ở Hạ Châu của Cao Bá Quát
Những bài cùng tác giả

Tàu buồm cỡ tàu Phấn
Bằng
Trong nỗ lực tìm hiểu và so sánh về
nhận thức ban đầu của giới sĩ phu Đông Á khi tiếp
xúc với văn minh Tây phương vào khoảng giữa thế kỷ
XIX, chúng tôi đã tìm đọc một số sứ trình nhật ký
cùng thơ văn mà các sứ thần Nhật Bản, Trung Quốc và
Việt Nam ghi lại trong những lần đi công cán sang
các nước Tây phương. Trong chuyến công vụ ra nước
ngoài vào năm 1844, mặc dầu
Cao Bá Quát chỉ
đến vùng Hạ Châu thuộc Đông Nam Á, nhưng những bài
thơ do ông sáng tác trong lần “ xuất dương hiệu
lực ” này có thể xếp vào mảng tư liệu nói trên. Lý
do là qua những bài thơ này, người đọc có thể thấy
được những nét chấm phá nói lên cảm giác kinh ngạc
của tác giả đối với nền văn minh cận đại của người
Tây phương khi ông đi qua những thuộc địa hay tô
giới của họ trong vùng Hạ Châu.
Trong bài này, dựa trên những tư liệu
của Việt Nam và của nước ngoài, chúng tôi sẽ đưa ra
một số nhận xét và thông tin nhằm thấy rõ hơn về mục
đích phái bộ Việt Nam đi Hạ Châu lần này và ấn tượng
về văn minh Tây phương của Cao Bá Quát.
1)
Mục đích của chuyến công du :
Trước hết, chúng ta cần khẳng định vị trí của vùng
Hạ Châu. Theo nghiên cứu của cố học giả Trần Kinh
Hoà (Ch’en Ching-ho), địa danh Hạ Châu tuỳ theo thời
điểm có thể dùng để chỉ những địa điểm khác nhau.
Nói một cách cụ thể, địa danh Hạ Châu nguyên vào đầu
thế kỷ XIX dùng để chỉ Penang và Malacca, nhưng sau
khi Tân Gia Ba trở thành nhượng địa của Anh và cảng
này được khai trương vào năm 1819, cả hai danh xưng
Hạ Châu và Tân Gia Ba đều được sử dụng nhằm chỉ tân
cảng Singapore. Tuy nhiên, vào thời điểm 1844 khi
Cao Bá Quát được phái đi công vụ, danh xưng Hạ Châu trên
nguyên tắc được dùng không những để chỉ Singapore mà
còn để gọi cả Penang và Malacca -- tức là các thuộc
địa trên eo biển Malacca mà tiếng Anh gọi chung là
Straits Settlements.
Nhằm hiểu rõ mục đích của phái bộ cùng
phản ứng của Cao Bá Quát khi mục kích những biểu tượng của
nền văn minh hiện đại Tây phương, chúng ta cần để ý
đến thời điểm phái bộ được gửi đi Hạ Châu lần này :
Đây là một trong các phái bộ đầu tiên do triều đình
nhà Nguyễn gửi sang Hạ Châu ngay sau khi Thanh triều
vì bị thất trận nặng nề trong chiến tranh Nha phiến
(1839-1842) nên phải nuốt nhục ký kết điều ước Nam
Kinh (1842) với nước Anh. Điều ước này mở đầu cho
một loạt điều ước bất bình đẳng Trung Quốc phải ký
kết với các liệt cường khác.
Trên thực tế, theo
điều ước Nam Kinh, Trung Quốc phải cắt nhường Hương
Cảng cho Anh trong 150 năm, mở 5 cảng Quảng Châu, Hạ
Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải cho người Anh
đến buôn bán và cư trú, đồng thời phải bồi thường
cho nước Anh 21 triệu đồng bạc Mễ Tây Cơ. Đối với
các nước có quan hệ triều cống với Trung Quốc như
Việt Nam hay Triều Tiên, điều ước này còn mang một ý
nghĩa quan trọng khác : vị trí “ Thiên triều ” của
Trung Quốc ở Đông Á không còn như trước. Theo chứng
từ của một người Anh đến Việt Nam vài năm sau đó,
“ từ khi chiến tranh Nha phiến bùng nổ, Trung Quốc
đã có thái độ mềm mỏng và hoà hoãn (reconciliatory)
đối với Việt Nam và thậm chí đã miễn việc triều
cống,... điều ước Nam Kinh đã mang lại lợi ích cho
vua nước An Nam, vì sau đó mậu dịch không còn giới
hạn ở Quảng Đông và Hạ Môn như trước, mà có thể
khuếch đại sang 3 cảng mới được mở thêm do điều ước
Nam Kinh ”.
Phái bộ đi Hạ Châu
năm 1844 có mục đích gì ? Nhằm trả lời câu hỏi này,
trước hết chúng ta cần thu thập một số thông tin cơ
bản. Người dẫn đầu phái bộ (chánh biện) là Đào Trí
Phú (nguyên Tả tham tri bộ Hộ) ; phó biện là Trần Tú
Dĩnh (Viên ngoại lang Nội bộ phủ), quan viên tháp
tùng còn có thừa biện Lê Bá Đĩnh, tư vụ Nguyễn Văn
Bàn và Nguyễn Công Dao, thị vệ Trần Văn Quý, cùng
hai người đi “ hiệu lực ” là Cao Bá Quát và Hà Văn Trung.
Phái bộ đi trên tàu Phấn Bằng
- một loại
tàu buồm giăng ngang (square-rigged
ship) mà triều đình Huế dùng
làm tàu buôn lúc bấy giờ -
khởi hành vào tháng 1-1844 và về lại vào tháng 7 năm
đó.
Đại Nam thực lục
(sẽ ghi tắt là Thực lục)
cho biết là “ trước kia, dưới triều Minh Mệnh [chắc
hẳn là chuyến đi vào tháng 11 năm Minh Mệnh thứ 21,
tức 1840]”, Trí Phú đã được phái đi mua tàu hơi
nước, đó là các tàu Yên Phi,
Vụ Phi,
và Hương Phi,
v.v. Nhưng những tàu này chỉ thuộc loại cỡ nhỏ.
