Gần đây, đã có nhiều tranh cãi trong giới
khoa học về vấn đề học hàm, học vị... Khoa học Đất Việt Online
xin giới thiệu bài viết của TS Nguyễn Văn Thuận, chủ tịch Hiệp
Hội Công Nghệ Sinh Học Sinh Sản Châu Á về những chuyện khác
biệt trong vấn đề này ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam. Hàn Quốc, Nhật Bản: Có bằng
tiến sĩ chưa chắc được xem là tiến sĩ!
Không phải cứ có bằng tiến sĩ (TS) thì sẽ được coi là TS suốt
đời... Thông thường, ở Nhật Bản và Hàn Quốc, một ứng viên của
học vị TS phải trải qua chương trình một chương trình kéo dài
3 năm. Trước đó, ứng viên này phải có 2 năm để hoàn thành luận
văn thạc sĩ trong cùng một chuyên ngành.
Có công bố quốc tế mới là tiến sĩ!
Nếu các nghiên cứu sinh TS (NCS TS) trong
thời gian học có 5 công trình nghiên cứu được công bố trên các
tạp chí quốc tế thì họ có quyền xin tham gia bảo vệ luận án TS
chỉ trong 2 năm. Trường hợp này rất ít, chỉ có những NCS TS
được làm luận án TS trong những viện nghiên cứu danh tiếng và
trong những nhóm nghiên cứu khoa học danh tiếng mới được “đặc
ân” này. Nếu có được 2-3 công trình nghiên cứu công bố trên
các tạp chí quốc tế thì họ có thể bảo vệ thành công luận án TS
trong 3 năm.
Gần đây, việc công bố các bài báo trên tạp chí quốc tế trở nên
khó khăn hơn nên có khuynh hướng giảm số bài báo công bố quốc
tế xuống đến mức tối thiểu, tức là chỉ cần có một bài báo được
công bố trên tạp chí quốc tế và một công trình nghiên cứu đang
chờ công bố. Một đề tài đăng ký TS chỉ có giá trị trong 6 năm,
nếu không tốt nghiệp được thì phải xóa bỏ và làm mới. Cũng có
những nghiên cứu sinh sau 5-6 năm mà không có công trình mới
được công bố quốc tế thì vẫn được giáo sư hướng dẩn cho tốt
nghiệp một cách bất đắc dĩ với 0 (không) công trình nghiên
cứu. Đừng thấy vậy mà... mừng bởi vì TS tốt nghiệp loại “ngọai
hạng” này về sau sẽ rất khó xin việc liên quan đến nghiên cứu.
Còn các trường đại học cũng không bao giờ nhận loại TS này để
làm nghiên cứu sau TS (Postdoctoral). Hầu hết, họ phải chấp
nhận số phận làm những việc bình thường trong các công ty
không liên quan đến nghiên cứu khoa học, và cũng chẳng có ai
gọi họ là TS cho dù họ có mảnh bằng TS. Như vậy, bằng TS hoàn
toàn không có giá trị khi nghiên cứu sinh tốt nghiệp TS với 0
bài báo quốc tế với tên tác giả đứng đầu tiên (First author).
Điều này cũng đồng nghĩa với việc xã hội xem một người là TS
khi người đó có các công trình công bố quốc tế với tên tác giả
đầu tiên, chứ không phải là những người được cấp bằng TS.
Sau khi tốt nghiệp TS, nếu ứng viên nào có
từ 2-4 bài báo quốc tế đều có mong muốn tiếp tục làm nghiên
cứu sau tiến sĩ (Postdoctoral) và sẽ được GS của họ hoặc các
cơ sở nghiên cứu khác mời nghiên cứu sau TS. Một thí dụ rất rõ
mà các NCS TS của Việt Nam khi du học tại Nhật Bản (và các
nước khác trên thế giới) sau khi tốt nghiệp TS và có công
trình công bố trên các tạp chí quốc tế, họ đều được GS hướng
dẫn xin học bổng để làm NCS sau TS (ở Nhật thì hầu hết nhận
được học bổng JSPS, của bộ Giáo Dục và Đào Tạo Nhật Bản). Còn
các NCS TS tốt nghiệp TS nhưng không có bài báo quốc tế thì
cho dù GS hướng dẫn ưu ái mấy cũng sẽ không bao giờ nhận được
học bỗng NCS sau TS.
GS: phải có ít nhất 50 bài báo quốc tế
Trên đây nói về học vị tiến sĩ... Còn về chuyện khoa
bảng, trên thế giới nói chung có 2 hệ thống khoa bảng cho học
hàm của hệ thống giáo dục.
