Những bài cùng tác giả
Mười chuyện, mỗi chuyên có một kết luận riêng, nhưng kết luận của chuyện thứ
mười "Tí anh, tí em" cũng có thể là tổng kết : ngây thơ hay ngây ngô, "ngây" thật hay giả
"ngây" ?
Tôi xin kể một số chuyện khi liên tưởng đến Giáo dục Đào tạo. Một số các
chuyện này đã được dùng trong các bài báo tôi đăng rải rác từ nhiều năm nay
trên báo, xen với một số chuyện tôi chưa kể, nay tôi tập hợp lại thành một
khối nhất quán để minh họa cho những bức xúc đang tồn tại. Có chuyện có
thật, có những chuyện là giai thoại, mang tính ngụ ngôn.
1/ Thường thấy các quan chức và các phương tiện truyền thông nhắc nhở đến
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng không hiểu một số người nghĩ gì về
"trồng người"? Đầu năm Canh Tý (1960), phát động phong trào "trồng cây",
Hồ Chủ tịch lại có câu nổi tiếng, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần: "Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người".
Cũng năm 1960, cụ Hồ về thăm quê. Về đến nhà khách Tỉnh ủy Nghệ An, cụ phát
hiện ra ngoài vườn có những cành hoa cắm xuống đất, giả như cây trồng, để
đón cụ. Cụ đã nghiêm khắc phê phán coi đó là một căn bệnh phô trương hình
thức. (1)
Hiện nay, đọc các thông tin về kế hoạch và đề án đào tạo nhân lực, tôi không
khỏi hoang mang (và chắc nhiều người ngoài nước và trong nước cũng như tôi)
hoài nghi về sự khả thi của các đề án này, với những số liệu và mốc thời
gian. Tôi e rằng những con người mà những đề án này giả định là sẽ đào tạo
ra, cũng giống như những cành cây không rễ, cắm xuống đất cho có số lượng,
chứ không phải là thực sự trồng cây/trồng người.
Xin nói thêm rằng có nguồn cho rằng cụ Hồ là người thâm hiểu Hán học, có khả
năng là cụ lấy từ điển tích Quản Trọng thời Xuân Thu, rồi phù hợp hóa vào
tình hình nước ta. Dùng điển tích cũ để sáng tác là hiện tượng thường thấy,
cả trong văn học. Gần đây có một blogger cho rằng đó là đạo văn. Không thích
cộng sản là quyền của người blogger này, nhưng không thể quá dễ dàng nói về
đạo văn như vậy. Vả lại sách Quản tử có viết bằng tiếng Việt Nam đâu, mà
viết bằng chữ Hán, phiên âm là: "Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc. Thập
niên chi kế mạc như thụ mộc. Chung thân chi kế mạc như thụ nhân. Nhất thu
nhất hoạch giả, cốc dã. Nhất thu thập hoạch giả, mộc dã. Nhất thu bách hoạch
giả, nhân dã". Không thể bảo Nguyễn Du là tay đạo văn hạng nhất, bởi vì
cốt truyện Kiều là mượn từ Thanh tâm tài nhân của Tàu; không thể bảo tác giả
bản nôm Chính phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm, hay là Phan Huy Ích theo học giả
Hoàng Xuân Hãn) là đạo văn vì dịch từ bản chữ Hán của Đặng Trần Côn; không
thể bảo văn hào Pháp La Fontaine (thế kỉ 17) tác giả của tác phẩm Fables
(chuyện thơ ngụ ngôn), là đạo văn, vì ông ta sử dụng nhiều chuyện ngụ ngôn
có từ thời Esope (người Hy-lạp thế kỉ thứ 7 trước Công nguyên), và còn vô số
trường hợp khác... Định nghĩa thật chính xác bằng từ ngữ thế nào là đạo văn,
là một điều khó, nhưng ai lý luận nghiêm chỉnh một chút, đều biết phân biệt
giữa sự quay cóp nguyên văn, và sự phù hợp hóa và cải tiến trong một khung
cảnh mới.
2/ Thuở nhỏ, tôi có học trong một cuốn Giáo khoa thư, câu chuyện sau đây. Có
một bác nông dân, ra tỉnh, vào một hàng kính, hỏi mua một cặp kính trắng.
