Những bài cùng tác giả
Bài hát Lương Châu
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
“Lương Châu Từ”của Vương Hàn cũng đẹp như ngâm khúc chinh phu chinh phụ của
nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, quan tái tiễn người. Rất lạ, giọng người bạn Quảng
Đông đọc những vần thơ Đường bằng tiếng Hán Việt rất du dương. Đọc bằng
tiếng Quảng Đông tuy không bằng, nhưng hay hơn tiếng Quan Thoại thanh âm khô
và ngắn. Người bạn trẻ này chỉ biết bồ đào là một loại trái cây, không rõ
trái gì. Ít nhất, anh chàng không dám nói liều là trái từ xứ… Bồ Đào Nha.
Trương Thái Du dịch thoáng:
Rượu ngon hồng chén dạ quang
Lòng ham, nhạc giục hoang mang tỳ bà
Đừng cười ra trận ta say
Chiến chinh máu chảy xưa nay ai về
Chiến binh thời nào có khác chi nhau! Nhân dư hương ngày 30-4 còn đó, độc
giả thân mến có thể nào sửa giùm ý này cho có vần có điệu, gửi những người
ra đi không về, suốt dọc đường chiến chinh từ Nam lên Bắc, những người cũng
nòi giống Việt Nam nhưng biến thành kẻ thù một cách tình cờ. “Chiến binh ôi!
Mắt nhìn hoài không cạn. Dặn dò tràn không vơi. Tình em lưu nơi đáy cốc.
Chàng có nghe chăng. Tiếng đàn thay tiếng em than. Mốt mai chẳng thể quay
về. Chiến binh ôi! Nhớ nhất điều chi?” Dạ Quang Bôi, yé quang bei
Đời Hán, vùng ngoài quan ải nếu không phải là nơi đi đầy, cũng toàn việc
binh đao. Bài hát Lương Châu thật hiếm có, chỉ trong một câu ngắn, ghi lại
một không gian lịch sử: Lương Châu hồi đó chưa thuộc “thiên triều”, hiện giờ
thuộc Cam Túc. Thời cổ đại, Tây Vực ám chỉ một vùng
rộng lớn ngày nay gồm
Tân Cương, Trung Á, Tây Á. Người Hán gọi tất cả người không-Hán miệt đó là
“rợ” Hồ, Hu 胡, đám rợ miền Bắc và Tây, gồm người Persian, Sogdian, Turkish,
Xianbi, Indians, Kushans, và Xiongnu. Xiongnu: Hung Nô, rất quen thuộc với
người mình. Nói chung, Man Di Nhung Địch đều kém cỏi không bằng “người Hán”,
dẫu tất cả những món trong bài thơ, người Hán hoàn toàn không có, hoặc bị
các Rợ wính phá đến phải làm Vạn Lý Trường Thành. Có thể vì có nhiều bảo vật, Khotan dần dần bị Trung Hoa nuốt trọng. Tham
vọng “đại Hán” lấn chiếm thiên hạ, dù tốn hàng ngàn năm, là bài học lịch sử
không bao giờ quên. Vườn nho Khotan như một thảm nhung xanh cạnh sa mạc cát bỏng. Nho ở Khotan
nhiều loại, không hột, ngon ngọt, làm nho khô hay rượu. Rượu nho hồng
Khotan, hồi xưa nổi tiếng khắp miền Trung Á. Uống rượu Khotan phải dùng ly
bằng ngọc trắng Khotan như ly kế bên. Thời Hán Vũ Đế, có mang nho giống về trồng trong cung điện. Nhưng bảy trăm
năm sau nho vẫn chưa phải là loại trái phổ biến. Đường thiên lý từ Khotan
đến Bejing là 3200 km. Thi sĩ đời Đường Vương Chi Hoán than rằng tiếng sáo
của người Khương cứ reo mãi làm chi, khiến người chốn biên cương có nhớ cũng
đành, vì Ngọc Môn Quan xa tới nỗi “gió xuân không tới được/xuân phong bất độ
Ngọc Môn Quan.” Vì thế, nho và rượu nho Khotan chỉ dành cho vua chúa. Mãi
đến đời Đường Thế Tông, Trung Hoa mới đem giống nho vú ngựa về trồng ở
Trường An, và bắt đầu học cách chế tạo rượu nho mà họ tấn phong là bồ đào mỹ
tửu, so với rượu Khotan, vị thơm và màu hồng kém tươi. Trên những tấm gương
đồng bắt đầu có hoa văn dây nho. Cũng từ đời Đường, Lý Bạch, mẹ người Tây
Vực, cha người Hán, bắt đầu giòng thơ ngất ngưởng rủ trăng uống rượu “Không
bạn, uống mình ta. Mời trăng cùng nâng chén…” Trong số cống phẩm từ Khotan cho Trung Hoa, có dạ quang bôi, chén dạ quang.