Trong cùng mục tháng 7 năm Thiệu Trị thứ 4 (1844),
Thực lục
cho biết : “ Đào Trí Phú về lại từ Tây dương, mua
một chiếc tàu hơi nước trị giá hơn 28 vạn quan
tiền... Tàu mua lần này là loại tàu lớn, mang tên là
Điện Phi hoả cơ đại thuyền ”. Điện Phi là “ tên do
vua Thiệu Trị đặt ”, bởi lẽ tàu “ chạy nhanh như
bay ”, còn “ hoả cơ đại thuyền ” nói nôm na là tàu
hơi nước (steamer)
cỡ lớn. Sau đó, Thực lục
đã dành đến vài trang nhằm miêu tả tàu Điện Phi,
trong đó có đoạn nói về tốc độ kinh dị của chiếc tàu
này như sau : “ Từ cửa biển Cần Giờ tỉnh Gia Định ra
kinh [Thuận Hoá] lệ thường đi hoả tốc bằng ngựa mất
4 ngày 6 giờ 5 khắc, tàu Điện Phi chạy chỉ cần 3
ngày 6 giờ, tức là nhanh hơn ngựa phóng nước đại
trên đất liền đến 1 ngày 5 khắc ”.
Phải chăng một trong những mục tiêu
chính của phái bộ đi Hạ Châu năm 1844 là để mua
chiếc tàu chạy bằng hơi nước cỡ lớn này ? Có lẽ đúng
thế. Mặc dầu Thực lục chỉ
cho biết một cách tổng quát là “ trước đây
Trí Phú đã được phái đi Giang-lưu-ba, làm việc phần
nhiều chưa xong, cho nên lại sai đi ”. Chúng ta biết
rằng trước đó, Trí Phú đã được phái đi vào năm 1840,
và công việc “ phần nhiều chưa xong (đa
vị thanh) ” trong chuyến đi đó chắc hẳn hàm ý
việc mua chiếc tàu lớn chạy bằng hơi nước mà sau này
được mang tên là Điện Phi.
Cần nói thêm là
chuyến công cán mà Cao Bá Quát tháp tùng chỉ đi trong vòng 7
tháng và câu “ Đào Trí Phú về lại từ Tây dương, mua
một chiếc tàu chạy bằng hơi nước trị giá hơn 28 vạn
quan tiền ” trong Thực lục
khiến người ta có thể hiểu nhầm là chỉ trong thời
gian 7 tháng mà Trí Phú đi sang Tây phương và đã mua
được tàu Điện Phi mang về. Sự thật thì như ta đã
biết là phái bộ này không đi sang Tây phương. Vậy
danh từ Tây dương trong Thực
lục có nghĩa gì ?
Vào nửa đầu thế kỷ
XIX, kiến thức địa lý thế giới ở Trung Quốc và Việt
Nam hãy còn hết sức hạn chế và tạp nhạp, ngay tờ
quan báo do tỉnh Quảng Đông phát hành từ năm 1819
đến năm 1822 còn giải thích Bồ Đào Nha ở cạnh
Malacca, mà Pháp và Bồ Đào Nha chỉ là một, hay nói
một cách khác Pháp nằm kế cận eo biển Malacca ! Do
đó, “ sang Tây dương ” trong trường hợp này không
nhất thiết là phải đi sang các nước Âu Châu. Vì vô
tình nhầm tưởng rằng “ sang Tây dương ” phải là sang
Âu Châu, mà nếu đi bằng thuyền buồm thì không thể
nào sang Âu Châu rồi về lại trong một khoảng thời
gian 7 tháng, nên học giả Trần Kinh Hoà đã gợi ý là
phải chăng Đào Trí Phú đã đi Giang-lưu-ba (Jakarta)
bằng tàu Phấn Bằng, “ rồi từ Jakarta đổi sang tàu
khác để đi Tây dương (Pháp), và cuối cùng nhận tàu
Điện Phi ở Pháp rồi lên tàu đó để đi thẳng về Thuận
Hoá ”. Sự thật thì không phải như vậy, vì như chúng
ta đã biết, phái bộ có Cao Bá Quát tháp tùng đã không sang
Âu Châu, mà chỉ đi các vùng thuộc địa của người Tây
phương dọc theo eo biển Malacca. Nhưng căn cứ vào
đâu mà chúng ta có thể đoán định được là tàu Điện
Phi đã được mua ở Đông Nam Á ? Thông tin sau đây từ
các nguồn tư liệu tiếng Anh mà chúng tôi tình cờ tìm
thấy đã xác nhận điều đó.
Trước hết, cần nói
rằng các nguồn tư liệu tiếng Anh mà chúng tôi đã xem
đều nhấn mạnh vào thời điểm đó Xiêm (Siam) và An Nam
là hai nước láng giềng có quan hệ rất xấu (very
bad neighbours). Khi chiến
tranh Nha phiến vừa bùng nổ, vì nghe tin đồn là các
chiến hạm Anh ở Trung Quốc sẽ tiện đường “ ghé viếng
thăm [!] nước Xiêm ” một khi chiến tranh kết liễu,
vua Xiêm lo sợ nên đã đặt mua nhiều súng ống và một
chiếc tàu chạy bằng hơi nước qua công ty của ông
Robert Hunter lo về việc mậu dịch giữa Bangkok với
các nước Âu Châu. Vì các mặt hàng vua Xiêm đặt mua
đến chậm, đến lúc sắp sửa giao hàng thì chiến tranh
Nha phiến đã kết thúc và nỗi lo sợ của người Xiêm bị
vạ lây với Trung Quốc cũng đã nguôi lắng. Bởi thế,
vua Xiêm làm khó, không chịu mua chiếc tàu chạy bằng
hơi nước theo giá hai bên đã thoả thuận lúc ban đầu.