Chủ hiệu đưa cho bác một trang sách để bác thử đọc. Bác thử tất cả các cặp
kính của hiệu mà vẫn không vừa lòng. Chủ hiệu đâm nghi hỏi: "Thế bác đã
biết đọc chưa đã ?". Bác ta nổi giận gắt lên : "Nếu tôi biết đọc rồi, thì
tôi đi mua kính làm gì!". Té ra bác ấy thấy mấy người già đọc sách thường
đeo kính, nên ngỡ rằng cứ đeo kính lên thì đọc được chữ mà chẳng cần phải
học. (2)
Ngày nay, có một số người Việt Nam, "cưỡi ngựa xem hoa" nước ngoài, quáng
mắt ngỡ rằng cứ có vài chục héc-ta đất, xây campus với những tòa nhà hoành
tráng, trang bị bàn ghế cho bảnh, thư viện đầy ắp sách, phòng làm việc đầy
ắp máy tính, phòng thí nghiệm có máy móc tối tân, vv. mà chẳng cần chú ý
giảng viên có trình độ tương xứng hay không, sinh viên học hành thế nào, rồi
khẳng định rằng tất nhiên khoảng 2020 cũng sẽ có những đại học đẳng cấp này
nọ, lọt vào top 200 gì đó. Dễ vậy sao ?
3/ Trong kho truyện cổ Việt Nam, có chuyện "Đẽo cày giữa đường" (mà tôi
xin kể lại theo ngôn ngữ ngày nay): Có anh nông dân kiếm được thanh gỗ, muốn
đẽo cái cày. Thay vì nhờ sự cố vấn của những người thợ lành nghề, anh mang
gỗ ra ngồi giữa đường để "đẽo cày". Kẻ qua người lại, mỗi người góp một ý,
người thì nói phải đẽo thế này, người thì nói phải đục thế kia. Đẽo một lúc
thì thanh gỗ teo lại. Kẻ qua người lại, hỏi, thì anh đành nói là anh đang "đẽo cái chìa vôi" (chìa vôi là cái que nhỏ như chiếc đũa, một đầu để quệt
vôi, một đầu nhọn, dùng để têm trầu). Lại mỗi người góp một ý, người thì nói
phải vót thế này, người thì nói phải gọt thế kia. Một lúc sau, người qua lại
hỏi anh đang làm gì, thì anh gắt lên: "Tôi đang vót cái tăm xỉa răng".
(3)
Có hiện tượng là quá nhiều người được hỏi ý và góp ý về Giáo dục Đào tạo,
trong đó có cả những người không có kinh nghiệm gì trong vấn đề. Tôi mong
rằng các quan chức có trách nhiệm, biết phân biệt được đâu là lời trung thực
và hợp lý, đâu là lời bàn hão. Tuy nhiên, còn có vấn đề biết đấy, nhưng có
nghe hay không nghe. Thi hào Nguyễn Khuyến có bài thơ "Anh giả điếc" :
Trong thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây !
Chẳng ai ngờ "sáng tai họ, điếc tai cày".
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Tọa trung đàm tiếu, nhân như mộc,
Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu…. (4)
Người Pháp thì có câu : "Không ai điếc bằng người không muốn nghe".
Còn tại sao lại giả điếc thì lại là một vấn đề khác !
4/ Theo Sử ký của Tư Mã Thiên: Khoảng năm 206 trước Công nguyên, Hạng Vũ
(người đất Sở, sau là Tây Sở Bá vương) và Lưu Bang (người đất Bái, sau là
Hán Cao tổ) khởi binh để diệt nhà Tần, hai phía tiến vào đất Quan Trung (nơi
có kinh đô Hàm Dương của nhà Tần, sau đó cũng có kinh đô Trường An nay là
Tây An). Lưu Bang vào trước, lấy được đất Quan Trung và kinh đô Hàm Dương
của nhà Tần, nhưng ít quân hơn Hạng Vũ, nên phải chịu lép vế tạm nhường cho
Hạng Vũ. Sau khi đã đem binh vào thành Hàm Dương, giết vua Tần Tam Thế (đã
đầu hàng), đốt cung A Phòng, thu của cải châu báu, gái đẹp, Hạng Vũ muốn đem
quân về phía đông. Có Hàn Sinh khuyên Hạng Vũ rằng: "Đất Quan Trung bốn
phía có núi sông che chở, đất đai phì nhiêu, có thể đóng đô ở đấy để xây
dựng nghiệp bá". Hạng Vũ không nghe. Hàn Sinh thất vọng, trở ra, nói lén:
«Người ta nói rằng người nước Sở giống như con khỉ đội mũ người; quả thực là
đúng». Hạng Vũ biết được, sai bắt Hàn Sinh bỏ vào vạc dầu mà nấu cho chết.
