Với loạt bài “Công nghệ sản xuất tiến sĩ” , VNT đã nhận
được nhiều ý kiến của bạn đọc, bạn viết khắp trong và ngoài nước, chia sẻ
với ông Nguyễn Ngọc Ân- người tự cho mình là “nạn nhân” của những trò mua
bán bằng cấp “dỏm” , đồng thời cũng đặt ra vấn đề quản lý bằng cấp và sử
dụng nhân tài trong bộ máy công quyền nước ta hiện nay. VNT đã có cuộc trò
chuyện với Giáo sư-Tiến sĩ khoa học Nguyễn Xuân Hãn xung quanh vấn đề này.
PV: Thưa ông,
là một Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, ông bình luận gì về tấm bằng Tiến sĩ trị
giá 17 ngàn đô của ông Nguyễn Ngọc Ân- Giám đốc Sở Văn hoá- thể thao – Du
lịch tỉnh Phú Thọ?
Giáo sư- Tiến sĩ khoa học Nguyễn Xuân Hãn (NXH):
Thời gian để đào tạo một TS trên thế giới trung bình phải mất khoảng 3-5
năm sau đại học chính quy, lao động vất vả không kể ngày đêm, còn kinh phí
trung bình ở phương Tây hiện nay đòi hỏi đầu tư khoảng 100.000 USD. Ông
Nguyễn Ngoc Ân qua công luận được biết ông vừa công tác vừa làm luận án
TS với số tiền là 17 ngàn USD. Theo Điều 14
Luật Giáo dục năm 2005 ông Nguyễn Ngọc Ân
phải nộp báo cáo việc làm TS và hồ sơ liên quan cho Bộ GD-ĐT để xem xét
và công nhận. Nếu là TS của ông Ân là thật, đề nghị ông sớm được trọng
dụng, còn nếu bằng TS giả phải thu hồi và chịu kỷ luật theo pháp
luật.
PV: Ở Việt Nam
mình có một nghịch lý, song lại rất phổ biến, đó là việc “bổ nhiệm chức
vụ rồi hợp thức hoá sau”. Nghĩa là một người nào đó được tổ chức “ cơ cấu”
vào một chức vụ dù anh ta chưa có bằng cấp thích hợp, sau đó cơ quan sẽ
tạo điều kiện để anh ta đi lấy “ bằng cấp hợp thức hoá” cho vị trí của
mình… Qui trình ngược này phải chăng là kẽ hở để cho ra đời nhiều Tiến sĩ
giấy, nhiều nhà khoa học hữu danh vô thực?
NXH. Nghịch lý này có
nhiều nguyên nhân, và sinh ra nhiều hệ lụy
Nguyên tắc lựa chọn và bổ nhiệm cán bộ của ta
là “quy hoạch lại, rồi phân công”. TS Hà Nghiệp, từng đúc kết như vậy.
Việc “quy hoạch” chúng ta có thể tạm hiểu là người cùng ekip, nó có hiệu
quả trong thời chiến, song vào giai đoạn xây dựng, nguyên tắc này vẫn được
duy trì nên sinh ra sự bất cập và tiêu cực: việc làm vừa ý bên trên để vào
diện quy hoạch được xem trọng hơn, việc thực thi nhiệm vụ được giao phó do
thực tế cuộc sống đặt ra, hay yêu cầu và nguyện vọng của người dân. Xin
dẫn một ví dụ, đầu tư của Nhà nước và dân cho giáo dục đào tạo ngày càng
tăng nhưng chất lượng giáo dục ngày càng giảm sút, càng đổi mới giáo dục
càng rối và lệ thuộc vào bên ngoài ( sao chép chương trình giáo dục của
Thái Lan trước đây và nhập khẩu chương trình, mô hình đại học của nước
ngoài hiện nay là các ví dụ ai cũng biết ) và các ý kiến của người dân bị
bỏ qua. ”Theo tính toán chuyên gia của Bộ GD-ĐT, cách đây 20
năm-trung bình có 300 bài viết/tháng (không kể tin về giáo dục trên phương
tiện thông tin đại chúng), thì ngày nay có 1000 bài / tháng, mổ xẻ đến nơi
đến chốn” về những bất cập trong quản lý điều hành GD-ĐT , nhưng người có
trách nhiệm vẫn không thấy rõ vấn đề? (Vietnamnet ngày 8/02/2010).