Hunter do đó mới đề nghị bán cho người An Nam –
“ địch thủ của người Xiêm ”. Kết quả là Hunter bị
trục xuất ra khỏi Bangkok, tuy sau đó có được phép
trở về Xiêm để thu hồi tài sản. “ Trong thời gian ở
Singapore, ông ta đã hoàn tất thủ tục bán chiếc tàu
chạy bằng hơi nước cho người An Nam ”. Tóm lại, căn
cứ vào thời điểm cùng những chi tiết của chứng từ
trên, chúng ta có thể suy luận là : 1) chiếc tàu
chạy bằng hơi nước mà thương nhân người Anh Robert
Hunter bán cho An Nam chắn hẳn là tàu Điện Phi,
2) quá trình mua bán tàu Điện Phi đã diễn ra ở
Singapore chứ không phải ở Âu Châu.
Cũng theo các nguồn
tài liệu tiếng Anh, mậu dịch giữa Việt Nam với các
thuộc địa Anh thuộc vùng Hạ Châu chỉ bắt đầu sau khi
tân cảng Singapore trở thành thuộc địa của người Anh
(1819). Trước đó hầu như “ không có dấu vết gì về
mậu dịch giữa Căm-pu-chia và Cochin-China với các
thuộc địa Anh ở trên eo biển ”. Năm 1821, số thuyền
mành (junk)
đến Singapore từ hai nước này và Xiêm là 21 chiếc,
và 3 năm sau (1824) số thuyền đến Singapore tăng lên
thành 70 chiếc mỗi năm. “ Mậu dịch với Singapore rất
bị hạn chế vào thập niên 1820, bởi lẽ phần lớn những
sản phẩm của Cochin-China chỉ thích hợp với thị
trường Trung Quốc, và chỉ có giai cấp thượng lưu ở
Cochin-China và quân đội của nhà vua mới có nhu cầu
về những hàng bông (cotton)
và hàng nỉ (woollen)
của Anh. Hàng nỉ của Anh dùng may trang phục cho
quân đội của nhà vua hầu hết được đặt mua từ Quảng
Đông ”. Mậu dịch giữa An Nam và Singapore do “ thần
dân người Hoa trong nước đảm nhiệm ”. Báo cáo của
toàn quyền Anh ở Singapore, John Crawfurd, về Luân
Đôn cho biết là năm 1825 đánh dấu một mốc quan trọng
trong việc mậu dịch giữa Cochin-China và Singapore.
Vào năm ấy, “ nhà vua [vua Minh Mạng] gửi hai thuyền
mành có trang bị vũ khí cùng quan viên sang
Singapore để mua hàng nỉ và hàng thuỷ tinh ”. Sau
đó, nhà đương cuộc Anh đã “ khám phá là những quan
viên này đến Singapore có nhiệm vụ nghiên cứu nhằm
báo cáo về tình hình trên những thuộc địa của người
Âu Châu ở eo biển Malacca ”. Tuy người ta không biết
trong báo cáo đó đã ghi những gì, nhưng sau lần thăm
viếng đó, triều đình “ đã giành độc quyền mậu dịch
với Singapore ”.
Ngoài ra, theo báo
cáo của Isodore Hedde -
một ký giả có đến Việt Nam vào mùa
Xuân năm 1844 -,
tuỳ theo thời điểm, những phái bộ đi công cán ở Hạ
Châu dưới hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị có mục
đích khác nhau. Ví dụ, phái bộ năm 1832 là để “ diễn
tập đi biển ”, năm 1835 nhằm “ nắm vững hải trình và
tìm hiểu hình thế cùng phong tục ”, năm 1840 là để
“ chọn mua hàng hoá ”, năm 1842 là để “ diễn tập đi
biển và để giải quyết những vấn đề chưa làm xong cho
nội vụ phủ ”.
Hedde cũng cho biết
một số chi tiết các mặt hàng xuất nhập giữa Việt Nam
với Singapore trong khoảng những năm đầu triều vua
Thiệu Trị : mặt hàng bán gồm có lụa chế tạo ở Trung
Quốc và Việt Nam, chè xanh (green
tea), vải trúc bâu Nam Kinh
(nankeens),
quế, sừng tê giác, gạo, đường, muối, ngà voi, da
trâu, những loại gỗ quý, vàng bạc ; và hàng mua về
gồm có vải lạc đà và hàng bông thường, có khổ dài để
may áo quần cho quân đội, thiếc, nha phiến, súng
ống, và một số sản phẩm Ấn Độ. Vì sao “ nha phiến ”
là mặt hàng cấm nhập khẩu mà lại nằm trong danh sách
này ? Ai là người đứng sau việc mua hàng đó ? Chúng
ta không có đủ tư liệu để trả lời câu hỏi này một
cách thoả đáng, chỉ biết theo các thông tin tản mạn
trong Thực lục
thì Phó biện của phái bộ trong lần đi Hạ Châu năm
1844 là Trần Tú Dĩnh về sau bị giáng chức vì tội
“ buôn lậu ”, mà “ buôn lậu ” gì thì không thấy nói
rõ và ngay hư thực của vụ án cũng không thấy có sách
nào nói đến.
Trong phạm vi của bài này, chúng ta có
thể đoán định là ngoài nhiệm vụ diễn tập và mua bán,
phái bộ đi Hạ Châu năm 1844 còn có mục đích mua
chiếc tàu chạy bằng hơi nước cỡ lớn mà sau này sẽ
mang tên là Điện Phi.