(Theo người xưa, lời khuyên của Hàn Sinh là hợp lý. Taị Hạng Vũ không nghe,
cho nên đó là một trong những nguyên nhân Hạng Vũ bị thua trong vụ Hán Sở
tranh hùng, rốt cục phải tự tử chết).
Có nguồn cho rằng Hàn Sinh ngụ ý nói con khỉ bắt chước hình thức, đội mũ
(mặc "lễ phục») như người, nhưng chỉ chốc lát thì bản chất của nó cũng sẽ
lộ ra, về tri thức khỉ vẫn chỉ là khỉ. Câu nói đó rất là nặng. Người Pháp có
câu "Bộ áo thày tu chẳng có thể biến người mặc thành tu sĩ được» cũng na ná
ý nghĩa như câu nói của Hàn Sinh, nhưng nhẹ nhàng hơn về cách phát biểu.(5).
Tôi hy vọng rằng trong xã hội ta, công luận cũng thấy rõ rằng bằng cấp dỏm,
danh hiệu tiếm xưng, ngồi nhầm ghế, phô trương kỷ lục, vv. thì dù có mặc "lễ phục» cũng không che đậy được.
5/ Trong cuốn Vũ Trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ (1768-1839), ông kể mấy câu
chuyện về thi cử, với sự nghi ngờ là người đỗ không xứng đáng. Tôi xin tóm
tắt vài đoạn ông kể (theo bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến, nxb Văn học, Hà Nội
1972):
Thời Lê mạt, người ta đồn là ông Nguyễn Hoãn, khi đi thi tiến sĩ, bài văn
sách là do bài của sáu văn sĩ làm giúp cho trước. Lời đồn kể rằng vì thuở ấy
bố ông Nguyễn Hoãn, là Phong quận công Hiệu đang làm Tham tụng (nghiã là Tể
tướng), quyền to, các quan khác đều sợ. Khi ấy có một ông quan bị khiển
trách, phải bãi chức. Một hôm, ông này được triệu vào tướng phủ, nhưng ngồi
đợi lâu ở nhà trong mà không được yết kiến. Ngồi mãi, không có gì làm, ông
ta chợt thấy trên kỷ có một đầu đề văn sách, mở ra xem, đọc đi đọc lại thuộc
hết cả. Suốt ngày được kẻ hầu người hạ khoản đãi rất tử tế, đến chiều ra về
mà vẫn không thấy quan Tham tụng hỏi đến, không hiểu ra sao. Đến khi phủ
chúa (chúa Trịnh) triệu tập các quan văn thần vào soạn đề thi, thì ông quan
ấy cũng được triệu vào, ông ta liền đề nghị cái đầu đề văn sách đọc được bữa
trước trong tướng phủ. Khoa ấy, ông Nguyễn Hoãn đỗ Hội nguyên.
Phạm Đình Hổ vốn là người đi thi nhiều lần không đỗ, có lẽ ông ta sợ người
ta cho là ganh tị, nên ông ta cũng phần nào dè dặt một chút trong lời phê
bình, vì thế nên khi kể chuyện trên, ông ta thận trọng viết thêm rằng chuyện
này cũng giống một chuyện tương tự xảy ra ở bên Tàu thuở trước, "ý chừng là
có kẻ hiếu sự bày đặt ra mà thôi". Nhưng có lẽ ông không nín được, nên lại
kể:
Vào khoảng năm Giáp Thìn (1784-85) đời Cảnh Hưng, ông ra học ở kinh thành.
