|
Nguyễn Trường Tộ (1828 -1871)
Sinh năm 1828, ở làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên,
Nghệ An, trong một gia đình theo đạo Gia
tô, nhưng Nguyễn Trường Tộ học thông
tứ thư ngũ kinh của Nho giáo. Năm 27
tuổi, ông được giám mục Gauthier
đưa vào chủng viện Tân ấp thuộc
xứ đạo Xã Đoài để dạy
chữ Hán cho giám mục, và được giám
mục dạy lại cho chữ Pháp cũng như
kiến thức khoa học châu Âu. Năm 1858, giám
mục Gauthier đưa Nguyễn Trường
Tộ sang Pháp để tạo điều kiện
học tập, nâng cao kiến thức nhiều
mặt.
Hơn hai năm ở Paris, chẳng những ông
hiểu biết nhiều về khoa học - kỹ
thuật, có trình độ như một kiến trúc
sư, một người biết khai mỏ, mà còn
đọc rộng về các mặt chính trị,
kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật,
v.v... và tìm hiểu được một số
hoạt động công nghệ của nước
Pháp.
Trên đường đi sang Pháp và trở về
Việt Nam, Nguyễn Trường Tộ còn có
dịp ghé qua Rome, dừng chân ở Singapore và
Hongkong.
Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở
về Tổ quốc, phải cập bến Sài Gòn,
khi tỉnh thành Gia Định đã bị quân
viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha chiếm đóng.
Gần ba năm sống trong lòng địch,
Nguyễn Trường Tộ bất đắc dĩ
phải làm việc với quân Pháp, phiên dịch các
công hàm trao đổi giữa triều đình
Huế với Soái thủ Pháp ở Gia Định.
Nhiều lần ông sửa bớt chữ nghĩa
trong công hàm của đôi bên, tránh những
lời lẽ quá khích, xúc phạm tới triều
đình hoặc phương hại cho việc
"tạm hòa". Nhiều lần ông tìm cách thông
báo cho các sứ thần của triều đình như
Nguyễn Bá Nghi, Phan Thanh Giản, Phạm Phú
Thứ một số âm mưu quỷ kế của
giặc Pháp.
Năm 1863, Nguyễn Trường Tộ tìm cách thoát
ra khỏi khu vực chiếm đóng của quân Pháp,
liên hệ được với triều đình
Huế. Từ đây cho đến cuối đời
ông viết hàng loạt điều trần,
luận văn, tờ bẩm, trình nhiều kiến
nghị có tầm chiến lược nhằm canh tân
đất nước, tạo thế vươn lên
cho dân tộc để giữ nền độc
lập một cách khôn khéo mà vững chắc.
Hơn sáu mươi di thảo của Nguyễn Trường
Tộ đã sưu tầm được, bàn
về nhiều phương diện:
- Về mặt kinh tế, Nguyễn Trường
Tộ vạch ra đường lối làm cho
"nước giàu mà dân cũng giàu". Ông khuyên
triều đình ra sức mở mang nghề
nghiệp, học cách làm ăn của các nước
văn minh Tây Âu, tránh bế quan tỏa cảng,
mời các công ty kinh doanh nước ngoài đến
giúp Việt Nam khai thác tài lợi để có thêm
của cải và học cho được kỹ
thuật cũng như cách làm ăn tiên tiến
của họ. Có như vậy mới giữ
được độc lập trong tư thế
làm chủ đón khách... (xem Dụ tài tế
cấp bẩm từ).
- Về mặt văn hóa - xã hội, Nguyễn Trường
Tộ khuyên triều đình tìm mọi cách nâng cao
văn hóa đất nước theo hướng coi
trọng khoa học - kỹ thuật, để
sớm nâng cao đời sống của nhân dân. Ông
phê phán tình trạng kinh đô Huế luộm
thuộm, mất vệ sinh, công thự dột nát,
lương bổng quan lại quá ít ỏi,v.v... Ông
nêu hàng loạt vấn đề quan trọng như:
nên sáp nhập các tỉnh để giảm
bớt số quan lại và có điều kiện tăng
lương cho quan lại nhằm giảm tệ tham
nhũng, khuyến khích tính liêm khiết; đề
nghị sửa đổi chính sách thuế, đánh
thuế nhà giàu nặng hơn nhà nghèo, đánh
mạnh vào xa xỉ phẩm, mặt khác không nên
cấm dân dùng đồ đẹp, đồ sang
khiến cho văn vật ngày càng kém, áo xiêm ngày càng
tồi; đề nghị sửa đổi chế
độ thi cử, chú trọng bồi dưỡng
nhân tài về nhiều mặt, thành lập các môn
học thực dụng, dùng quốc âm trong công văn
thay cho chữ Hán, lập địa đồ
quốc gia và các tỉnh, kiểm kê dân số,
lập trại tế bần, viện dục anh (nhà
trẻ), v.v... (xem Điều trần về cải
cách phong tục, Học tập bồi dưỡng
nhân tài, Tế cấp bát điếu...).