Với các nước theo hệ thống khoa bảng của Pháp (Nhật Bản theo
hệ thống này) thì trong một phòng thí nghiệm có cả giảng viên
(lecture), GS dự khuyết (Assitant Professor), Phó GS
(Associate Professor) và GS (full-professor). Chỉ khi nào vị
GS này về hưu thì PGS mới được phong GS. Có câu chuyện vui
rằng, tin vui lớn nhất của một PGS là khi buổi sáng đọc báo
thấy có đăng tin cáo phó cho biết vị GS trong chỗ làm đã...
qua đời
 |
TS Nguyễn Văn Thuận, tốt nghiệp Ph.D tại Đại học Kobe
vào năm 2002. Năm 2002-2007, ông làm nghiên cứu sinh sau
tiến sĩ tại Viện Công Nghệ Sinh học thuộc Viện RIKEN,
Nhật Bản. Từ tháng 3/ 2007 đến nay, TS Nguyễn Văn Thuận
giảng dạy tại Khoa Công nghệ sinh học động vật tại Đại
học Kiến Quốc (Konkuk), Seoul, Hàn Quốc. TS Nguyễn Văn
Thuận hiện là Chủ tịch Hiệp hội Công nghệ sinh học sinh
sản châu Á |
|
Hệ thống khoa bảng này có nhược điểm là không kích thích sự
vươn lên và cạnh tranh của các PGS trong khoa học. Nó khiến
nảy sinh quan điểm “sống lâu lên lão làng”, đồng thời tạo ra
sự lười biếng học hỏi và ỷ lại của vị GS đứng đầu đối với
những ngưòi phụ tá. Thật vậy, nếu các PGS và GS chỉ hơn nhau
dưới 10 tuổi thì khi vị GS về hưu (63-65), các PGS mới được
tấn phong lên GS để thay thế. Lúc đó, các vị tân GS này cũng
đã gần đến tuổi hưu rồi! Hiện Nhật Bản cũng đang đổi mới để
phá phá bỏ cơ chế như thế.
Với các nước theo hệ thống của Mỹ (trong đó có Hàn Quốc) thì
GS dự khuyết, PGS và GS không phụ thuộc vào nhau và nghiên cứu
độc lập. Tuy nhiên khi mới nhận vào sẽ có thử thách thông qua
các bước sau. Học hàm được phong đầu tiên là Assistant
Professor (tạm dịch là GS dự khuyết) và được thử thách trong 4
năm. Trong 4 năm đó, nếu hội đủ các điều kiện: Giảng dạy tốt
(được sinh viên đánh giá từ khá trở lên); nghiên cứu tốt với
vài công trình công bố quốc tế được đứng tên tác giả đầu tiên
(first author) hoặc tác giả chịu trách nhiệm về khoa học của
công trình công bố (Corresponding author); kêu gọi được các dự
án khoa học và hoạt động xây dựng trường, khoa tốt thì vị đó
sẽ được xét lên Associate Professor (tạm dịch PGS). Giai đoạn
thử thách của PGS khoảng 4-6 năm tùy theo mỗi trường đại học.
Trong thời gian đó, nếu vị PGS cũng đạt những thành tích giảng
dạy từ khá trở lên và có nhiều công trình công bố quốc tế thì
sẽ được xét lên Professor. Tuy nhiên, 2 năm đầu của học hàm
Professor cũng phải chịu thử thách với những thành tích khá
giỏi trong giảng dạy và nghiên cứu thì mới được tấn phong
thành full Professor. Như vậy để trở thành một GS thực thụ thì
các nhà khoa học phải phấn đấu liên tục trong khoa học khoảng
15-16 năm sau khi đã tốt nghiệp TS (5 năm nghiên cứu sau TS, 4
năm Assistant Professor, 5 năm Associate Professor và 2 năm
thử thách Professor.
Cùng với đó là số công trình nghiên cứu khoa học được công bố
trên các tạp chí quốc tế chuyên ngành phải đạt trên 50 với
khoảng trên 20 bài đứng tên tác giả đầu tiên, trên 30 bài đứng
tên với dạng cộng tác viên (Co-author) hoặc chịu trách nhiệm
khoa học chính trong bài báo (Correspondence author). Qua đó,
chúng ta thấy khi dấn thân vào nghiệp khoa học và giáo dục, và
để được phong GS từ một GS dự khuyết, nhà khoa học đó phải
phấn đấu suốt đời và liên tục cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo
và nghiên cứu khoa học để không bị loại thải.