Thuở ấy, cứ mỗi tháng thì có một buổi bình văn ở nhà Quốc học (nhà Giám) cho
học trò. Ông theo các bậc cha anh vào xem. Các buổi bình văn này rất long
trọng, có sự tham dự của nhiều quan to, xưa thi đỗ cao, hiện đang giữ những
chức vụ quan trọng như Thái phó quận công Nguyễn Hoãn, hành Tham tụng Bùi
Huy Bích (1744-1818, đậu hoàng giáp năm 1769), và nhiều vị tiến sĩ khác.
Khi bình các quyển văn, hay hay dở, được hay bỏ, thì chỉ thấy Bùi Huy Bích
quyết định, và các người khác bàn bạc cân nhắc, còn Nguyễn Hoãn thì nín lặng
chẳng nói câu nào, chỉ thỉnh thoảng cười hi hi. Hỏi thầm người quen, thì ai
cũng cười không nói, sau hỏi mãi mới có người bảo rằng: ông ta (chỉ Nguyễn
Hoãn) khi tuổi trẻ, vì là con quan tể tướng, khi đỗ hương nguyên và đỗ hội
nguyên, văn hai kỳ thi ấy đều không phải tự ông ta làm ra. (6)
Ngày xưa người ta cũng biết ngượng, nên gian lận thi cử cũng còn giấu giếm
làm lén. Ngày nay là thời kinh tế thị trường, đại trà ồ ạt, tôi ở xa không
biết tình hình số liệu thực sự như thế nào ?
6/ Trong cuốn Quốc văn giáo khoa thư lớp sở đẳng, có chuyện ông Châu Trí:
thuở trẻ ông học giỏi, nhưng nhà nghèo, phải đến ở nhờ chùa Long Tuyền;
không có tiền mua dầu thắp đèn, phải đi quét lá đa, tối đốt lửa mà học. Đến
khi đỗ giải nguyên, thiên hạ mừng tặng ông bài thơ :
Một anh trò kiết chùa Long Tuyền,
Ai ngờ nay lại đỗ giải nguyên.
Ở đời không có việc gì khó,
Người ta lập chí phải nên kiên.
Đó là chuyện ngày xưa, bên cạnh những chuyện lem nhem như chuyện ông Nguyễn
Hoãn vừa kể trên, xã hội rất trọng những người nhà nghèo, có ý chí vươn lên.
Còn ngày nay, thì sao ? Có những học sinh, sinh viên nghèo, sống trong cảnh
rất khó khăn, những vẫn cố gắng học hành nghiêm chỉnh, khi ra trường, vào
đời, có được sử dụng "ngang tầm" với con cháu các "đại gia" không ?
7/ Cuốn Cổ học tinh hoa của Nguyễn Văn Ngoc và Trần Lê Nhân
(7), dẫn Liệt
nữ truyện : Tương truyền Mạnh tử, thuở nhỏ mồ côi cha sớm, mẹ nuôi dạy rất
nghiêm túc. Nhà ở gần nghĩa địa, thấy người ta đào chôn lăn khóc, về nhà
cũng bắt chước đào chôn lăn khóc ; bà mẹ thấy thế, nói : "Chỗ này không
phải chỗ con ta ở được" ; rồi dọn nhà ra gần chợ. Mạnh tử ở gần chợ, thấy
người ta buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước đùa buôn bán điên đảo ; bà
mẹ lại nói : "Chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở được" ; bèn dọn nhà đến
ở gần trường học. Mạnh tử ở gần trường, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép,
đọc sách, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép, đọc sách; bấy giờ bà mẹ mới
vui lòng nói : "Chỗ này là chỗ con ta ở được đây". Sau Mạnh tử trở thành
nhà hiền triết lớn. Đấy là chuyện Tàu. Còn người xưa nước ta thì có câu :
"Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng", cũng để nói ảnh hưởng rất lớn của môi
trường xã hội đối với giáo dục đạo đức con người.
Ngày nay, ngoài xã hội có nhiều chuyện đảo điên, mà trong trường học cũng có
chuyện đảo điên. Vậy thì "nói không" với những gì, và áp dụng "nói
không" với biện pháp nào, để cho có hiệu quả ?
