bạc, dù cho tuổi cao và
các lời khuyên can của bạn bè, của bác sĩ
điều trị, John Steinbeck vẫn tham gia vào
một công trình thám hiểm lục địa châu
Mỹ bằng chiếc xe tải có chở đồ
dùng cắm trại, có ngăn kéo chứa đầy
bản đồ. Kết quả của cuộc hành
trình này là tác phẩm “Các Cuộc Du Lịch
với Charlie” (Travels with Charlie), một cuốn
tiểu thuyết chứa nhiều vui, buồn,
hấp dẫn, mà chỉ có tác giả John Steinbeck
mới có thể sống theo cách đó và
viết ra thành một tác phẩm văn chương.
Năm 1964, Văn Hào John Steinbeck được
Tổng Thống Lyndon Johnson trao “Huy Chương
Tự Do của Tổng Thống Hoa Kỳ” (The
Presidential Medal of Freedom).
Vào tháng 5 năm 1968, Văn Hào John Steinbeck bị
nghẽn mạch tim (heart attack) lần thứ
nhất tại Sag Harbor rồi lần thứ nhì
tại thành phố New York. Văn Hào qua đời
vào ngày 20 tháng 12 tại New York, một thành
phố rất cách xa nơi sinh trưởng và nơi
dàn dựng của nhiều tác phẩm văn chương
lừng danh.
Các tác phẩm của Văn Hào John Steinbeck là
những cuốn truyện khai thác các đấu
tranh của lớp dân nghèo, nói ra những lời
chỉ trích các bất công trong xã hội, với
nhiều nỗi thắc mắc trước
cảnh sống và với cách khôi hài, tất
cả đã hấp dẫn hàng triệu độc
giả. Giống như Đại Văn Hào
Shakespeare đã từng nói “ Tất cả
thế giới đều là một sân khấu”
(All the world ‘s a stage), Văn Hào John Steinbeck đã
trình bày nhiều loại sân khấu bi-hài,
bằng các tác phẩm mang các tên “Cannery Row”,
“Mùa Đông Bất Mãn”, “Chùm Nho Uất
Hận” ...
|