Dạ quang trong văn cảnh là tĩnh từ, không phải tên của một loại ngọc/đá nào
cả, chỉ hàm ý ca tụng vẻ đẹp của chén ngọc trong vắt, ban đêm toả ánh sáng
đẹp như trăng. Chén dạ quang càng không phải là “ngọc lưu ly”. Lưu ly là
thuỷ tinh, làm bằng cát, Quartz SiO2. Mãi đến đời nhà Đường,
Trung Hoa vẫn không làm được đồ thuỷ tinh, phải nhập từ Trung Á. Thuỷ tinh
không phải vật tầm thường, mà là tinh hoa của nền văn minh Trung Á, xin trở
lại trong một bài khác về “ngọc lưu ly”.
Chămpa/Chiêm Thành chịu ảnh hưởng Ấn Độ, cũng có lưu ly. Trong cống
phẩm của Chămpa cho Trung Hoa, có chuỗi “ngọc lưu ly”. Trong tiếng Việt, lưu
ly không còn dính líu tới thuỷ tinh, mà ám chỉ sự trong trẻo hoặc men bóng
như ngọc, ví dụ ngói lưu ly, hay trong thơ: Cảm vì em
bước chân đi
Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn. Vũ khúc nghê thường Hồ nữ tay ngon như bạch ngọc nhấn phím đàn tỳ là ai? Vũ nữ người Hồ dong
dỏng, tóc hung dóc thành nhiều bím, da trắng, mũi cao, mắt to, chân dài. Đẹp
nhất là hai bờ vai mịn và cánh tay dịu như rắn uốn. Vũ khúc xoay tròn của
người Hồ đẹp nổi tiếng khiến Bạch Cư Dị suýt rớt linh hồn vào ly rượu. Qua
một DVD, người xem có thể chóng cả mặt, nhưng nét hoa em vẫn tươi, cuốn trăm
buớc giữa ngàn ngàn hoa tuyết phiêu phiêu như mảnh lụa. Sóng mắt liếc rất
tình, nhưng khuôn mặt đoan chính. Thân hình chập chờn úp mở nét đẹp xử nữ
thanh tân. Y phục bó sát với những gam màu tươi sáng nổi bật cả thảo
nguyên.
Yang Guifei khiến vua Đường mê mẩn chỉ vì nàng biết múa điệu Hồ, tức
điệu nghê thường, dù nàng có hơi sổ sữa. Ở Tây An, Thiểm Tây, “Vũ khúc Nghê
Thường do Dương Quí Phi sáng tác” trình diễn cho khách du lịch, vũ công ăn
mặc vừa Ấn Độ, vừa Nghìn Lẻ Một Đêm, vừa Trung Hoa, tuy khá …năm cha ba mẹ,
nhưng cho thấy họ không thể từ chối xuất xứ của vũ điệu này. Người Việt một
năm thưởng thức khúc nghê thường một lần, in trên hộp … bánh trung thu, giai
nhân bới tóc xiêm áo giải lụa bay loạn, “made in Hongkong,” mà không hay
điệu múa này từ Tây Vực.
Đôi Mắt Tây Vực Ngoài Quan Ải
Bức ảnh hiếm hoi, cô gái Uighur thảo nguyên dong ruổi, mắt mở to đầy nghi
vấn. Kim Dung có lẽ cũng mê vẻ huyền bí của cô gái Hồ. Trong Ỷ Thiên Đồ Long
Ký, nhân vật Tiểu Siêu, có mẹ Ba Tư, Tía Sam Long Vương Kim Hoa Bà Bà và bố
Trung Hoa, Hàn Thiên Diệp. Kim Dung xây dựng tâm lý cô như một tiểu thư Hoa Hạ miền Nam mơ mơ màng màng con cá vàng. Nếu cô gái
Trung Hoa tự cắt bỏ tay mình khi nam nhân lỡ chạm phải, thì cô gái Tây Vực
rút ngay dao găm cán ngọc thủ sẵn dưới chân, tiện ngang một nhát cắt ngay
bàn tay nam nhân loạng quạng. Tiểu Siêu vì yêu thầm Vô Kỵ nên người ngọc mềm
như lụa. Chỉ đến khi quần hùng quần tà quì xuống đợi lệnh Tiểu Siêu, Vô Kỵ
mới hay nàng là Đại Thánh Nữ, giáo chủ Minh Giáo Ba Tư. Trên mặt biển sóng
nhấp nhô, giây phút biệt nhau, Thánh Nữ chải tóc cho Vô Kỵ lần cuối, giọt
ngọc vũ bão rơi, môi nho rớm máu, chỉ muốn ở lại Trung Nguyên kề cận công
tử, ngàn lần không muốn xa chàng trở lại xứ Ba Tư
Ngàn mây đỡ chân thiếp
Ngàn hoa rải quanh thiếp
Không bằng được gặp chàng
Bên bờ cỏ Trường Giang
Vương triều Khotan, Hvatäna-kshīra


Năm 1878, Khotan hoàn toàn
thuộc về Trung Hoa> Khotan được gọi dưới nhiều tên. Khotan, tiếng Sanskrit là
Kustana, tiếng Hoa là Yu-than, Yu-tien, Kiu-sa-tan-na, và Khio-tan. Ngày
nay, người Trung Hoa gọi vùng này là Hetien, thuộc vùng tự trị Tân Cương.