2) Ấn tượng về văn
minh Tây phương của Cao Bá Quát : Trong
chuyến đi “ dương trình hiệu lực ”, nhiệm vụ
Cao Bá Quát
trong phái đoàn là gì ? Câu hỏi này từ trước tới nay
hình như chưa có ai đưa ra. Theo thiển ý của chúng
tôi, phải chăng vì nổi tiếng xuất chúng về văn thơ
chữ Hán, Cao Bá Quát đã được giao phó trách nhiệm tiếp xúc
với người Hoa trên các thuộc địa của người Âu Châu,
bút đàm với họ nhằm tìm hiểu và thu thập thông tin
về động tĩnh của người Âu Châu trên những vùng mà
phái bộ ghé qua ? Trong những bài thơ Cao Bá Quát sáng tác
lúc xuất dương thỉnh thoảng có nhắc đến một vài
thương nhân người Hoa mà tác giả đã gặp ; điều này
ít nhiều khẳng định giả thiết nói trên. Ngoài ra,
cần để ý là trong những bài thơ mà Cao Bá Quát sáng tác
trong thời kỳ xuất dương, ông có nhắc đến chức vụ
của ông là “ tham quân ” và đã phần nào biểu lộ ý
thức trách nhiệm của ông về chức vụ này. Ví dụ, Cao
Bá Quát
viết : “ Nhật khiết ly cơ tam bách
trản/Bất phòng hoán tác tiểu tham quân ” (Mỗi
ngày ta có thể uống ba trăm cốc rượu/Nhưng ta [dừng
lại vì] không muốn làm cản trở công việc của một anh
tham quân). Hoặc “ Phiếm sà mạn tự
đàm Trương Sứ/Quyết nhãn bằng thuỳ điếu Ngũ Viên”
(Bàn tới chuyện Trương Kiện cưỡi bè đi sứ [nhằm tìm
hiểu tình hình bên ngoài]/Ai là người làm Ngũ Viên
khoét mắt [can vua]). “ Tham quân ” thông thường là
chức vụ của một “ văn quan được phái vào doanh quân
giúp trưởng đơn vị xây dựng và chiến đấu, hàm Chánh
Tứ phẩm Văn giai ”, hoặc hàm “ Tòng Tam phẩm Văn
giai ”. Như vậy Cao Bá Quát đã tham gia phái bộ với tư cách
là một văn quan được biệt phái và chức tham quân
trong trường hợp của ông chắc hẳn có mục đích thu
thập thông tin như chúng tôi đã trình bày ở trên.
Cuộc hành trình của Cao Bá Quát kéo dài 7
tháng gồm những chuỗi ngày lênh đênh trên sóng nước,
mênh mông biển rộng trời cao. Đọc những bài thơ Cao
Bá Quát
sáng tác trong khoảng thời gian này, ta thấy những
con tàu chạy bằng hơi nước đã gây ấn tượng mãnh liệt
đối với nhà thơ.
a) “ Hồng mao hoả
thuyền ca ” :
Như chúng ta đã biết, một
trong những biểu tượng của Cách mạng công nghiệp ở
Âu Châu vào giữa thế kỷ 18 là sự xuất hiện của đầu
máy hơi nước. Đặc biệt sau khi chiếc tàu chạy bằng
máy hơi nước đầu tiên được thí nghiệm thành công ở
Scotland (1802), càng ngày càng có những bước tiến
rõ rệt trong ngành hàng hải. Hải trình thiên lý từ
Âu Châu sang các nước Á Châu tưởng chừng như được
rút ngắn lại. Khi các con tàu chạy bằng hơi nước
trang bị với những họng súng đại bác đen ngòm xuất
hiện trên vùng biển Châu Á Thái Bình Dương, chủ
quyền của các nước Đông Á bắt đầu bị thách thức bởi
làn sóng Tây xâm. Trước những cột khói đen, cao ngút
trời và tiếng máy tàu nổ liên hồi như muốn át tiếng
sóng gầm của biển cả, người trí thức Á Đông giật
mình trước sự tiến bộ của thế giới bên ngoài và cảm
thấy bất an vì tình trạng đình trệ trên đất nước họ.
Năm 1841, tàu Pháp vào vụng Sơn Trà
(Đà Nẵng), đã ngang nhiên cho lính đổ bộ lại còn cho
bắn 80 phát súng đại bác thị uy. Rồi sáu năm sau
(1847), chiến thuyền Pháp lại vào cửa Hàn, nổ súng
uy hiếp. Câu ca dao Quảng Nam sau đây có lẽ đã ra
đời vào thuở đó :
Tai nghe súng nổ cái đùng,
Tàu Tây đã tới Vũng Thùng anh ơi !
Cần
để ý là Cao Bá Quát đã xuất dương chính vào lúc chủ quyền
lãnh thổ ở Trung Quốc và ở Việt Nam đang bị đe doạ
trầm trọng : 2 năm sau khi những chiếc thuyền mành
lỗi thời của nhà Thanh không địch lại sức mạnh cơ
khí của những chiến hạm chạy bằng hơi nước của người
Anh trong chiến tranh Nha Phiến và 3 năm sau khi
chiến thuyền Pháp lần đầu tiên vào bắn phá ở cửa
biển Đà Nẵng.
Trên boong tàu Phấn Bằng, nhìn “ con
vật khổng lồ quái dị ” chạy bằng hơi nước đang rẽ
sóng phăng phăng từ xa tiến lại, Cao Bá Quát đã sáng tác bài
Hồng mao hoả thuyền ca
(Bài thơ về chiếc tàu chạy bằng hơi nước của người
Anh). Bởi vậy không phải ngẫu nhiên mà lời thơ của
Cao Bá Quát trong bài này đượm vẻ khẩn trương, hùng tráng.

Tàu chạy bằng hơi nước
của Anh trong chiến tranh Nha phiến
Cao yên quán
thanh không Khói ùn
lên tuốt trời xanh,
Ổng tác bách xích
đôi Đùn lên
cao ngút ba trăm thước liền,
Yêu kiều thuỳ
thiên long Rồng
trời sa xuống nghiêng nghiêng,
Cương phong xuy
bất khai. Mặc cuồng phong thổi con
thuyền chẳng sao !