- Về mặt ngoại giao, Nguyễn Trường
Tộ phân tích cho triều đình thấy rõ
cục diện chính trị trên toàn thế
giới, để biết ứng xử một cách
linh hoạt (xem Thiên hạ đại thế
luận). Ông chỉ ra những mâu thuẫn giữa
Pháp với Anh và Tây Ban Nha và khuyên triều đình
nên chủ động mở rộng bang giao với
nhiều nước, nhất là với nước
Anh, để chế ngự bớt tham vọng và
khả năng xâm lược của Pháp. Khi nước
Pháp có sự biến lớn năm 1870 - 1871, vua
Napoléon III mất ngôi, chế độ cộng hòa
Pháp phục hồi, Nguyễn Trường Tộ nêu
một loạt kiến nghị, hướng dẫn
triều đình xúc tiến ngoại giao trực
tiếp với Chính phủ Pháp, khéo léo đối
phó, ngăn chặn bọn chỉ huy quân viễn
chinh Pháp ở Soái phủ Sài Gòn, nhằm tìm cách
thu hồi lại sáu tỉnh đã bị chiếm
(xem Lục lợi từ và các tờ bẩm
cuối năm 1866 đến tháng 2-1871).
- Về mặt quân sự, Nguyễn Trường
Tộ tuy là một người "chủ hòa",
nhưng không có tư tưởng "chủ hàng"
hoặc hòa bình vô nguyên tắc. Năm 1867, ông khuyên
triều đình "ra sức cải tu võ
bị", đề phòng quân Pháp từ Nam Kỳ
đánh lan ra cả nước. Ông là người
đầu tiên nêu lên một chính sách quân sự có
hệ thống như: trọng võ ngang trọng văn,
quý trọng người lính, ưu đãi sĩ
quan, biên soạn lý luận binh pháp, đào tạo
cán bộ chỉ huy, tạo dựng một quốc
thể về mặt binh bị, chuẩn bị
điều kiện tác chiến trong thành phố, tìm
cách dùng người trong vùng địch chiếm,
v.v...
Ngoài những bản điều trần và luận
văn tạo nên một công trình trí tuệ vĩ
đại vô giá, Nguyễn Trường Tộ còn
để lại một số hoạt động
thực tiễn xuất sắc như: Năm 1862 -
1863, ông thiết kế xây dựng tòa nhà nguyện
của dòng tu nữ ở Sài Gòn. Năm 1864 - 1866,
ông thiết kế xây dựng bốn ngôi nhà trong
giáo khu Xã Đoài. Mấy công trình này của ông
thuộc về những công trình kiến trúc đầu
tiên theo kiểu châu Âu ở Việt Nam giữa
thế kỷ 19. Cũng giữa những năm 60
thế kỷ 19, khi hoạt động ở quê nhà,
ông đã giúp Tổng đốc Nghệ An Hoàng Tá
Viêm đào Kênh Sắt, một công trình xưa kia
Cao Biền rồi Hồ Quý Ly dự định làm
mà không làm nổi. Ngoài ra, ông còn vận động
dân chúng ở Xuân Mỹ, quê hương bên nhà
vợ ông, cùng nhau dời làng từ trong núi
rừng đầy lam chướng ra nơi thoáng
đãng, thuận lợi canh tác.
Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường
Tộ đã vượt hẳn lên trên tầm
thời đại giữa thế kỷ 19 ở
Việt Nam. Vua Tự Đức tuy đã có lúc
triệu ông "vào kinh để hỏi việc
lớn" và phái ông sang Pháp thuê thầy thợ,
mua sách vở, máy móc, định du nhập kỹ
thuật (năm 1866 - 1867), nhưng nói chung, triều
đình nhà Nguyễn cũng như các nho sĩ, văn
thân thời ấy chưa hiểu nổi luồng tư
tưởng của ông, nên chưa coi trọng đúng
mức những kiến nghị cách tân của ông.
Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường
Tộ bị lãng quên như một luồng ánh sáng
rọi vào đám sương mù dày đặc.
Ông chết âm thầm ở làng quê Bùi Chu ngày 10 tháng
10 năm Tự Đức thứ 24, tức 23 tháng
11 năm 1871.
|