Ngọc ở đó, họ gọi là ngọc Hetian. Khotan chỉ cách sa mạc Tử Thần Taklamakan 10km. Chính thức thành lập từ thế
kỷ thứ 3 TCN, vương triều nhỏ bé nhưng giầu có này ban đầu là một miền đất
Phật, di tích các hang động tới giờ vẫn còn nhiều. Cuộc hôn nhân với một
công chúa Đường triều, quân vương Khotan nhắn riêng, “nàng nhớ mang theo tằm
mới có lụa mà mặc, chúng tôi chỉ mặc vải thô”, công chúa xuất giá với một
con tằm giấu trên mũ. Hoá ra màn Trọng Thuỷ/Mỵ Châu nơi đâu cũng có và phụ
nữ giành độc quyền lụy vì tình. Khotan từ đó thủ đắc kỹ thuật dệt lụa tơ tằm
của nhà Đường. Lụa Khotan một phen bá chủ thị trường Trung Á. Về sau kỹ
thuật này truyền sang Iran, rẻ hơn lụa Trung Hoa, nhờ gần hơn. Dân tộc Khotan là tập hợp của nhiều giống dân du mục, có tên Urguys hay
Uighur (tiếng Việt là Duy Ngô Nhĩ), nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, theo đạo Muslim kể
từ thế kỷ thứ 10 khi Khotan lọt vào ảnh hường của Ả Rập. Cũng giống như
Chămpa, xứ nhỏ nhưng giầu có, Khotan là miếng mồi ngon giữa nhiều thế lực
chính trị trong vùng. Từ khoảng giữa 1700, Trung Hoa đã tìm đủ mọi cách để
thôn tính Khotan. Cho đến năm 1878, Khotan hoàn toàn thuộc về Trung Hoa. Tuy
mang tiếng “khu tự trị”, nhưng đến mức độ nào, vẫn là câu hỏi. Cũng như đám
Parthians, đám Gurkha, hay Taliban… không chịu khuất phục ngoại bang, Tân
Cương-Tây Tạng luôn là nỗi nhức nhối của chính quyền Trung Quốc. Do chính
sách di dân của Beijing, từ 1949 dân Hán tại Tân Cương tăng từ 7% đến hơn
40%. Miệt Tân Cương, Tajikistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan và Afghanistan sẽ
luôn luôn là những điểm tranh cãi công khai/ngấm ngầm cho Mỹ-Trung Hoa-Nga
Sô-Ấn Độ vì vị trí địa lý và tài nguyên. Vài con số ý nghĩa
Vào những năm 1910-1930, khi đoàn thám hiểm của Aurel Stein đến Khotan, họ
thấy mặc dù đất hoàng thổ rất phì nhiêu, dân số chỉ khoảng 200.000, gấp
mười lần so với 20.000 thống kê thời Hán. Hai con số này rất có ý nghĩa cho
những tìm hiểu dân tộc học, nhất là ở Việt Nam, nơi có nhiều nền văn hoá
trước khi nước Việt đựợc thành lập. Theo Hậu Hán Thư, dân Giao Chỉ thời Hai
Bà Trưng là 400.000. Con số này đúng hay sai? Nếu tạm dựa trên hai con số
400.000 và 17,582 năm 1930 (1), phải tính theo phát triển hàm số mũ hay
phải dùng phép tính luỹ thừa để tìm ra dân số Việt tộc vào thời Hồng Bàng,
thời Văn Lang? Dân số, địa điểm, không gian và thời gian thường vắng bóng
trong các nghiên cứu về sử Việt, mà tính “tự hào dân tộc” không phải đối
tượng của môn sử học, chỉ làm học trò như tôi bối rối.
Con Đường Bạch Ngọc/Nephrite Road

Khoảng 3000 năm đến 5000 năm truớc, các loại đá quí từ Afghanistan, Ấn Độ và
Khotan đã tạo thành con đường Bạch Ngọc/Nephrite Road và Con Đường Lam
Ngọc/Lapis Lazuli, trao đổi các loại đá quí, vàng bạc và nữ trang với châu
Âu, là một nơi hiếm đá quí mà cũng chẳng có tơ tằm. Loại hàng quí nhất, chính là ngọc Nephrite trắng, chỉ tìm thấy ở Khotan, nổi
tiếng khắp miền Trung Á. Những ngôi mộ ở Urals, Kazakhstan, Siberia, ở
Turbino, Okunevo… tìm thấy nhiều đồ ngọc nephrite. Email trao đổi với một
bạn Uighur, ngọc, tiếng Uighur là khaxtexi (qashteshi). Người Uighur đã
biết giá trị của nephrite và chế tạo được dụng cụ cắt, mài giũa từ 3000 năm
trước công nguyên. Từ Khotan và Yarkand, thương nhân chất đầy hàng hoá trên
lưng lạc đà vượt hàng ngàn dặm tới các nuớc vùng thuộc thảo nguyên Trung Á.