Cao Bá Quát miêu tả khá chi tiết con tàu kinh
dị này : cột tàu cao chót vót, con quay gió đứng im
(nguy tường ngật lập, ngũ lạng tĩnh),
ở giữa có ống khói phun khói lên cao ngất (tu
đồng trung trĩ, phún tác yên thôi ngôi), bên
dưới có hai bánh xe xoay chuyển liên hồi đạp sóng
dồn (hạ hữu song luân triển chuyển
đạp cấp lãng), guồng quay, sóng đánh tung toé
ầm ầm như tiếng sấm rền (luân phiên
lãng phá, ẩn kỳ sinh nộ lôi).
b) Hình ảnh người
phụ nữ Tây phương :
Trong những bài thơ Cao Bá Quát làm khi xuất dương, có hai
bài thơ nói đến người phụ nữ Tây phương. Trước hết,
ta hãy xem bài Dương phụ hành
(Bài hành “ Người phụ nữ Tây phương ”) :
Dương phụ hành
Tây dương thiếu
phụ y như tuyết,
Cô gái
phương Tây áo như tuyết,
Độc bạn lang kiên
toạ thanh nguyệt.
Ngồi kề vai chồng dưới ánh
nguyệt.
Khước vọng Nam
thuyền đăng hoả minh,
Nhìn sang thuyền ta đèn sáng
choang,
Bả duệ nam nam
hướng lang thuyết. Níu áo cùng chồng nói rối
rít.
Nhất uyển đề hồ
thủ lãn trì,
Uể oải cốc sữa biếng cầm tay.
Dạ hàn vô ná hải
phong xuy.
Gió bể
e chừng đêm lạnh đây !
Phiên thân cánh
thiến lang phù khởi,
Nhích lại còn đòi chồng đỡ
dậy,
Khởi thức Nam
nhân hữu biệt ly !
Tình ta
ly biệt có ai hay !
Hoá Dân dịch
Mặc dầu tác giả không nói rõ, chúng
ta có thể hình dung là con thuyền của phái bộ Việt
Nam lúc ấy đang cắm neo cạnh chiếc tàu của người
phương Tây. Đêm về, tàu đậu trên bến cảng đã lên
đèn, đặc biệt trong thuyền Việt Nam đèn thắp sáng
trưng. Nhìn sang tàu bên, nhà thơ Cao Bá Quát thấy một phụ
nữ đang nũng nịu với chồng. Với cặp mắt tinh tế,
không thiên kiến, và với ngòi bút điêu luyện, Cao Bá
Quát đã
phác hoạ bằng những nét chấm phá cá tính năng động
của một người phụ nữ phương Tây trong quan hệ nam nữ
: “ tự dựa vào vai chồng ” (độc
bằng lang), “ níu tay áo chồng nói chuyện ríu
ra ríu rít ” (bả duệ nam nam hướng
lang thuyết), hoặc “ nghiêng mình, lại nhờ
chồng nâng dậy ” (phiên thân cánh
thiến lang phù khởi). Đối với Cao Bá Quát, những gì
hiện ra trước mắt ông hoàn toàn mới lạ bởi lẽ trong
xã hội Việt Nam nói riêng hay Đông Á nói chung vào
thuở ấy, thông thường người phụ nữ không có những
ứng xử tự do đối với chồng như thế. Chắc hẳn cảnh
sum họp này đã làm nhà thơ chạnh nhớ gia đình, bởi
thế Cao Bá Quát mới kết thúc bài thơ bằng câu : “ đâu biết
có một người Việt Nam đang ở trong cảnh xa nhà ”
(khởi thức Nam nhân hữu biệt ly).
Mười sáu năm sau đó, năm 1860, khi
Fukuzawa Yukichi (Phúc-trạch Dụ-cát; 1835-1901)
- một trí thức có ảnh hưởng
rất lớn đến quá trình canh tân của Nhật Bản vào thời
Minh Trị - tháp tùng phái
bộ do chính quyền Tokugawa gửi sang Hoa Kỳ nhằm phê
chuẩn điều ước giao thương Nhật-Mỹ, điều khiến
Fukuzawa ngạc nhiên nhất cũng là những phong tục tập
quán hàng ngày - đặc biệt
là những khía cạnh có liên quan tới vấn đề giao tế
nam nữ. Chẳng hạn, khi phái bộ Nhật vừa đến San
Francisco, Fukuzawa được mời tham dự một dạ vũ.
Trong tự truyện, Fukuzawa thuật lại ấn tượng ban đầu
khi thấy người Tây phương khiêu vũ như sau : “ Tôi
lấy làm lạ vì không biết người ta đang làm gì : các
bà, các ông cứ chạy đi chạy về miết trên sàng ! Tôi
phải ráng nín cười vì sợ thất lễ ”. Hoặc giả một hôm
Fukuzawa cùng những người trong đoàn được mời đến ăn
cơm tối với gia đình một người Mỹ gốc Hà Lan, “ Khi
bữa ăn thịnh soạn sắp sửa được bày dọn trên bàn,
điều tôi [Fukuzawa] thấy kỳ lạ nhất là bà chủ nhà
vẫn ngồi trên ghế trò chuyện tỉnh bơ với khách,
trong khi ông chủ nhà thì xăng xít điều động người
giúp việc dọn thức ăn ra cho khách. Điều này thật
hoàn toàn trái ngược với phong tục tập quán ở Nhật
Bản ”. Trong tự truyện của Fukuzawa Yukichi, các mẩu
chuyện nho nhỏ về quan hệ nam nữ trong việc giao tế
hàng ngày ở Hoa Kỳ được xếp trong phần mang tiểu đề
là “ Nữ trọng nam khinh ”
(trọng nữ khinh nam) - một
tiêu đề khá ấn tượng nhằm nói lên sự khác biệt với
khuynh hướng “ nam trọng nữ khinh ”
(trọng nam khinh nữ) trong xã hội Nhật Bản lúc bấy
giờ. Hai năm sau (1862), khi Fukuzawa có dịp thăm
viếng Âu Châu, điều khiến người trí thức
samurai (võ sĩ) này ngạc
nhiên cũng là những vấn đề có liên quan đến cuộc
sống của người phụ nữ, chẳng hạn như ở Pháp có nhiều
trường học cho nữ sinh, số nữ sinh cao, và chế độ ưu
đãi về lương bổng cho các nữ giáo viên.