Hơn 20 năm qua hàng chục vạn bài báo về giáo dục bị rơi vào quên lãng,
trong khi ở mọi nơi và mọi lúc ta luôn nghe câu nói “giáo dục của ta là
nền giáo dục của dân, do dân và vì dân”. Chúng ta mải mê đặt ra nhiều tiêu
chuẩn “quy hoạch” cán bộ tin dùng mà xem nhẹ yêu cầu thực tiễn và người
tài năng nếu không được vào diện quy hoạch. Nhìn ra thế giới, câu nói “mèo
trắng mèo đen không quan trọng miễn là bắt được chuột” trong lựa chọn cán
bộ được coi là triết lý đổi mới, và mang lại hiệu quả thật.
Việc chuẩn hóa cán bộ chủ chốt của Hà Nội phải
có bằng TS là một ví dụ điển hình khác về sự nhầm lẫn trong nhận thưc về
công tác đào tạo. Người có bằng TS ở nhiều nước được người ta gọi và tôn
vinh là bác học, nghề nghiệp chính là công việc sáng tạo- làm ra tri thức
mới, nó khác xa với những người làm quan, hay nói đúng hơn là các nhà quản
lý các cấp. Hiện nay trên thế giới, tôi xin khẳng định không có nước nào
có mục tiêu đào tạo tiến sỹ để làm quan! Ở nước ta theo nghiên cứu 70 %
số người có bằng TS chuyển sang làm quản lý, do thiếu thời gian và làm
nghiên cứu vất vả, nên sau đó là bỏ khoa học. Trong văn hóa Á Đông về hiện
tượng này nhà Văn Lỗ Tấn đã ví tấm bằng như “hòn gạch gõ vào chốn quan
trường, gõ xong, cửa mở rồi bằng vứt đi”.
Sau chiến tranh, rồi tiếp đến bao cấp, cả xa
hội bị hành chính hóa, quan liêu nở rộ. Về lương chỉ có các bậc lương hành
chính chứ chưa có các bậc lương cho những người làm chuyên môn. Một người
có bằng đại học, trở thành chuyên viên cao cấp được xếp vào thang bậc
lương GS. Lương bình quân của lãnh đạo Tổng công ty kinh doanh vốn Nhà
nước ( SCIC) khoảng 80 triệu đồng / tháng (4500 USD/tháng ), bằng lương
cả năm của một GS ở các trường đại học. Ngược lại,
bên Trung Quốc lương
của quan chức Nhà nước cao nhất
Trung Quốc
khoảng 500 USD/tháng, nhưng lương cho GS lại từ
(1000 -2000) USD/tháng trở lên. Sự so sánh như vậy có thể là khâp khiễng,
nhưng trên danh nghĩa về góc độ nào đó trí thức ở Trung Quốc đang được
đánh giá cao hơn trí thức ở nước ta.
PV: Thưa ông,
để ngăn chặn những loại bằng cấp đó, xã hội có phương thức nào giúp kiểm
chứng bằng cấp là thật hay “đểu” không? Vì trong trường hợp của ông Ân,
một quan chức cấp tỉnh uỷ tỉnh Phú Thọ đã khẳng định: Ông Ân trình bằng
là bằng thật?
NXH. Theo tiêu chuẩn
quốc tế một Luận án TS đạt chuẩn, phải có ít nhất là hai công trình đăng
ở tạp chí chuyên ngành được quốc tế thừa nhận. Hiện nay tiêu chuẩn này đã
được thiết lập cho khoảng 55 ngành khoa học khác nhau, bao gồm các ngành
tự nhiên, xã hội kể cả lĩnh vực tôn giáo.