Con Đường Tơ Lụa
Năm 138 TCN trào Hán Vũ Đế, Trương Khiên mạo hiểm 30 năm, hoàn thành sứ mạng
mở cánh cửa cho nhà Hán ra phương Tây. Từ thành Dunhuang/Đôn Hoàng đến
Khotan, dần dần thành hình một con đường, men giữa sa mạc Taklamakan và rặng
Kunlun/núi Ngọc nối với Con Đường Ngọc Bích đã sẵn có. Từ đó, triều Hán mới biết tới nephrite Khotan. Họ học từ người Urguys và
người Ấn độ nghệ thuật chạm khắc, mài ngọc. Họ cũng đã đi khắp các cửa sông
miền Khotan tầm ngọc, nhưng kết quả rất ít, nên họ đành chờ đợi nguồn duy
nhất từ người Urguys.
 Khotan cung cấp ngọc, nữ trang, giấy, bông vải, thảm, bắp, trái cây cho hai
miền Mesopotamia và tiền-Trung Hoa. Đổi lại, nguòi Trung Hoa cung cấp kỹ
thuật in ấn, thuốc súng, địa bàn, và nhất là tơ lụa. Từ đại đế César đến nữ
hoàng Cléopâtre đều khoác áo choàng khăn lụa Trung Hoa. Người La Mã mê tơ
lụa của Trung Hoa đến nỗi gọi nơi này là Seres, tiếng Hy Lạp, có nghĩa tơ
tằm. Một cân lụa đổi một cân vàng. Bạch Cư Dị tả cô em dệt lụa khéo như thể
vừa dệt vừa lấy mẫu từ đàn nhạn đang bay trên trời. Tên Con Đường Tơ
Lụa/Silk Road mới có từ thế kỷ 19, do một nhà nghiên cứu người Đức, Ferdinan
von Richthofen đặt, Seidenstraße, mà tính lịch sử không bằng tên Con Đường
Ngọc Bích. Trung Hoa không có ngọc nephrite
Ở Liêu Ninh -phía bắc Beijing, thuộc đông bắc Trung Hoa và Nội Mông- chỉ
có loại đá bây giờ gọi là soapstone, độ cứng Mohs scale từ 2.5 đến 4, người
Trung Hoa lúc đó đã yêu lắm, gọi là “yu”, cẩm thạch, đá xanh. Năm 1970, tại
địa điểm Chifeng, thuộc Nội Mông, nhóm khảo cổ Nhật đào được cả trăm tượng
bằng soapstone, từ 3 đến 30cm. Hình người, đa số là phụ nữ, chíên sĩ, thợ
săn, nô lệ, thầy phù thuỷ…. Các con thú, nhiều nhất là rồng và heo, có cả
rùa, thỏ, mèo, chim, phượng hoàng, cú mèo, ve sầu, cào cào, bướm, sâu…
Soapstone không thể nào sánh được với nephrite, tuy vậy loại đá này đã hân
hạnh ghi lại thời Đồ Đá châu Á. Đó là nền văn hoá Hongshan (≈3500 -
≈2000TCN), bao trùm một vùng từ Nội Mông/Inner Mongolia, Hà Bắc/Hebei và
Liêu Ninh/Liaoning, lúc đó chưa cấu thành quốc gia, nên không có biên giới.
 Hình rồng kế bên cho thấy ý niệm về loài bò sát thời đó. Con rồng chữ C này,
được đặt tên Zhulong (Zhu; heo, long:
rồng), hay “pig dragon” đầu giống heo
thân giống rắn. Con rồng này đẹp nhất trong số 38 “rồng heo” đào được, cả về
kỹ thuật mài giũa lẫn “nước ngọc”. Những con thú này về sau cũng tìm thấy
nơi nền văn hoá Liangzhu (≈3400 - ≈2250TCN) ở hạ lưu sông Dương Tử; và ở
cuối đời nhà Thương (1700-1100 TCN). Các nhà Trung Hoa học coi Zhulong là
tiền thân của “văn hoá” rồng Trung Hoa. Soapstone được khai thác mãi đến
đời Hán mới cạn. Điều này cho thấy buớc chân lãng du của con người. Đồng thời, theo thiển ý,
sự cọ sát giữa những nhóm người trong một thời điểm và địa bàn tương đối
liên tục, đã khai sinh ra kết quả chung mà chủ nhân khó có thể chỉ là một cá
nhân hay một nhóm người. Từ trào Hán, Trung Hoa mới biết đến nephrite trắng ở Khotan. Từ đó họ học
từ người Urguys và người Ấn độ nghệ thuật chạm, khắc, mài ngọc. Họ cũng đã
đi khắp các cửa sông miền Khotan tầm ngọc, nhưng kết quả rất ít, nên họ đành
chờ đợi nguồn duy nhất từ người Urguys. Nhà Hán dành mua Nephrite với Ấn
độ. Các triều đại Trung Hoa tiếp theo luôn dành độc quyền mua nephrite của
Khotan. Triều đình chuộng hơn cả vàng và ngà, không để lọt ra ngoài miếng
nào, đặt tên là ngọc mỡ trừu/mutton-fat jade/yangzhi yu. Đội thợ cung đình
mài giũa chạm khắc thành ngọc tỷ, hốt, đồ trang sức, nghiên mực, ly chén,
thắt lưng… cho hoàng gia, và ban nhỏ giọt cho đại thần. Họ còn giữ bí mật
tuyệt đối, không cho biết bạch ngọc nephrite trắng xuất xứ từ đâu.