8/ Trong cuốn Lều chõng, tác giả Ngô Tất Tố có viết trong chương 5, câu
chuyện sau đây (tôi tóm tắt) (8): Cụ Nguyễn Công Hoàn là bậc danh sĩ đời Lê,
văn hay, học rất uẩn súc, nhưng thi mãi không đỗ. Ông Nguyễn Công Lân là
con, sức học tuy còn kém cụ rất xa, nhưng mà văn chương hoạt bát, ngoài hai
mươi tuổi đã đỗ hương cống, rồi lại đỗ luôn tiến sĩ. Có một khoa, ông Lân đã
làm chủ khảo, cụ Hoàn vẫn còn cắp quyển đi thi, và cũng lại hỏng như trước.
Thế rồi đến khi việc trường đã xong, ông Lân về nhà thăm cha. Đầu tiên, cụ
oànHoanHoanfh hỏi ngay: "Khoa này có được quyển nào khá không?". Ông con
ngay thật thưa rằng: "Có một quyển khá, chỉ vì phải hai câu thất niêm,
không thể lấy đỗ". Cụ Nguyễn liền gặng. "Hai câu ấy thế nào? Có nhớ không?". Ông con thưa rằng có nhớ và đọc như vầy: «Lưu hành chi hóa tự tây đông,
nam bắc vô tư bất phụ.
Tạo tựu chi công tự Cảo Mân, Kỳ Phong dĩ mạc bất hưng". Rồi thì ông ấy lại
tiếc ngậm ngùi mà rằng: "Nếu như câu dưới, họ đảo hai chữ "Cảo Mân" ra
làm "Mân Cảo", cho đúng niêm luật, thì hai câu ấy hay biết chừng nào". Cụ
Nguyễn không đợi cho con hết lời, vác gậy phang luôn chừng vài chục gậy. Và
cụ nghiến răng nghiến lợi, chửi mắng tàn nhẫn. Cụ bảo ông con dốt nát như
thế mà đi chấm trường, chôn sống biết bao nhiêu người... Thì ra hai câu ấy
chính của cụ, ý cụ đặt như thế này: "Lưu hành chi hóa tự Tây, Đông Nam Bắc
vô tư bất phục,
Tạo tựu chi công tự Cảo, Mân Kỳ Phong dĩ mạc bất hưng". Chữ Nho vốn không
có dấu phẩy ;
trong hai câu đó, câu trên tất phải ngắt đến chứ "Tây", câu dưới tất phải
ngắt đến chữ "Cảo". Chứ nếu chấm như kiểu ông Lân, một đằng ngắt đến chứ "Đông", một đằng ngắt đến chữ
"Mân" thì không có nghĩa gì cả. Bởi vì nhà
Chu khởi ở phương Tây, đóng kẻ chợ ở đất Cảo, người ta chỉ có thể nói: "Cái
thói trôi đi nổi tự phương Tây, các phương Đông Nam Bắc đâu đâu cũng phục.
Cái công đắp dựng gây từ xứ Cảo, các xứ Mân Kỳ Phong đều cũng dấy theo".
Chứ ai lại nói: "Cái thói trôi đi nổi tự phương Tây phương Đông... cái công
đắp dựng gây từ xứ Cảo, xứ Mân?". Nhưng vì bốn chữ Tây Đông Nam Bắc và bốn
chữ Cảo Mân Kỳ Phong đặt liền với nhau, nếu câu trên ngắt đến chữ Đông, thì
câu dưới cũng lại ngắt đến chữ Mân, như thế, chẳng những thất niêm mà còn vô
nghĩa nữa!
Ngày nay, phải chăng cũng có những người, tuy đã được học hành tương đối
nghiêm túc, nhưng đọc văn bản, tài liệu của người khác, của nơi khác, của
nước khác, rồi dễ dàng ngỡ là mình hiểu mà kỳ thật ra không hiểu ; và từ đó
có thể có những quyết định mang lại tai hại khôn lường ?
9/ Có câu chuyện cổ tích : Người hầu già của một ông vua già xin vua trao
vàng cho mình để cất công dạy cho một con khỉ lớn tập nói và cả quyết rằng
sẽ dạy được khỉ biết nói. Vua hỏi bao lâu thì khỉ nói được, người hầu nói
phải mươi năm. Vua trao vàng cho y, để đài thọ y dạy khỉ. Câu chuyện không
kết luận, nhưng người nghe chuyện, tất nhiên hiểu khỉ sẽ không bao giờ biết
nói, và người khờ không phải là người hầu, y hẳn ước đoán rằng mươi năm thì
khỉ và người đều đã chết. Lẽ ra nhà vua phải biết mục tiêu có khả thi hay
không. (9)
Kết luận có thể rút ra là những tác giả các đề án hoành tráng ngày nay, định
mốc "đến năm 2020, đến năm hai nghìn bao nhiêu đó thì sẽ có thế này thế
nọ", và những vị hạ bút ký chấp nhận và cho giải ngân, liệu đến thời gian
đó còn ngồi đó để nhận trách nhiệm của mình không, hay các vị cùng thân
nhân sẽ đang phơi phới ngao du nơi Bồng Lai tiên đảo nào đó, kệ cho nhóm hậu
sinh "sống chết mặc bay" ?
10/ Hiện nay, trong Giáo dục Đào tạo có nhiều bất cập, một số giải pháp đưa
ra lại cũng bất cập –có người nghiêm khắc gọi là giải pháp "ngớ ngẩn», (từ
này không phải của tôi) – càng gây ra sự hoang mang. Vậy mà trong giới quan
chức hay trong quần chúng, vẫn có người chấp nhận, bảo vệ. Chấp nhận vì ngây
thơ không biết, hay là biết nhưng giả bộ ngây thơ ?
(10)
Để minh họa rõ ý, tôi xin kể câu chuyện kèm đây – với lời xin lỗi trước độc
giả vì nội dung tiếu lâm của nó – (chuyện này, có lẽ được sáng chế vào đầu
thế kỉ 20, vì có "niên hiệu", tôi nghe thấy mấy bác lớn tuổi ở quê kể hồi
tôi còn nhỏ). Đó là câu chuyện "Tí anh, tí em":
Có anh thợ cày có tính dê, anh thèm cô em vợ đang tuổi mởn mơn. Gặp dịp vợ
anh mới đẻ, ở nhà cho con bú, anh lại cày ở ruộng xa, vợ phải nhờ cô em mang
cơm ra cho chồng. Anh nghĩ ra một kế : anh cắt bông lau, cắm một dãy ở bờ
ruộng. Cô em vợ mang cơm ra, thấy lạ hỏi anh đó là cái gì. Anh trả lời :
"Đây là Cờ vua Thành Thái, cấm đái [cấm ỉa] ; khổ anh mót quá, chạy về nhà
thì mất buổi cày ; vậy anh muốn nhờ em hộ được không ?". Cô cũng tiếc buổi
cày, nên cô chịu cho anh nhờ ; cô hỏi anh nhờ như thế nào. Anh bảo :
"Anh
đái vào trong em, rồi em về nhà đái hộ anh". Cô nằm xuống, anh vốn đã lên
gân, bèn tra vòi vào, [trên nguyên tắc] để "chuyển giao" nước tè. Hồi lâu,
cô hỏi xong chưa, anh bảo : "Xong rồi". Cô ngồi dậy, vuốt lại váy áo –
thời đó ở nông thôn đồng bằng miền Bắc, phụ nữ còn mặc váy, còn gọi là cái
quần không đũng – ra về. Tới nhà, cô ra vườn, ngồi xổm, vừa tè vừa nói :
"Tí anh, tí em ; tí anh, tí em, …". Chị đang nằm võng ru con, hỏi em nói
gì. Cô em bảo : "Anh nhờ em tè hộ, nên phần nào của anh thì em bảo tí anh,
phần nào của em thì em bảo tí em". Câu chuyện không có kết luận : không
biết cô em vợ ngây thơ thật, hay là "tình trong tuy đã, mặt ngoài còn e",
giả ngây thơ cả tin. (11)
Chú thích :
(1) Xem chi tiết trong bài "Trồng người" của tôi, Hồn Việt số tháng 1/2008,
và toàn văn
bài Trồng người
(2) Xem chi tiết trong chương 2 của cuốn sách của tôi Chung quanh việc Học,
nxb Thanh niên, Hà Nội 2004, cũng có trên trang mạng của tôi
http://www.buitronglieu.net.
(3) Có kể trong chương 5 của cuốn sách của tôi Chung quanh việc Học, nxb
Thanh niên, Hà Nội 2004, cũng có trên trang mạng của tôi
http://www.buitronglieu.net.
(4) "Sáng tai họ, điếc tai cày" : người cày, khi bảo trâu đứng lại thì hô
"họ", khi bắt trâu cày thì hô "cày".
Hai câu chữ Nho : "Tọa trung đàm tiếu, nhân như mộc. Dạ lý phan viên, nhĩ
tự hầu", nghĩa là "Khi ngồi với những người nói chuyện và cười cợt, thì
ngây ra như gỗ ; còn đêm khuya leo trèo thì nhanh nhẹ như con khỉ". (Theo
cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến, nxb Văn học, Hà Nội 1971).
(5) Xem chi tiết trong
bài
Tiếc cho Hàn Sinh bị nấu cũng có
trên trang mạng của tôi http://www.buitronglieu.net.
(6) Đoạn này tôi có kể trong chương 1 của cuốn Tự sự của người xa quê hương,
nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2004, cũng có trên trang mạng của tôi
http://www.buitronglieu.net.
(7) Cổ học tinh hoa xuất bản lần đầu năm 1925 ; tái bản nhiều lần, đặc biệt
có tái bản năm 1962 dưới dạng 2 tập, nxb Thọ Xuân, Sài Gòn. Chuyện "Mẹ hiền
dạy con" ở tập 1, trang 146. Mạnh tử 孟子 (khoảng 372-289 trước Công nguyên)
là nhà hiền triết Trung quốc. Những câu "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh", "Quân tử tam lạc", vv. trong sách Mạnh tử được lưu truyền rộng
rãi.
(8) Có thể đọc Lều chõng, ở trang mạng này :
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nnntnqnvn31n343tq83a3q3m3237nvn
(9) Cũng có thể đọc trong bài của tôi «Khoa học và giáo dục :
Về
một bài phỏng vấn không đăng toàn bộ»
(10) Có độc giả phản ứng rằng tôi chỉ ví von, nêu bức xúc, mà không nêu giải
pháp. Thưa rằng tôi có đề nghị giải pháp mãi rồi đó. Không những về mặt cá
nhân từ 1975 đến nay (tôi có kể lại trong các cuốn sách của tôi, có trong
trang mạng của tôi http://www.buitronglieu.net), mà tôi còn tham gia góp
phần kiến nghị tập thể nữa (như bản Kiến nghị của 24 người trong và ngoài
nước, do nhóm GS Hoàng Tụy gửi tới Trung Ương cuối năm 2004).
(11) Đọc bản "Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009-2020" mới được
công bố, không làm tôi thay đổi ý kiến. Tôi nghĩ rằng đó là một danh sách
những mong muốn đạt tới, nhưng các đề án có khả thi hay không, thì chưa có
sức thuyết phục.
Cũng xin nói thêm là nghe nói có đề án xóa bỏ biên chế hàng vạn nhà giáo
(thí dụ theo bản tin http://vietnamnet.vn/giaoduc/2008/12/818768/). Lý do
nêu lên không thuyết phục. Trước đó mấy ngày tôi có đăng bài "Cần một sự an
tâm cho các nhà giáo» (xem
http://vietnamnet.vn/service/show_forum.vnn?forumid=151843&page=2
hay http://vietsciences.free.fr/). Bài nay ngắn, tôi xin chép lại nguyên văn
ở đây :
Ngày 20/11 vừa qua là "ngày nhà giáo» – một truyền thống ít thấy riêng lẻ ở
nước khác– cũng là một đặc điểm của Việt Nam. Tôi chỉ biết là từ năm 1993,
UNESCO chọn ngày 5/10 mỗi năm làm "ngày Quốc tế các nhà giáo". Mục đích
của họ, không phải là dùng một ngày để khen thưởng, vinh danh, tặng danh
hiệu, vv. để vuốt ve, hô khẩu hiệu, thay cho sự cần thiết cố gắng liên tục
cả năm. Mục đích của họ là để quảng bá vai trò quan trọng của nhà giáo
trong mọi xã hội, để nói đến sự cần thiết có các nhà giáo có trình độ nghiêm
túc, có đạo đức nghề nghiệp, có phương tiện để hành nghề, cũng như để nhấn
mạnh đến quyền (bình đẳng) được học hỏi của mỗi người.