Một luận án mà không có công trình được đăng,
thì văn bằng TS không đạt chuẩn. Bên cạnh những TS thật mà các nước bạn bè
XHCN đào tạo giúp ta, có tồn tại một số TS “hữu nghị”, có bằng TS thật,
nhưng luận án TS không có bài báo được công bố, hay các bài ở các Tạp chí
không đạt chuẩn mực học thuật quốc tế. Nói một cách hình ảnh, một nhà văn
mà không có tác phẩm được công nhận, thì không được gọi là nhà văn, hay
nhà văn “rởm” .
Việc xác nhận lại văn bằng TS thật giả của ông Nguyễn
Ngọc Ân và các bằng của người khác sẽ diễn ra nhanh chóng. Ông Ân phải báo
các việc làm TS và nộp cho Bộ GD&ĐT bằng cấp, danh sách công trình nghiên
cứu, các giấy tờ liên quan đến quá trình đào tạo. Việc này không quá khó
khăn. Nếu cần có thể lập một hội đồng các nhà khoa học để kiểm chứng, tuy
nhiên theo tôi cũng không cần thiết. Nếu bằng TS của ông Ân là bằng thật,
thì ông phải được trọng dụng, còn nếu bằng TS của ông là bằng giả thì
chúng ta thu hồi và đề nghị Nhà nước nên chấm dứt việc đào tạo như thế
này.
PV : Trở lại với
nghịch lý “ Hợp thức hoá bằng cấp” trong bổ nhiệm chức vụ, Bộ GD&ĐT đặt ra
chỉ tiêu đến năm 2020 sẽ đào tạo xong 20000 tiến sĩ với khoản kinh phí
chừng 14.000 tỷ đồng. Điều này đã không nhận được sự đồng thuận từ phía
xã hội. Lý do có thể được hiểu là người dân thực sự lo ngại khi “ Tiền
công quỹ bị coi như rác” khi bỏ ra đào tạo một Tiến sĩ cỡ như ông Ân…Còn
ông, ông nghĩ sao, thưa ông?
NXH: Đề nghị hoãn đề
án đào tạo 20 000 TS vì nó chưa hội tụ đủ cơ sở pháp lý và thực tiễn.
Đề án đào tạo 20000 TS là việc cụ thể hóa Nghị quyết số
14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về “Đổi mới cơ bản giáo dục
đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020” . Theo Điều 87 của Luật GD năm
1998, hay Điều 100 của Luật GD năm 2005, thì vấn đề đổi mới giáo dục
đại học phải có ý kiến của Quốc hội phê chuẩn, song trên thực tế việc
này chưa diễn ra. Không những thế nội dung trong Đề án đổi mới giáo
dục đại học, xin lưu ý, còn không ít điều đi ngược
lại tinh thần của Điều 36 của Hiến pháp năm 2002... Việc mở ồ ạt các
trường ĐH &CĐ ( dự kiến đến 2020 sẽ có 900 trường ĐH &CĐ với kinh phí 20
tỷ USD ra đời vào năm 2005, nay còn 600 trường ĐH &CĐ, thực tế nay đã có
khoảng 450 trường ĐH &CĐ) có nguồn gốc từ Nghị quyết này, mà Quốc hội kỳ
họp vừa qua đặt vấn đề phải chấn chỉnh, chẳng lẽ không phải là bài học cho
chúng ta rút kinh nghiệm? .