Năm 1780, khi nhà Thanh biết tới ngọc Burma, họ cũng dành độc quyền. Từ Hi
Thái Hậu có tới 3000 hộp đựng đồ ngọc. Vua Càn Long ngủ dậy phải cầm ngay
một vật bằng ngọc. Năm 1860, tám nuớc Tây Phương đốt phá Bắc Kinh, cướp đi
rất nhiều của cải. Từ Hi tiếc cố đô, cho xây lại Di Hòa Viên cực kỳ xa xỉ,
tốn 300 triệu lượng tiền. Năm 1900, quân Anh Pháp lại đốt phá Bắc Kinh lần
nữa và cướp phá Di Hoà Viên. Không phải ngẫu nhiên mà cả hai đại gia chuyên
mua bán đấu giá cổ vật, nhà Christie's và nhà Sotheby’s đều có trụ sở ở
Hongkong. Đa số cổ vật, người Hoa ẩn danh mua lại hết để rửa cái nhục hoàng
thành bị tàn phá, ngọc tỉ phiêu bạt. Ngọc tỉ kế bên 6cm, làm bằng ngọc trắng Khotan, chạm năm 1796 nhân dịp vua
Càn Long nhường ngôi cho thái tử. Ngọc tỉ này lưu lạc giang hồ, đại gia
Sotheby’s vớt được đâu đó, bán đấu giá 5.92 triệu đô la ở Hongkong năm 2007,
khiến thị trường ngọc nephrite trắng từ đây có một giá trị bất ngờ. Tiện đây
xin nhắc tới việc các đại gia kiếm tiền rất quí phái trên những đồ vật ăn
cướp. Tháng Hai 2009, nhà Christies’s bán đấu giá hai con thỏ và chuột bằng
đồng, thuộc sưu tập riêng của nhà vẽ kiểu Yves Saint Laurent. Phản ứng dữ
dội của Trung Quốc rất đáng ca ngợi, họ cho rằng hai món đồ này thuộc về
mười hai con giáp, trang trí văn phòng tứ bảo của vua Càn Long ở Cung Điện
Mùa Hè, bị Anh/Pháp cướp phá năm 1860. Trung Quốc đã tìm lại đượcc 5 trong
số 12 con, hiện trưng bày tại viện bảo tàng Bắc Kinh. Không rõ vụ việc sau
đó ra sao. Cổ vật Chàm và Việt Nam cũng lưu lạc ở các bảo tàng châu Âu
nhiều hơn ở lại VN, nhưng hình như không ai có ý truy tầm, dù với phản ứng
yếu ớt, “cha chung không ai khóc”.
Có thể định tuổi ngọc không?
Đa số chủ nhân tiệm nữ trang giải thích - rất hợp với nghĩa cử cao đẹp là
móc túi tiền các quí phu nhân, nhưng không với sự thật - “Em bảo đảm với ông
bà ngọc của em toàn là ngọc xưa không hà”. Nhưng chính họ cũng không biết
xưa là nhiêu tuổi. Có trăng nào không già, có ngọc nào không xưa, trời ạ!
Không thể áp dụng phương pháp đồng vị phóng xạ C14 để định tuổi ngọc; vì
khác với những bộ xương cổ đại có chứa chất hữu cơ, ngọc nói chung thuộc
nhóm silicate. Ngọc nào -đây đang nói về ngọc thật- cũng cả trăm ngàn hay
triệu tuổi cả. Vì vậy, nếu là thuần nữ trang hay cổ ngoạn, thời điểm làm
thành có thể là (vài) trăm năm trước, có thể là ngày hôm qua. Nếu là cổ vật
đào từ những ngôi mộ hay địa điểm khảo cổ, chỉ có thể định được thời điểm
chế tạo, bằng cách so sánh hoa văn chạm trên ngọc, với hoa văn trên những
món đồ được khám phá tại hiện trường, chẳng hạn trên kiến trúc, chạm khắc
đền thờ, lăng mộ, nữ trang, tranh ảnh, quần áo. Những sai lầm khó sửa
Hiện nay, mặc dù giới học thuật đều biết rằng lý lịch của các loại ngọc đã
được soi sáng, rằng từ ngàn năm các vương triều Trung Hoa luôn luôn dấu nhẹm
về nguồn gốc của loại ngọc mà họ dành độc quyền, nhưng tuyệt đối trên các
thông tin ở website, sách vở nơi các nghiên cứu nghiêm trang, vẫn ghi chú
rất sai lầm, gọi Chinese mutton-fat nephrite thay vì Khotan mutton-fat
nephrite. Điều này cho thấy sự hiểu lầm triền miên của đám nghiên cứu Tây Phương: luôn
bị bóng ma văn minh Trung Hoa ám ảnh; chúng khẩu đồng từ rất phù hợp với
chính sách vĩnh viễn của người Hoa: dù khinh bỉ Man Di Nhung Địch, nhưng Rợ
hở ra cái gì, chàng thâu gom đủ thứ và hoà tan tất cả vào giòng Đại Hán.  “Đại Hán” là một phạm trù văn hoá, vô nghĩa về mặt nhân chủng. Lúc đó, nhà
Thương rồi nhà Châu chỉ rải rác ở miệt bắc sông Hoàng Hà, như bản đồ đính
kèm. Không có chủng nào gọi là “chủng Hán”. Bằng cớ, Hán Cao Tổ Lưu Bang, không
phải … người Hán. Họ Lưu xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo ở đất Bái
thuộc nước Sở. Bái hiện nay thuộc Từ Châu, Giang Tô, vùng biển. Chàng không
ưa làm ruộng, thích lêu bêu nên hợp với nghề hơi kém quí phái, nghề chăn tù.