So với Fukuzawa Yukichi, mặc dầu
những nhận xét về người phụ nữ Tây phương của Cao Bá
Quát
chỉ giới hạn trong lãnh vực cá nhân và chỉ được diễn
tả qua những nét chấm phá đơn sơ của một bài thơ,
nhưng không phải vì thế mà không đáng được chú ý. Lý
do là : 1) dù chưa đi các nước Âu Mỹ và chỉ có dịp
quan sát con người Tây phương qua thuộc địa của họ ở
vùng Hạ Châu, Cao Bá Quát đã tỏ ra tinh tế và nhạy cảm ; 2)
trong mảng thơ văn đi sứ hay đi công cán ở nước
ngoài của các sứ thần Việt Nam vào thế kỷ XIX, bài
thơ của Cao Bá Quát về người phụ nữ Tây phương là
một trường hợp rất hiếm hoi và có ý nghĩa bởi lẽ
điều này nói lên cá tính phóng khoáng của Cao Bá
Quát -
không chịu bó mình trong những khuôn phép Nho giáo.
Chính những khuôn thước gò bó của Nho giáo đã ngăn
chận các sứ thần Việt Nam hay Trung Quốc khi đi sứ ở
Tây phương quan sát hay ghi lại những điều gì có
liên hệ đến nếp sống của người phụ nữ nói riêng hay
sinh hoạt hàng ngày của dân chúng nói chung, mà phần
lớn chỉ để ý đến các hình thức bên ngoài có tính
cách lễ nghi.
b) Ý thức đồng
văn đồng chủng đối với người Trung Quốc
:
Như đã trình bày ở
trên, trong chuyến đi dương trình hiệu lực Cao Bá
Quát giữ
chức “ tham quân ” và nhiệm vụ của ông có lẽ là thu
thập thông tin về động tĩnh của các nước Tây phương
ở vùng Hạ Châu.
Khi tiếp xúc với người Hoa, vì ngôn
ngữ bất đồng, “ bút đàm ” (nói chuyện bằng bút) là
phương tiện duy nhất để Cao Bá Quát có thể trò chuyện với
người Hoa. Nói cụ thể là cả hai bên đều viết chữ Hán
lên giấy để đàm thoại. Cần nói rõ là không riêng gì
thế hệ của Cao Bá Quát, mà mãi về sau -
hơn 60 năm sau chuyến đi công cán ở Hạ Châu của Cao
Bá Quát
- khi Phan Bội Châu sang
Nhật Bản và khởi đầu phong trào Đông Du, bút đàm vẫn
là phương tiện để trao đổi ý kiến khi tiếp xúc với
người nước ngoài. Như chính Phan Sào Nam tiên sinh
đã thuật lại trong tự truyện : “ Trung tuần tháng
tư, Nhật-Nga chiến sự đã xong, mới có thuyền Nhật
Bản đến Thượng Hải. Chúng tôi nhờ có ông lưu Nhật
học sinh người Trung Quốc tên là Triệu Quang Phục
người Hồ Nam làm người chỉ đường cho chúng tôi,
chung nhau ngồi thuyền Nhật Bản đi Hoành Tân. Đến
lúc đó mới phát sinh một việc rất khốn nạn : tiếng
Nhật đã không thông mà tiếng Tàu lại ú ớ, nói phô
bằng bút, giao thiệp bằng tay, phiền luỵ không biết
chừng nào ! Ngoại giao mà như thế, thất đáng xấu hổ
! ”
Hoàng Liên Phương (Huang Lianfang) là
một thương nhân người Hoa ở Singapore mà Cao Bá Quát chắc
hẳn đã tiếp xúc để bàn chuyện thời sự nhằm tìm hiểu
tình hình. Qua bút đàm, có lẽ Cao Bá Quát cảm thấy tâm đầu ý
hợp với Hoàng, chính vì thế nên một số bài thơ trong
tập Hạ Châu tạp thi
của Cao Bá Quát có đề cập đến nhân vật này.
Ví dụ, trong bài
Dữ
Hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự, hữu
sở cảm, tẩu bút dữ chi (Cùng Hoàng
Liên Phương bàn chuyện hải ngoại, có điều cảm xúc,
viết nhanh tặng ông) đã trích dẫn ở trên, Cao Bá
Quát bày tỏ
niềm vui mừng được gặp Hoàng là người có thể san sẻ
nỗi lòng : “ Khói sóng muôn dặm, ta vẫn là người
khách lạ/Trăng gió ba xuân, nay được gặp ông ” (Vạn
lý yên ba do tác khách/Tam
xuân phong nguyệt thặng phùng quân). Trước
nạn Tây xâm (Cao Bá Quát nói bóng là Tây
phong), do ý thức “ đồng văn
đồng chủng ” (cùng văn hoá và cùng chủng
tộc), Cao Bá Quát xem số phận của người Việt Nam và người
Trung Quốc không mấy khác nhau -
thậm chí gắn liền với nhau. Chính do ý thức đó nên
ông đã viết : “ Ta cũng là nhân vật cũ của Trung
nguyên/Ngoảnh đầu hướng gió Tây, lệ tuôn lã chã ” (Ngã
thị Trung nguyên cựu nhân vật/Tây phong hồi thủ lệ
phân phân). Hoặc giả khi trông thấy người Hoa
ở Singapore ngồi xem diễn tuồng một cách vô tư như
thể đã quên cái nhục nhà Thanh thua trận trong chiến
tranh Nha phiến, trong bài Dạ
quan Thanh nhân diễn kịch trường (Đêm xem
người Thanh diễn tuồng), Cao Bá Quát đã trách họ như thể là
trách người cùng nước : “ Chuyện Hổ Môn gần đây anh
chẳng biết sao ? / Đáng trách ai người nghển mũi
ngồi xem ! ” (Hổ Môn cận sự quân
tri phủ/Thán tức hà nhân ủng tỵ khan).
Theo lối nhìn của Cao Bá Quát, vì ngay chính
Trung Quốc cũng phải thất bại đau đớn khi đụng độ
với Tây phương, sau chiến tranh Nha Phiến (“ Tự
tùng Hán mã thông Tây khí ”) ở Đông Á không
còn nước nào có thể ngăn chận làn sóng Tây xâm hung
hãn (“ cuồng ba ”). Bởi thế
nên ông đã viết :
Giang hải thôi di
thế mạc hồi, Chuyển di sông biển thế
ngày nay,
Y Xuyên dã tế sử
nhân ai. Đền miếu Y Xuyên
ngẫm tủi thay !
Tự tùng Hán mã thông
Tây khí, Từ độ tàu Tây hơn ngựa Hán,
Thuỳ chướng cuồng ba
vạn lý lai ? Sóng cuồng muôn dặm tính sao
đây ?
Hoặc giả :
Bắc cố yên vân nhãn
quyện khan, Ngùi trông
phương Bắc khói mênh mang,
Trung nguyên dĩ biến
cựu y quan. Mũ áo Trung nguyên đã đổi màn,
Mao đầu nhất khí vô
nhân thức, Cờ mao đâu nhỉ, ai nào biết
?
Dương hoá do thông
Bá-lý-đan. Bá-lý-đan nay cũng nhập hàng
!
Tuy nhiên, không phải Cao Bá Quát đã hoàn
toàn bi quan trước hiểm hoạ Tây xâm. Ông tin tưởng
là thiên nhiên sẽ có sức kỳ diệu xua đuổi kẻ xâm
lăng. Bởi vậy, Cao Bá Quát đã kết thúc bài
Hồng mao hoả thuyền ca như sau : “ Các
người chẳng thấy : Khi nước từ vũng Vỹ Lư rót vào
tảng đá Ốc Tiêu / Ngọn lửa khủng khiếp sẽ bốc lên
đến tận mây xanh / Khi kim nam châm của la bàn đi
biển chỉ về hướng Đông thì hãy coi chừng / Thuỷ
triều sớm chiều chả giống như ở biển Tây đâu ! (Quân
bất kiến : Vỹ Lư chi thuỷ hối Ốc Tiêu/Kiếp hoả trực
thượng thanh vân tiêu/Khai châm Đông khứ thận tự
giới/Bất tỷ Tây minh triêu mộ trào). Dịch thơ
:
Ngươi chả thấy : Vỹ Lưu nước chảy,
Chạm Ốc Tiêu lửa cháy bừng bừng,
Mây xanh lên thẳng mấy từng,
Về Đông ngươi hãy coi chừng tấm thân,
Ngay như con nước xuống, dâng,
Không như Tây hải, lần chần chuốc nguy !
Về danh từ Vỹ Lưu, thiên
Thu thuỷ (thiên nổi
tiếng nhất trong sách Trang Tử)
có đoạn nói như sau : muôn sông đều chảy ra biển
nhưng biển không bao giờ tràn nước ; ngược lại, nước
biển chảy ra không ngừng qua lỗ thủng ở Vỹ Lưu mà
nước biển chẳng có lúc nào cạn. Lời chú của Kê Khang
trong bài Dưỡng sinh luận
còn cho biết rằng khi nước từ Vỹ Lưu chảy dồn đến
một tảng đá cực lớn gọi là Ốc Tiêu thì bốc cháy dữ
dội, thiêu huỷ mọi vật. Ở đây dĩ nhiên Cao Bá Quát muốn cảnh
cáo ý đồ bành trướng sang Đông Á của các nước Tây
phương. Cũng cần nói thêm Kê Khang (223-262 sau CN)
là người nước Nguỵ thời Tam Quốc, tự là Thúc Dạ,
nhân vật được nể vì nhất trong nhóm “ Trúc lâm thất
hiền ”. Tuy làm quan đến chức Trung tán Đại phu, Kê
Khang chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang, tính
tình phóng khoáng, cầm, kỳ, thi, hoạ nghề gì cũng
giỏi. Việc tác giả trích dẫn từ
Trang Tử hay các điển cố đượm màu sắc Lão
Trang thay vì lấy từ những kinh điển của Nho giáo
như Tứ thư,
Ngũ kinh cũng
nói lên đôi nét về diện mạo tư tưởng cùng cá tính
phóng túng, không muốn ép mình theo khuôn thước Nho
giáo của Cao Bá Quát.
Ý thức cảnh giác của Cao Bá Quát về sự hiện
diện có tính cách dòm ngó của các chiến hạm Tây
phương trên vùng biển Đông Á hình như đã ăn sâu vào
tâm khảm của nhà thơ sau khi về nước. Trong bài
Thập ngũ nhật đại phong
(Ngày rằm gió lớn) sáng tác sau một đêm nghe tiếng
sóng gầm từ cửa biển Thuận An vọng về kinh thành,
Cao Bá Quát ước mơ sẽ có ngọn “ gió Đông ” của Chu Du ngày
trước sẽ đuổi sạch chiến hạm Tây phương ra khỏi bờ
cõi :
Nhất dạ trường phong hám hải đài,
Đêm qua sóng biển thét gầm vang,
Thuận An môn ngoại lãng như lôi.
Hải trấn rung mình -- cửa Thuận An
!
Thiên thu thượng tác Chu Lang khí,
Ngàn thu nộ khí Chu Lang vẫn,
Yếu đả Hồng Mao cự hạm hồi
!
Đuổi bạt tàu Tây chạy
ngút ngàn !
*
Trên đây chúng tôi đã tìm hiểu mục
đích cụ thể của chuyến đi công vụ ở Hạ Châu năm 1844
mà Cao Bá Quát là một thành viên. Trong nửa phần sau, chúng
tôi đã phác hoạ đôi nét chính về những cảm nhận ban
đầu của Cao Bá Quát khi tiếp xúc với văn minh Tây phương
trong thời gian xuất dương.
Ngoài những điểm mà chúng tôi đã
trình bày trên đây, qua những bài thơ Cao Bá Quát sáng tác
lúc xuất dương, chúng ta còn thấy tác giả đã cảm
nhận được vấn đề kỳ thị chủng tộc trên các vùng đất
thuộc địa của người da trắng. Nói cụ thể, người Tây
phương thì “ ngồi mát ăn bát đầy ” trong khi người
dân da màu phải làm quần quật, thể hiện qua cảnh
“ người da đen đánh xe cho người da trắng ” (cá
cá ô nhân ngự bạch nhân). Qua chuyến xuất
dương, Cao Bá Quát bừng tỉnh là trước đây, khi còn ở trong
nước tựa như ếch ngồi đáy giếng, nào khác “ trông
con báo mà chỉ thấy một vằn ” (ngu
kiến chân thành báo nhất ban). Bởi thế, sau
khi về nước, Cao Bá Quát ý thức được thói trọng từ chương,
ưa hư văn trong lối học cử tử bất quá chỉ là trò đùa
con trẻ : “Tân Gia từ vượt con tàu / Mới hay vũ trụ
một bầu bao la / Giật mình khi ở xó nhà / Văn chương
chữ nghĩa khéo là trò chơi / Không đi khắp bốn
phương trời / Vùi đầu án sách uổng đời làm trai”.
Điều cần để ý là mãi hơn 70 năm sau
đó, vào giữa thập niên 1910, sau nhiều năm bôn ba
hoạt động ở hải ngoại và bị quân phiệt Trung Hoa bắt
giam ở Quảng Đông, Phan Bội Châu cũng đã ghi lại
trong Ngục trung thư
tâm trạng thất vọng về tình hình giáo dục trong nước
nói chung và cho chính bản thân cụ nói riêng : “ Tôi
từ nhỏ tới lớn, vốn có tư chất thông minh, công phu
đèn sách giùi mài cũng không bê trễ, nhưng kết quả
chẳng qua chỉ là sự học khoa cử mà thôi... Bà con ta
muốn cỡi mây lướt gió không thể nào không mượn con
đường khoa cử, dầu ai có muốn chẳng theo thời đi
nữa, cũng không có đường học nào khác hơn mà đi.
Than ôi ! Chổi cùn trong nhà, tự mình xem là của
quý, sự ưa thích lâu đời đã thành thói quen thành ra
rốt cuộc tôi cũng bị thời trang trói buộc đến nỗi
tiêu hao ngày tháng về nghiệp khoa cử gần hết nửa
đời người. Đó là vết nhơ rất lớn trong đời tôi
vậy ”.
Tóm lại, qua những bài thơ Cao Bá
Quát sáng
tác trong thời kỳ xuất dương và sau khi về nước, ta
thấy tác giả không chỉ là một nhà thơ đa tài mà còn
là một trí thức mẫn cảm trước thời cuộc. Trên thực
tế, Cao Bá Quát có lẽ là một trong số ít người Việt Nam đã
cảm nhận rất sớm – ngay giữa thập niên 1840 – về mối
hiểm hoạ Tây xâm và chế độ khoa cử lỗi thời chỉ dựa
trên từ chương và hư văn. Những vấn đề này sẽ tiếp
tục là đề tài nóng bỏng đối với đất nước trong suốt
hơn một thế kỷ sau đó. Những nhận thức và nỗi bức
xúc trong Cao Bá Quát dĩ nhiên chưa vượt khỏi phạm vi cảm
tính. Nguyên nhân suy yếu của đất nước và con đường
canh tân sẽ được
Nguyễn Trường Tộ (1830-1871), một
nhân vật có sở học uyên bác mà không bị trói buộc
bởi lối học khoa cử, trình bày cụ thể và có mạch lạc
qua các bản điều trần của ông gởi cho triều đình
trong thập niên 1860. Điều thật đáng tiếc là những
lời điều trần đầy tâm huyết của nhà trí thức nhìn xa
thấy rộng nhất ở Việt Nam vào hậu bán thế kỷ XIX
này, vì bị đình thần nghi ngờ và đố kỵ cũng đã không
thay đổi được gì vận mệnh của đất nước.
Trong chữ Hán, danh từ “ tiên giác ”
dùng để chỉ người thấy sớm hơn những người cùng thời
các sự việc chưa xảy ra. Tiên đoán về tiền đồ u ám
của đất nước ngay vào giữa thế kỷ XIX, Cao Bá Quát đáng được
xếp vào trong số những nhà tiên tri tiên giác rất
hiếm hoi ở Việt Nam vào thời điểm đó.
Ở Nhật Bản, sau khi bốn chiến hạm của
đề đốc Hoa Kỳ Matthew Perry đến yêu cầu chính quyền
Tokugawa bakufu mở cửa giao
thương (1853), tình hình chính trị ở Nhật Bản trở
nên vô cùng xáo động. Yoshida Shôin (Cát-điền
Tùng-âm ; 1830-1859) là nhà tiên giác (senkakusha)
hàng đầu ở Nhật Bản. Sinh bình, Shôin là một chí sĩ
thường quan tâm đến hiểm hoạ Tây xâm. Dưới danh
nghĩa phò Thiên hoàng, Shôin hô hào lật đổ chính
quyền Tokugawa nhằm đối phó với tình hình khẩn
trương lúc đó. Sau khi việc mưu sát sứ giả của chính
quyền Tokugawa ở Kyoto mà Shôin có tham gia bị thất
bại, ông bị hạ ngục và hành quyết năm 1859 – 5 năm
sau khi Cao Bá Quát bị hành quyết ở Mỹ Lương.
Phải chăng sự trùng hợp đầy tính bi
kịch giữa hai nhà tiên giác Cao Bá Quát và Yoshida Shôin chỉ
có tính cách ngẫu nhiên ?
Đông chí, 2003
Vĩnh Sính
Giáo sư Sử
học đại học Alberta - Canada
Đã đăng trong Diễn Đàn
|
©
http://vietsciences.org
và
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences2.free.fr
-
Vĩnh Sính |