Trong theo bài báo gần đây, http://vietnamnet.vn/chinhtri/2008/11/813261/,
một đại biểu Quốc hội "trăn trở trước thực trạng giáo dục bậc mầm non chưa
được Bộ quan tâm, trong khi lại dành quá nhiều sự quan tâm đối với các hệ
giáo dục khác, mở tràn lan các trường ĐH, CĐ, nhất là đào tạo tại chức, đào
tạo từ xa, từ đó, sinh viên ra trường khó xin việc do mất cân đối cung
cầu", và đặt câu hỏi rằng "như vậy có phải là lo phần ngọn mà quên phần
gốc, lo đào tạo tiến sỹ mà quên mất khu vực giáo dục hình thành nên nhân
cách của học sinh?". Sự trăn trở của ông đại biểu Quốc hội hẳn cũng là sự
trăn trở của đông người, mà câu trả lời của Bộ xem ra chưa được coi là thỏa
đáng. Riêng tôi thì nghĩ rằng "ngọn và gốc" đây, cũng như "con gà và quả
trứng", khó tách rời. Có gà thì mới đẻ được ra trứng, có trứng thì mới nở
được ra gà. Tha hồ luận tối ngày sáng đêm. Nhưng vấn đề là đừng để "toi gà,
thối trứng", một nguy cơ đang xảy ra khi giải quyết kiểu đại trà ồ ạt,
trong khi phương tiện nhân sự chưa cho phép. Mà lòng người không yên, thì
giải pháp hành chính nào đi nữa cũng khó mang lại kết quả mong muốn.
Vì thế nên tôi nghĩ rằng cần một sự an tâm cho nhà giáo. Trước hết, là vấn
đề bảo đảm sao cho nhà giáo đủ sống, tránh cho họ sự "túng làm liều", nhất
là khi một khuynh hướng đang mạnh thế ở trong nước cho rằng trong thời kỳ
kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, có thể thương mại hóa giáo dục, vv. Điều
này phần nào cắt nghĩa tại sao một số nhà giáo ngỡ mình là doanh nhân (điều
mà tôi không thấy ở nước khác), trong khi một số khác chọn nghề nhà giáo vì
yêu nghề mà lại không được một sự bảo đảm an ninh tối thiểu.
Vì thế cho nên trách nhiệm của người cầm trịch rất là quan trọng. Qui định
bất nhất ; trách nhiệm không rõ rệt (đâu là trách nhiệm của Bộ, đâu là trách
nhiệm của địa phương, chính quyền tập trung hay 64 tỉnh thành là lục thập tứ
sứ quân, vv.) ; tư hóa quá nhiều trường ; mang quan niệm thu bù chi vào các
trường công dưới mỹ từ xã hội hóa ; quá tin vào "thần dược" của vài ông
"lang" nước ngoài với những trường quốc tế Việt-X, Việt-Y, vv, bằng tiền
của mình để hy vọng chấn hưng nhanh chóng như kiểu mua mì ăn liền ; mơ tưởng
tới năm này năm nọ có bao nhiêu trường lọt vào top 200, thậm chí còn hy vọng
cộng tác với người nước ngoài để tới năm này năm nọ sẽ có được giải Nobel
khoa học – (nếu họ có phép nhiệm màu, sao họ không áp dụng cho chính nước
họ?) – lẫn ganh đua với thi đua; dùng giải pháp "gây sức ép" tưởng rằng để
có hiệu quả, (như tôi có viết một phần trong bài báo
http://vietnamnet.vn/giaoduc/2008/11/815621/ ), e rằng chỉ gây thêm hỗn
loạn. Khi lòng người không yên, thì họ tự lo cho họ bằng cách vơ vét tích
lũy, cho họ rồi cho con cho cháu họ, làm sao mà chấn hưng có hiệu quả ! Năng
nổ tham quan, thanh tra nơi này, úy lạo nơi nọ, hô hào nói không với tiêu
cực này kia, có thể là cần thiết ; nhưng đó không phải tự nó là một chiến
lược.
Giáo dục Đào tạo đang cần một chiến lược phù hợp mang lại sự an tâm cho xã
hội, và cho các nhà giáo.
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Bùi Trọng Liễu
|