Đất Báí là vùng của “rợ” Việt, dù 18 đời Sở Vương do nhà Châu bổ nhiệm,
nhưng dân chúng vẫn là “rợ Việt” (nhưng không phải Việt Nam, vì lúc đó chưa
có nuớc Việt Nam, dù đồng bằng sông Hồng đã có cư dân). Ngọc Môn quan!
 Yumen Guan Pass! Jade Gate Pass! Ngọc Môn quan! Trung Hoa có hai cửa ải.
Nhạn Môn Quan ở phía Bắc chim nhạn bay kín trời, là nơi Chiêu Quân sang xứ
Hồ. Ngọc Môn quan ở phía Tây, nhưng không phải thò tay xuống đất là có ngọc
cầm chơi, mà chỉ vì tất cả ngọc nhập vào đất Trung Hoa đều đi qua cổng này.
Ngọc Môn Quan cách thành phố Đôn Hoàng 90 km, là trạm biên giới xa nhất về
phía Tây của Trung Hoa lúc đó. Khu vực này khoảng 373 km vuông. Ngọc Môn
quan được xây bằng đất hoàng thổ, loess, dài 24.7 mét, ngang 26.5 mét và cao
10.7 mét. Hai dòng sông ngọc
Khotan khoảng 720 km vuông, mấy năm mới mưa một lần. Ở độ cao 1,410 mét
trên mặt nước biển, Khotan là môt ốc đảo cao nhất trong khu lòng chảo Tarim.
Khotan, có nghĩa “thành phố ngọc”. Có lẽ không nơi nào trên thế giới, mà
“sông rót ngọc từ trời cao”. Người Urguys thành kính gọi hai giòng sông thần
thánh này là ranījai ttāji, ‘the rivers of precious stone”, cái nôi của sự
sống và nền văn minh ốc đảo Khotan. Người Uigur gọi Karakash River,
Qara-qās, “bờ sông đen” hay “sông ngọc đen”
vì ngọc đen hay xanh đậm tìm thấy ở đây. Giòng sông dài 808 km chảy từ rặng
Kunlun/Qurum gần đỉnh Karakorum. Đường Tam Tạng trong “Đại Đường Tây Vực
Kí” có đi ngang giòng sông này, lãnh cái nóng thiêu người, phải mượn quạt
của Thiết Phiến Công Chúa tức Bà La Sát. Yurung-kāsh, “bờ sông trắng” hay
“sông ngọc trắng”, trôi xuống toàn ngọc trắng. Sông dài 513 km phát nguyên
từ rặng Muz Tagh (núi tuyết) gần biên giới phía Bắc cao nguyên Tây Tạng. Từ
Venice,
Marco Polo 17 tuổi cũng đi qua con sông này tới Seres. Chàng tuổi
trẻ có chứng kiến cảnh người Uigur xuống sông vớt ngọc và lầm tuởng là
agate, một loại đá nếu để cạnh nephrite như con gà với con công. Tìm ngọc dưới sông
Loại ngọc có giá nhất, là ngọc tìm được dưới lòng sông. Truyền thống Uiguys
rất ít “khai mỏ” ngọc, tức không đào xới bằng cuốc. Sợ đau lòng ngọc? Không
kiên nhẫn nào sánh bằng kiên nhẫn của người Urguys tìm ngọc, mà cũng khó có
sự tinh tường nào bằng. Mỗi mùa xuân từ tháng sáu đến tháng chín, tuyết tan
từ đỉnh núi. Nước đá lũ lựơt chảy xuống xuôi cuốn theo những hòn đá từ trên
núi cao, nơi không ai có thể lên tới được. Mùa hạ, từ tháng mười đến tháng
năm, nuớc rút bớt, lòng sông hẹp lại, là lúc người Uygurs đi săn ngọc lẫn
với những loại đá khác nằm rải rác trên bờ sông hay dưới giòng nuớc. Khi
Khotan còn vua, mỗi năm đến mùa vớt ngọc, nhà vua thân lội xuống sông tìm
ngọc, giống như vua nhà Lý của ta làm lễ tịch điền. Theo người Uygurs, nơi nào giòng nuớc sáng rực, nơi đó có ngọc. Trẻ con
Uygurs 10 tuổi cũng phân biệt được đá ngọc lẫn trong đá khác. Chỉ có khoảng
50 đến 60 người kiếm ngọc quanh năm. Nông dân chỉ vào ngày mùa rảnh rỗi mới
kiếm thêm. Cả làng nắm tay nhau thành hàng ngang đi dưới lòng sông, nước
trong suốt cạn đến bắp chân, họ cảm được chất ngọc quí với bàn chân trần.
Nguồn ngọc này không bao giờ ồ ạt, mà cũng không bao giờ cạn. Tất cả tuỳ vào
lưu lượng hai giòng sông cuốn những phiến đá nào nằm trên dòng chảy. Trên
bãi sông, không phải tất cả đều là ngọc. Mỗi năm, chỉ vớt đựoc chừng 250 kg đến 1000kg loại hai. Còn loại hạng nhất,
không tỳ vết, rất hiếm. Ngọc được bán cho lái buôn từ Beijing, đặt tên là
ngọc Hetian, qua tiếng Việt, là ngọc Vu Điền hay Hoà Điền.
Vì vậy, bức ngọc khổng lồ hiện để ở bảo tàng Bắc Kinh, phải nói là vô giá.
Phải phục dân tộc Trung Hoa thật kiên trì và thích làm những chuyện khó.
Năm 1780, tìm thấy một khối ngọc nặng 6 tấn ở núi ngọc Kun Lun. Phải mất 2000
người ngựa, trong vòng ba năm mới kéo được khối ngọc này về Bắc Kinh. Vua
Càn Long tuyển toàn thợ khéo, làm việc bẩy năm, ghi lại truyền thuyết về vua
Đại Vũ trị lụt ở giòng Hoàng Hà. Vũ kiên trì mất 13 năm khai 9 tuyến đường
băng ngang núi, khơi 9 con sông khiến nuớc sông Hoàng Hà không còn gây ngập
lut. Vua Nghiêu giết chết cha của Vũ vì không hoàn thành nhiệm vụ trị thuỷ.
Nhưng vua Thuấn -con vua Nghiêu- lại cảm công của Vũ mà nhường ngôi. Vũ trở
thành Đại Vũ, vua thứ nhất của nhà Hạ (2100 TCN). Theo Nguyên Nguyên, Đại Vũ
sinh ở Tứ Xuyên, thuộc tộc Khương, cũng là giống “rợ”. Tạc xong, khối ngọc còn 4.5 tấn. Góc bên phải còn con dấu của Càn Long.
Tượng “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” nặng 4,5 tấn cũng vĩ đại như bức
ngọc trên. Tim ngọc theo truyền thuyết: loã thể bên bờ
Truyền thuyết này chắc không phải của người Uigurs. Đa phần là của mấy thi
sĩ Trung Hoa say xỉn, bầy vẽ siêu hơn cả Hồng Lâu Mộng, nào là trinh nữ nào
là âm dương, nào là trăng sáng nào là ngọc gọi. Mấy ông Tây không rành mấy
ông Tầu, nên xanh lè mắt truớc hình ảnh lãng mạn tột cùng này: đêm trăng,
trinh nữ Urguys loã thể vừa đi dọc bờ sông vừa hát khúc ngọc ca. Bàn chân
trần nàng dẫm lên những phiến đá. Nàng là âm ấm áp, những phiến ngọc vốn có
tính dương lạnh lẽo, cảm động trước toà ngọc mời gọi ấy mà động tình lên
tiếng. Trinh nữ chỉ việc chạy ào tới, mừng rỡ ôm lấy chàng mang về. Chàng
có hoá thân thành người, đêm đêm trò chuyện vói giai nhân? Nếu hai ba hòn
ngọc lên tiếng một lúc, nàng biết ôm chàng nào truớc? Chàng sẽ vừa ghen vừa
sầu làm thơ lủi thủi mách cáo chị Hằng phân bua chú Cuội? Chỉ người Trung
Hoa miền Nam Dương Tử, có thể cọp pi thi sĩ nhạc sĩ Việt Nam, mới thích ngắm
trăng ngắm sao, quên rằng Tây Vực, nơi ngày nóng đêm lạnh chết cá chết tôm,
độ chênh lệch từ 25 đến 30; không mặc quần áo ra ngoài trời sưng phổi mà
chết. Họ cũng quên rằng ban ngày, gió sa mạc thổi cát và đất vàng bay mù mịt
khiến có khi tầm nhìn chưa tới 50m, ban đêm chắc còn rùng rợn hơn nhiều. Vì
vậy, khi đọc sử hay truyện cổ tích của Trung Hoa, đừng say xỉn và khoan
“thành kính nghiêng mình ”. Ngọc đến từ đâu ?
 Đâu đó trên thượng nguồn, nơi vết chân con người không đến được, từ hồi nào
không rõ, có một mỏ ngọc hay một mạch ngọc hình thành do dung nham từ lòng
đất dâng trào. Do sự xâm thực và bào mòn, các khối đá, có cả đá ngọc, bị
nước cuốn trôi xuống hạ lưư. Không ảnh từ satellite, thấy rõ mạch ngọc ngoằn
ngoèo chỉ bằng ngón tay ở trên mặt, có thể có một lớp ngọc trắng lớn hơn ẩn
phía dưới, nhưng cũng có thể không có gì. Điều này cho thấy năng lực phi
thường và huyền bí của tạo hoá cũng như cơ duyên của dân tộc Uighurs, duy
nhất làm chủ khối ngọc nephrite trắng qua mấy ngàn năm. Điều lạ, kể từ khi
Khotana bị sát nhập hẳn vào Trung Hoa, khối lượng ngọc nephrite trắng hầu
như càng ngày càng ít trôi xuống nữa.