Thực tế, trong 65 năm qua, kể từ khi nước nhà giành
được độc lập, cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các nước bè bạn và nỗ lực
của các cơ sở đào tạo trong nước đến nay ta mới có khoảng 15000 TS ( trong
đó có khoảng 5000 TS từ nước ngoài về), vậy trong vòng 10 năm nữa làm sao
có 2 vạn TS. Sinh thời nguyên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt đã có thư gửi cho
những người có trách nhiệm (10/4/2001), cùng với bài báo nói về Trung tâm
viết thuê Luận án TS ở nước ta ( Báo Thanh Niên 9/4/2001) Phải chăng ta
muốn có 2 vạn bằng TS như kiểu ông Ân?
Theo số liệu nghiên cứu hàng năm trên thế giới có
khoảng 80 vạn bài báo khoa học được ghi nhận, và 100 nghìn phát minh sáng
chế được cấp bằng. Về dân số Việt Nam xếp hàng thứ 13, nhưng số lượng
công bố khoa học của nước ta khoảng 700 bài (khoảng 1/1000 ) và số lượng
bằng phát minh sáng chế còn đếm trên đầu ngón tay. Với số lượng sản phẩm
khoa học như vậy, nếu ta có kế hoạch đạo đào tạo khoảng 200 TS/ năm là khả
thi, còn đào tạo với số lượng nhiều hơn, sẽ có TS không đạt chuẩn, chưa
nói là TS RỞM.
Trước khi lo đào tạo ồ ạt TS, xin hay biết trọng dụng
những TS thật đã có, hiện nay TS bỏ chuyên môn do không được trọng dụng
không phải là hiếm!
PV: Thưa ông là
người tâm huyết với giáo dục hẳn ông sẽ lo ngại về các chương trình “liên
kết” tại Việt Nam, theo ông cần phải làm gì để bảo vệ “ người tiêu dùng
trong giáo dục”?
Làm thế nào để các cơ quan công quyền nhà nước tuyển chọn và sử dụng được
một đội ngũ cán bộ cốt cán có đủ năng lực và phẩm chất tương xứng với vị
trí và vai trò?
NXH. Có hai việc phải làm ngay, thay đổi
nguyên tắc lựa chọn và sử dụng người tài, thay đổi cách quản lý người
có bằng TS theo tiêu chuẩn quốc tế
Thứ nhất ta đang có đợt vận động học tập và làm
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tại sao việc coi trọng trí thức và sử dụng nhân
tài của Bác ta chỉ nói chứ không thấy vận dụng ? Trong
bài "Tìm người tài đức" ngày 20/11/1946, Bác viết: "Trong số 20
triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài đức. Nghe vì Chính phủ nghe
không đến, thấy không gấp đến nổi những bậc tài đức không thể xuất thân.
Khuyết điểm đó, tôi xin thừa nhận". Chương trình là cốt lõi của
nền học, SGK là tài liệu mang tính pháp lý trong dạy và học, nhưng gần 30
năm nay đã tốn hàng tỷ USD, nhưng vấn đề này vẫn không giải quyết được,
đang là thách thức của dân tộc. Chương trình chuẩn chính thức của Nhà nước
từ phổ thông đến đại học đến nay vẫn hề chưa có, nghich lý bội thực sách ở
bậc phổ thông, đói sách học chay ở bậc ĐH chưa biết bao giờ mới kết thúc ?
Giải pháp khoa học giải quyết dứt điểm vấn đề này cho giáo dục với kinh
phí khoảng 100 tỷ đồng đã được tất cả các phương tiện thông tin đại chúng
đưa tin, song chỉ có người có trách nhiệm lá không biết ?
Người có bằng TS ở nước ta được hưởng thụ cả
đời, còn các nước tiến tiến tấm bằng TS có giá trị 2 năm. Người có bằng
TS, năm nào cũng đòi hỏi có công bố khoa học, nếu sau 2 năm anh không có
công trình khoa học nào được công bố, tấm bằng TS của anh không bị thu
hồi, nhưng không còn giá tri với giới học thuật! .
Thu Hà (Thực hiện)
Đã đăng trên Văn Nghệ trẻ , Số 27(713), CHỦ NHẬT, ra ngày
4-7-2010
HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM