Tình trạng béo phì trong dân số đang nhanh
chóng trở thành một vấn nạn y tế ở các nước
đã phát triển. Tháng Giêng năm 2003, trong
khi Mĩ đang chuẩn bị bước vào cuộc chiến
Iraq lần thứ II, Tổng giám đốc Y tế Mĩ,
Richard Carmona, cảnh báo quần chúng Mĩ rằng
nước Mĩ đang ở vào một giai đoạn nguy hiểm,
nguy hiểm hơn cả mối đe dọa của vũ khí tàn
phá hàng loạt của Saddam Hussein mà Mĩ khăng
khăng tố cáo! Thay vì tập trung vào mối
nguy hiểm về vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh
học, ông Carmona khuyên người dân nên nhìn
cho rõ mối đe dọa rất thật và chẳng phải
ở đâu xa nhưng
ở chính nước Mĩ. Mối đe dọa đó là tình
trạng béo phì.
Đe dọa là vì tình trạng béo phì (có
người cho là “bệnh”) có liên quan đến một số
bệnh hiểm nghèo như bệnh tim mạch, một số
ung thư, tiểu đường, cao huyết áp, v.v…
(Cũng phải mở một dấu ngoặc để nói thêm rằng
những mối liên hệ này vẫn còn trong vòng
tranh cãi.) Ở Mĩ có thống kê cho rằng mỗi
năm có khoảng 300.000 người chết vì béo
phì. Dù con số này không hoàn toàn chính
xác (thậm chí có vấn đề), nhưng nói chung ai
cũng đồng ý béo phì là một mối đe dọa lớn
đến dân số ở qui mô quốc gia.
Béo phì còn là một vấn đề y tế
lớn trong các nước đang phát triển như nước
ta. Kinh nghiệm các nước phát triển khác
cho thấy một khi đời sống kinh tế nâng cao
và tỉ lệ đô thị hóa tăng nhanh, tỉ lệ béo
phì cũng tăng theo. Vì thế, có người ví von
gọi béo phì là một “căn bệnh nước giàu”.
Ở nước ta ngày nay,
càng ngày càng có ít người chết vì những
bệnh truyền nhiễm, nhưng càng ngày càng có
nhiều người chết vì những bệnh có ít nhiều
liên quan đến eo bụng như cao huyết áp, bệnh
tim, tiểu đường, viêm khớp xương, v.v…
Một trong những vấn đề khó khăn
ở nước ta cũng như tại các nước đang phát
triển khác là vấn đề chẩn đoán béo phì.
Phải căn cứ vào cái chuẩn nào, hay tiêu
chuẩn nào để chẩn đoán? Body mass index
có phải là chuẩn vàng – “golden standard” –
hay không? Có thể áp dụng những tiêu chuẩn
chẩn đoán đang dùng trong các nước Âu Mĩ cho
người Việt chúng ta hay không? Bài viết này
sẽ trả lời những câu hỏi đó. Một số số liệu
dùng trong bài viết này được trích dẫn từ
các bài báo đã công bố và một số là tư liệu
(bạn đọc nào muốn trao đổi thêm hay có thêm
chi tiết có thể liên lạc trực tiếp với tác
giả.)
Tiêu
chuẩn vàng DXA
Béo phì (tiếng Anh gọi là obesity)
là một tình trạng cơ thể có quá nhiều
lượng béo có thể gây tác hại đến sức khỏe.
Bởi vì chất béo là một đặc điểm chính của
béo phì cho nên cái chuẩn vàng để xác định
ai là béo phì và ai không phải là béo phì
phải dựa vào chỉ số đo lường chất béo trong
cơ thể.
Có nhiều phương pháp đo lường (hay nói đúng
hơn là ước tính) lượng béo, nhưng phương
pháp chuẩn là dùng máy X quang có tên là
Dual-energy X-ray Absorptiometry (DXA).
Theo phương pháp này và như tên gọi, máy
dùng hai tia X quang chiếu vào cơ thể và dựa
vào tín hiệu mà hai tia X-quang phát ra,
cùng với một số giả định về sự phân phối hóa
chất, người ta có thể xác định có bao nhiêu
kílô chất béo, bao nhiêu lượng nạc, bao
nhiêu xương, v.v… trong cơ thể.
Lượng chất béo được chia cho trọng lượng cơ
thể và nhân cho 100 để cho ra tỉ lệ chất béo
(TLCB) trong cơ thể. Tính trung bình TLCB
trong cơ thể biến đổi theo từng độ tuổi và
giới tính. Phụ nữ có TLCB cao hơn đàn ông.
Người càng cao tuổi càng có TLCB càng tăng.
Nhưng tính cho toàn dân số, TLCB trong người
Âu Mĩ có thể biến đổi từ 15% đến 60%, và giá
trị trung bình từ 20% đến 30%. TLCB quá cao
hay quá thấp đều được xem là thiếu lành
mạnh, thậm chí nguy hiểm. Chẳng hạn như
những người có TLCB dưới 10% được xem là
“dưới trung bình”, hay “không lành mạnh”.
Dựa vào mối liên hệ giữa TLCB và
xác suất tử vong cũng như một số nguy cơ
bệnh tật khác trong dân số Tây phương, các
nhà nghiên cứu đề ra hai tiêu chuẩn để chẩn
đoán béo phì. Theo tiêu chuẩn này, bất
cứ người đàn ông nào có TLCB cao hơn 25% hay
bất cứ phụ nữ nào có TLCB cao hơn 35% được
xem là “béo phì”. Có thể nói đây là
tiêu chuẩn vàng (golden criteria) để chẩn
đoán béo phì vì giới y khoa thế giới nói
chung đều nhất trí, không ai tranh cãi thêm
về giá trị và sự hợp lí của nó.
Nhưng cái khó khăn ở đây là máy
DXA thường rất đắt, không phải phòng mạch
bác sĩ hay cơ sở y khoa nào cũng có. Ngay ở
các nước giàu có như Mĩ chỉ có các bệnh viện
lớn và các trung tâm y tế lớn mới có máy
này. Ngoài ra, nó còn đòi hỏi người sử dụng
phải trải qua một khóa huấn luyện về công
nghệ và kĩ thuật đo lường, chứ không phải ai
cũng làm được (và trong thực tế đã có nhiều
trường hợp diễn dịch sai kết quả DXA). Tại
các nước nghèo hơn ở Á châu máy này càng ít
hơn nữa. Chẳng hạn như ở Việt Nam, số bệnh
viện và trung tâm khám bệnh có trang bị máy
DXA chỉ đếm đầu ngón tay. Ở
Thái Lan, một nước có nền kinh tế và
y tế khá hơn Việt Nam, số bệnh viện có trang
bị máy DXA cũng chỉ khoảng 1% trên cả nước.
Sự ra đời
của “Body mass index”
Vấn đề đặt ra, do đó, là tìm
cách dùng các chỉ số nhân trắc để ước tính
TLCB mà không cần đến máy DXA. Ai cũng biết
trọng lượng cơ thể con người gồm 4 phần:
chất nạc, chất béo, xương và các mô liên kết
(connective tissues), và nước. Ai cũng một
khuynh hướng chung là trọng lượng con người
tăng theo tỉ số thuận với chiều cao: người
càng cao càng có trọng lượng cao. Do đó,
câu hỏi đặt ra là tại sao không dùng trọng
lượng và chiều cao để ước tính TLCB? Qua
nhiều nghiên cứu, như chiều cao và trọng
lượng, các nhà nghiên cứu đi đến một công
thức đơn giàn: lấy trọng lượng chia cho
chiều cao bình phương. Họ gọi tỉ số này là
body mass index (BMI), mà tôi tạm
dịch là chỉ số béo (nhưng tôi vẫn
dùng cách viết tắt BMI trong bài vì cách
viết tắt này rất thông dụng trong y học).
Cách tính cụ thể của chỉ số này như sau: Ví
dụ như người viết bài này cân nặng 70 kg và
chiều cao là 1,7 m; do đó, chỉ số béo = 70 /
(1,7 x 1,7) = 24,2 kg/m2.
Vì chỉ số béo có mối tương quan khá cao với
TLCB, và từ đó giới y khoa có một con đường
tắt: thay vì dùng máy DXA để đo TLCB, họ chỉ
dùng BMI. Các nghiên cứu về mối liên hệ
giữa BMI và sức khỏe rất đồ sộ, và tôi không
thể nào tóm gọn đầy đủ trong bài viết này,
vì kết quả không hoàn toàn nhất quán với
nhau. Tuy nhiên, dựa vào một số kết quả
nghiên cứu về mối liên hệ giữa bệnh tật và
chỉ số béo trong người Âu Mĩ, giới y
khoa phân loại chỉ số béo thành 4 nhóm như
sau (1):
Bảng số 1. Tiêu chuẩn phân định trọng
lượng cho người Âu Mĩ
Tình trạng |
BMI |
Thiếu cân (under-weight) |
<18.5 |
Bình thường (normal) |
18.5 – 24 |
Quá cân (over-weight) |
25 – 30 |
Béo phì (obese) |
>30 |
Theo bảng phân loại này, bất cứ một người Âu
Mĩ nào, nam hay nữ, có chỉ số BMI cao hơn 30
kg/m2 sẽ được xem là “béo phì”.
Để bạn đọc có thể hình dung ra thế nào là
béo phì, tôi xin lấy một ví dụ cụ thể: Giả
dụ như một người đàn ông có chiều cao 1,7 m,
nếu ông có trọng lượng 90 kg thì ông sẽ được
xem là béo phì; nhưng nếu trọng lượng giảm
xuống 80 kg thì “quá cân”. Còn một phụ nữ
Âu Mĩ cao trung bình 1,65 m sẽ được chẩn
đoán béo phì nếu trọng lượng của người đó
cao hơn 82 kg; nhưng nếu trọng lượng chỉ 45
kg thì một chẩn đoán “thiếu cân” sẽ áp
dụng.
Trong người Âu Mĩ hiện nay, cứ 3
người lớn (trên 20 tuổi) thì có 2 người hoặc
là quá cân hoặc là béo phì (tức BMI cao hơn
hoặc bằng 25). Đó là một tỉ lệ rất cao.
Điều đáng lo ngại hơn là tỉ lệ này tăng gấp
2 lần so với thập niên 1960s. Có người tiên
đoán rằng với đà tăng này, khoảng 40 năm
nữa, 100% dân Mĩ sẽ quá cân hay béo phì. Đó
cũng chính là lí do tại sao giới y tế trong
các nước Tây phương đánh giá béo phì là một
cơn đại dịch, một mối đe dọa đến sự sinh tồn
của một dân số!
Mặc dù BMI được dùng rất rộng
rãi, nhưng cũng bị chỉ trích rất nhiều. BMI
không thể là một chỉ số vàng để chẩn đoán
béo phì, vì nó không phản ảnh chính xác tình
trạng béo phì. Hai người A và B có thể có
cùng BMI, nhưng tỉ lệ chất béo hoàn toàn
khác nhau, vì có thể A có nhiều chất nạc,
trong khi đó B có nhiều chất béo, và BMI
không phân biệt nạc hay béo. Chẳng hạn như
nếu dùng BMI để chẩn đoán quá cân hay béo
phì, thì các nhân vật như Brad Pitt, George
Clooney, và Michael Jordan đều được xem là
“quá cân” cả! Thêm nữa,
nếu dùng chỉ số BMI > 30 thì các tài tử như
Sylvester Stallone và tay chơi bóng rổ Sammy
Sosa được xem là béo phì!
BMI và
người Á châu
Nhưng đó là những tiêu chuẩn cho
người Âu Mĩ, thế còn trong người Á châu thì
sao? Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng
ta thử áp dụng các tiêu chuẩn BMI của Tây
phương vào việc ước tính xem có bao nhiêu
người Việt và vài sắc dân khác trong vùng
Đông Nam Á béo phì hay quá cân (2-5):
Bảng số 2a. Tỉ lệ phụ nữ quá cân
và béo phì trong vài sắc dân Á châu dùng
tiêu chuẩn BMI của Âu Mĩ
Tình trạng |
Việt Nam (1) |
Thái Lan (2) |
Đài Loan (3) |
Hồng Kông (4) |
Thiếu cân |
14,7 |
5,9 |
8,5 |
14,5 |
Bình thường |
70,3 |
51,9 |
55,9 |
54,6 |
Quá cân |
14,6 |
34,7 |
34,0 |
29,2 |
Bèo phì |
0,4 |
7,5 |
1,6 |
1,7 |
Các con số
phần trăm được tính trên (1) 1391 người
Việt, (2) 507 người Thái, (3) 509 người Đài
Loan, và (4) 190 người Hồng Kông. Tất cả
đều trên 18 tuổi.
Bảng số 2b. Tỉ lệ đàn ông quá cân
và béo phì trong vài sắc dân Á châu dùng
tiêu chuẩn BMI của Âu Mĩ
Tình trạng |
Việt Nam (1) |
Thái Lan (2) |
Đài Loan (3) |
Hồng Kông (4) |
Thiếu cân |
21,2 |
7,6 |
2,8 |
11,2 |
Bình thường |
65,8 |
61,2 |
44,0 |
50,4 |
Quá cân |
12,9 |
28,8 |
49,2 |
35,7 |
Bèo phì |
0,1 |
2,4 |
4,0 |
2,7 |
Các con số
phần trăm được tính trên (1) 670 người Việt
(2) 340 người Thái, (3) 570 người Đài Loan,
và (4) 140 người Hồng Kông. Tất cả đều trên
18 tuổi.
Qua hai bảng thống kê trên đây, chúng ta
thấy có khoảng 15% phụ nữ Việt Nam là quá
cân hay béo phì, tức chỉ khoảng 1 phần 3 tỉ
lệ trong phụ nữ Thái Lan (42%). Tuy nhiên,
trong đàn ông, tỉ lệ quá cân và béo phì
khoảng 13% trong người Việt, tức chỉ bằng
phân nửa tỉ lệ trong người Thái Lan (31%).
Chú ý tỉ lệ quá cân và béo phì của đàn ông
Hồng Kông và Đài Loan đều cao hơn Thái Lan,
nhưng trong phụ nữ tỉ lệ này không khác nhau
đáng kể giữa Thái Lan, Hồng Kông và Đài
Loan.
Nhưng nếu chỉ dựa vào BMI, chúng ta có thể
kết luận sức khỏe người Việt khá tốt (vì
dưới 0.5% dân số béo phì, và đại đa số - từ
66% đến 70% dân số - có chỉ số BMI bình
thường)? Câu trả lời là “không”. Không thể
dùng chỉ số BMI của người Tây phương để áp
dụng cho người Việt nói riêng và người Á
châu nói chung. Thật vậy, vì thiếu thốn số
liệu nghiên cứu cho nên cho đến nay, giới y
khoa vẫn chưa nhất trí với một tiêu chuẩn
dựa vào BMI để chẩn đoán bèo phì. Một hội
thảo gần đây do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
tổ chức với sự tham gia của hầu hết các nhà
nghiên cứu Á châu và Thái Bình Dương cũng
không đi đến một kết luận dứt khoát. Cuối
cùng để khỏi bẽ mặt, họ phải cho ra một bài
báo èo uộc rằng họ chưa có đầy đủ dữ kiện để
đi đến một tiêu chuẩn cho tất cả các sắc dân
Á châu (6).
Mấu chốt của vấn đề là mối liên
hệ giữa BMI và tỉ lệ chất béo thay đổi tùy
theo sắc dân. Nhưng nói đến “mối liên hệ
giữa BMI và tỉ lệ chất béo” là nói đến cái
gì? Để hiểu vấn đề này chúng ta phải xem xét
đến một tỉ số khác: tỉ số lượng chất béo
trên mỗi BMI (tức lấy TLCB chia cho BMI).
Nói chung giới nghiên cứu béo phì thế giới
đều nhất trí rằng người Á châu có tỉ số
TLCB: BMI cao hơn
trong người Âu Mĩ (7). Nói cụ thể hơn,
nếu một người Á châu có cùng chỉ số BMI với
một người Mĩ, người Á châu đó có tỉ lệ chất
béo trong cơ thể cao hơn người Âu Mĩ.
Để minh họa cho trường hợp này, Tập san
Lancet đăng một bức hình rất thú vị (xem
dưới đây): hai bác sĩ có cùng chỉ số BMI
(22.3 kg/m2), nhưng người bác sĩ
gốc Anh có tỉ lệ chất béo chỉ 9,1%, trong
khi đồng nghiệp người Ấn Độ có đến 21,2%
chất béo trong cơ thể (8).

Trên bình diện dân số, có thể lấy một ví dụ
bằng cách so sánh chỉ số BMI và TLCB (đo
bằng máy DXA) phụ nữ một vài sắc dân như
sau:
Bảng số 3. Tỉ số BMI:TLCB trong phụ nữ Á
châu và Úc châu
Phụ nữ nước |
BMI (kg/m2) |
TLCB (%) |
TLCB:BMI |
Thái Lan |
23,7 |
34,5 |
1,46 |
Đài Loan |
23,1 |
35,0 |
1,52 |
Hồng Kông |
22,4 |
35,2 |
1,57 |
Úc châu |
25,1 |
34,4 |
1,35 |
Nhìn vào chỉ số trung bình BMI trên, có thể
nói phụ nữ các nước Á châu nói chung có
chiều cao và trọng lượng rất lí tưởng, vì
chỉ xoay quanh con số 22 đến 24 kg/m2.
Nhưng những con số tỉ lệ chất béo cho một
bức tranh hoàn toàn khác hẳn, tức là cao hơn
những gì BMI cho thấy: không thua kém gì các
phụ nữ người Úc. Nói theo ngôn ngữ bình dân
“Thấy dzậy mà không phải dzậy”! Phụ nữ Á
châu có thể trông mảnh khảnh đấy nhưng trong
cơ thể họ chất béo khá nhiều đấy!
Đây là một phát hiện hay một sự thật rất
quan trọng bởi vì nó có ý nghĩa và ảnh hưởng
đến việc xác định và chẩn đoán béo phì trong
người Á châu. Ý nghĩa của những con số này
là: thứ nhất, không thể dùng không thể áp
dụng tiêu chuẩn BMI>30 của người Âu Mĩ cho
người Á châu; và thứ hai, không thể
có một tiêu chuẩn chẩn đoán chung cho tất cả
người Á châu.
Tiêu
chuẩn nào cho người Á châu?
Những phân tích trên đây còn còn
gián tiếp cho thấy không thể dựa vào chỉ số
BMI để chẩn đoán béo phì như giới y tế
thường dựa vào bấy lâu nay. Xin nhắc lại,
chẩn đoán béo phì chỉ nên dựa vào tiêu chuẩn
vàng, tức là dựa vào tỉ lệ chất béo, TLCB,
đo bằng máy DXA mới chính xác. Tiêu chuẩn
TLCB>35 cho nữ giới và >25% cho nam giới
không phân biệt sắc dân. Nhưng trong điều
kiện không có máy DXA thì phải làm sao?
Để khắc phục vấn đề này, các nhà
nghiên cứu đã chịu khó bỏ ra nhiều năm làm
thử nghiệm và phát triển một phép tính TLCB
khá chính xác. Phép tính này, hay nói đúng
hơn là phương trình, do Gallagher và đồng
nghiệp phát triển (9) chỉ dựa vào 2 con số:
độ tuổi và chỉ số BMI. Theo phương trình
này, TLCB cho người Á châu có thể ước tính
như sau:
Đối với phụ
nữ: TLCB = 63,7 – 735/BMI + 0,029*Age
Đối với đàn
ông: TLCB = 51,6 – 735/BMI + 0,029*Age
(dấu “/” có
nghĩa là “chia cho”, và dấu “*” có nghĩa là
“nhân cho”.
Chẳng hạn như một phụ nữ Á châu,
50 tuổi, có chiều cao 1,5 m và cân nặng 60
kg (tức BMI = 60 / 1,52 = 26,7),
tỉ lệ chất béo trong cơ thể có thể ước tính
như sau: TLCB = 63,7 – 735/26,7 + 0,029*50 =
37,6). Như vậy, có thể nói phụ nữ này đang
trong tình trạng “béo phì”.
Phương trình này còn có khả năng ước tính tỉ
lệ chết béo rất chính xác cho một dân số.
Trong một nhóm 832 người Thái Lan, tôi đã
làm một so sánh giữa TLCB đo bằng máy DXA và
TLCB ước tính bằng hai phương trình trên
đây. Kết quả cho thấy giá trị trung bình
TLCB của máy DXA là 27,9%, và do ước tính
bằng phương trình là 28,0%, tức mức độ sai
số trung bình chỉ 0,1%. Hệ số tương quan
(coefficient of correlation) giữa TLCB đo
bằng máy DXA và TLCB ước tính bằng hai
phương trình trên là 0,88. Trong một nhóm
phụ nữ Trung Quốc (n = 205), TLCB trung bình
đo bằng DXA là 30,2%, và ước tính bằng công
thức Gallagher là 29,5%, sai số chỉ 0,7%; hệ
số tương quan trong nhóm này là 0,89. Nói
tóm lại, có thể dùng công thức Gallagher để
ước tính tỉ lệ chất béo trong cơ thể người Á
châu khá chính xác trong khi chưa có máy
DXA.
Xin nhắc lại, theo “tiêu chuẩn
vàng”, TLCB trong đàn ông cao hơn 25%, thì
người đó được chẩn đoán là “béo phì”; trong
phụ nữ, nếu TLCB cao hơn 35% cũng được xem
là béo phì. Bây giờ chúng ta có thể tính
đảo ngược để trả lời câu hỏi: chỉ số BMI
tối thiểu bao nhiêu để có thể nói một người
đàn ông có TLCB > 25% và một phụ nữ có TLCB
> 35% ? Nếu thế tiêu chuẩn 25 và 35 vào
hai phương trình trên, câu trả lời cho câu
hỏi trên là hai bất phương trình đảo:
Đối với phụ
nữ: BMI > 735 / (28.7 + 0,029*Age)
Đối với đàn
ông : BMI > 735 / (26.6 + 0,029*Age)
Bảng sau đây dùng hai
công thức trên để tính chỉ số BMI tối thiểu
cho từng độ tuổi cho phụ nữ và đàn ông Á
châu để chẩn đoán béo phì:
Bảng số 4. Tiêu
chuẩn xác định béo phì cho người Á châu (hay
chỉ số BMI tối thiểu để chẩn đoán béo phì)
Độ tuổi |
Phụ nữ |
Đàn ông |
20 |
>25,1 |
>27,0 |
25 |
>25,0 |
>26,9 |
30 |
>24,9 |
>26,8 |
35 |
>24,7 |
>26,6 |
40 |
>24,6 |
>26,5 |
45 |
>24,5 |
>26,3 |
50 |
>24,4 |
>26,2 |
55 |
>24,3 |
>26,1 |
60 |
>24,1 |
>25,9 |
65 |
>24,0 |
>25,8 |
70 |
>23,9 |
>25,7 |
75 |
>23,8 |
>25,5 |
80 |
>23,7 |
>25,4 |
85 |
>23,6 |
>25,3 |
90 |
>23,5 |
>25,2 |
Như thế, một phụ nữ
Việt Nam ở độ tuổi 25, với BMI 25,1 kg/m2
(tức chiều cao 1,62 và trọng lượng khoảng 65
kg) có thể xem là béo phì vì tỉ lệ chất béo
trong cơ thể của cô được ước tính trên 35%.
Tương tự, một người đàn ông tuổi 30 và BMI
trên 26,8 (tức chiều cao 1,65 m và trọng
lượng 73 kg) có thể xem là béo phì vì tỉ lệ
chất béo cao hơn 25%. Những chỉ số BMI này
cũng rất phù hợp với các nghiên cứu từ các
nước khác như Trung Quốc, Hồng Kông và Đài
Loan.
Tất nhiên, những cách tính toán trình bày
trên đây không thể thay thế DXA được, vì nó
vẫn còn một số sai sót nhỏ, và do đó có thể
một số chẩn đoán sẽ không hoàn toàn chính
xác. Tuy nhiên, lợi thế đáng kể của cách
tính trên đây là nó rất đơn giản, bất cứ ai
cũng có thể làm được. Chỉ cần biết chiều
cao, trọng lượng, và độ tuổi (tức là những
thông tin ai cũng có thể biết rõ ràng) chúng
ta có thể ước đoán tỉ lệ chất béo trong cơ
thể khá chính xác, và biết mình có phải “béo
phì” hay không.
Do đó, trong khi chưa có máy DXA
để đo lượng béo trong cơ thể, và qua kinh
nghiệm thực tế, chúng tôi (tôi và một số
đồng nghiệp Thái Lan) tin rằng các tiêu
chuẩn trình bày trong bảng thống kê trên rất
có ích trong việc chẩn đoán tình trạng béo
phì trong người Á châu.
Để kết thúc bài viết, xin tóm lược
một số ý chính như sau:
(i)
Không nên dùng tiêu chuẩn BMI>30
trong người Âu Mĩ để chẩn đoán béo phì cho
người Á châu, vì một áp dụng như thế sẽ rất
sai lầm trong chẩn đoán;
(ii)
Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán tình
trạng béo phì là tỉ lệ chất béo trong cơ
thể. Bất cứ đàn ông nào có tỉ lệ chất béo
cao hơn 25% hay bất cứ phụ nữ nào có tỉ lệ
chất béo cao hơn 35% có thể xem là “béo
phì”;
(iii)
Phương pháp chuẩn để đo lường tỉ lệ
chất béo là máy DXA; nhưng trong trường hợp
không có máy DXA, có thể dựa vào độ tuổi và
chỉ số BMI để ước tính tỉ lệ chất béo khá
chính xác;
(iv)
Và dùng cách tính gián tiếp này, bất
cứ đàn ông Việt Nam nào có BMI trên 27 và
phụ nữ Việt Nam có BMI trên 25 đều có thể
xem là béo phì.
Tài liệu tham khảo:
(1) World Health Organisation. Obesity:
preventing and managing the global
epidemic. Report of a WHO on obesity,
Geneva, 3-5 June 1997. WHO: Geneva, 1998.
(2) Thuy VT, Chau TT, Cong ND, De DV, Nguyen
TV. Assessment of low bone mass in
Vietnamese: comparison of QUS calcaneal
ultrasonometer and data-derived T-scores.
Journal of Bone and Mineral Metabolism
2003; 21: 114-9.
(3) Pongchaiyakul C, Nguyen TV, Kosulwat V,
Rojroongwasinkul N, Charoenkiatkul S,
Sanchaisuriya P, Rajatanavin R. Defining
obesity by body mass index and waist
circumference in the Thai population: An
epidemiologic study. International
Journal of Obesity and Related Metabolic
Disorders 2004; In press.
(4) He M, Tan KCB, Kung AWC. Body fat
determination by dual energy Xray
absorptiometry and its relation to body mass
index and waist circumference in Hong Kong
Chinese. International Journal of
Obesity and Related Metabolic Disorders
2001; 25:748-52.
(5) Chang CJ, Wu CH, Yao WJ, Yang YC, Wu JS,
Lu FH. Low body mass index but high percent
body fat in Taiwanese subjects: implications
of obesity cutoffs. International
Journal of Obesity and Related Metabolic
Disorders 2003; 27:253-9.
(6) WHO Expert
Consultation. Appropriate body-mass
index for Asian populations and its
implications for policy and intervention
strategies. Lancet 2004;
363:157-163.
(7) Deurenberg P,
Deurenberg-Yap M, van Staveren WA.
Body mass index and percent body fat: a meta
analysis among different ethnic groups.
International Journal of Obesity and Related
Metabolic Disorders 1998; 22:1164-1171.
(8) Yajnik CS, Yudkin JS. The Y-Y
paradox. Lancet 2004; 363:163.
(9) Gallagher D, Heymsfield SB, Heo M, Jebb
SA, Murgatroyd PR, Sakamoto Y. Healthy
percentage body ranges: an approach for
developing guidelines based on body mass
index. American Journal of Clinical
Nutrition 2000; 72:694-791.
Bài đọc thêm:
-
Tại sao ta mập và
mập như thế nào?
-
Chỉ số Cân/Ðo BMI,
IMC
-
Những lời khuyên
để giảm cân
|