 
Càng hiếm, người ta càng hâm mộ vẻ đài các của bạch ngọc nephrite. Khoảng
gần đây, người Hoa cố dùng phương tiện cơ giới để đục núi Kun Lun, nhưng núi
lắc đầu không cho ngọc nữa. Dù nephrite Khotan có màu vàng, xanh, nâu. Nhưng
nổi tiếng nhất, vẫn là "mutton fat" jade, mịn như mỡ dê, trắng như ánh
trăng, bóng lọng như thoa dầu khác hẳn tất cả nephrite trên thế giới.
Nephrite trắng Siberia có màu vàng nhạt. Nephrite trắng Korea có màu xanh
nhạt. Ngay cả Jadeite của Burma và Guatemala, tuy quí hơn, nhưng thiếu vẻ êm
mượt của Nephrite Khotan. Người Hoa đã tìm ra gần bốn chục địa điểm khai
thác trên khắp nước; mong tìm kiếm nephrite trắng Khotan vốn không đủ cung
cấp cho thị trường nội địa. Nhưng hoài công. Sự hiếm hoi này cho thấy những phiến ngọc/cổ ngoạn/nữ trang, thật sự là ngọc
trắng nephrite Khotan, đều có lý lịch, không lang thang bừa bãi trên thị
truòng. Những quảng cáo trên internet, “mỗi tháng có thể cung cấp 5,000
vòng mutton-fat jade,” là chuyện dế mèn phiêu lưu ký cho nhi đồng.
Tóm tắt
- Thế giới chỉ duy nhất Khotan có ngọc trắng nephrite. Richard Gump, người
đầu tiên mở cửa hàng nhập cảng đồ cổ ngoạn châu Á vào thị trường Mỹ ở San
Francisco năm 1861, có nói “Trung Hoa xây dựng nền văn minh của họ trên
những hòn đá”. Đáng lẽ phải thêm “Trung Hoa xây dựng nền văn minh của họ
trên những hòn đá của người khác”. - Qua ngõ Khotan, Trung Hoa đã học được nhiều từ nền văn minh Trung Á, từ
Phật giáo đến những sản phẩm quí giá như ngọc, thuỷ tinh, bông vải, hương
liệu, trái cây, lông thú, gạc nhung, nhất là ngựa quí. - Ở Việt Nam có miếng ngọc trắng nephrite nào không ? Các trào Trung Hoa
đều độc quyền món ngọc. Thời đám di thần nhà Minh chạy sang Việt Nam, không
rõ có ông quan nào mang theo miếng ngọc vua ban. Không rõ đời nhà Thanh có
tặng khánh ngọc cho mười ba ông vua trào Nguyễn Việt Nam không. Nếu có, cũng
thuộc về hoàng gia. Vua Khải Định, trên ngực áo có cài một khánh ngọc màu
trắng. - Trong vòng hơn 400 năm (206 TCN–220 CN), nhà Hán bành trướng lãnh thổ từ
Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam. Khotan là miền viễn Tây, Việt Nam là cực
Nam. Vương quốc Khotan, dù có khối Hồi giáo hậu thuẫn, đã hoàn toàn bị
Trung Hoa thôn tính năm 1878. Riêng Việt Nam bền bỉ và cô độc trên con
đường giữ gìn nền độc lập, tuy có lúc thiếu tự chủ.
Soi trong đáy ngọc
Không phải ai cũng sở hữu được một miếng bạch ngọc mỡ trừu, Khotan
mutton-fat nephrite. Nếu có, đó là mối duyên vạn dặm vói đỉnh Qurum tuyết
phủ, với miếng đá trên triền núi từ trăm ngàn năm truớc, một ngày đẹp trời
theo giòng nuớc hữu tình cuồn cuộn về xuôi. Quãng đường cheo reo mấy ngàn
cây số từ hòn đá vô tri đến tay người thợ vô danh, chứa đựng bao điều nào ai
hay biết. Soi trong đáy ngọc, xin nhớ không chỉ cái đẹp diễm lệ của một món
cổ ngoạn hay một nữ trang đắt giá, mà cả một lịch sử bi hùng của một dân
tộc, cả một nền văn minh nay đã thay tên. Cũng nhớ luôn đến bản tin này: theo Radio Internationale France, tiếng Việt,
ngày 10 tháng tư 2009: Trung Quốc vừa xử tử hai người Urguys ngay trên chính
đất nước của họ, vì tội khủng bố. trần thị vĩnh tường California May 01-2009 ----------------------------------- (1)
http://vneconomy.vn/2009040210345706P0C11/dan-so-viet-nam-qua-cac-thoi-ky.htm
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Trần thị Vĩnh-Tường
|