
Connor McCreaddie 8 tuổi, nặng
99 ký, tại Wallsend,
Bắc London.
Mẹ của Connor suýt bị nhà nước bắt mất con vì để con
quá mập, nguy hiểm đến sức khoẻ.
I- Cấu tạo mô mỡ
II) Sự phân phối mô mỡ
1) Trong lứa tuổi dậy thì
2) Kích thích tố nữ
3) Kích thích tố nam
4) Lúc mãn kinh
III - Những nguyên do lên cân
1) - Di truyền
2) - Thói quen xấu trong sự an uống
3) - Thai nghén
4) - Chu kỳ kinh nguyệt
5) - Kích thích tố:
6) - Sự tránh thai
7) - Tuổi tác
8) - Cai thuốc lá
9) - Ngừng thể thao
10) - Sérotonine và sự ăn vặt
11) - Bụng tròn
12) Thuốc tây
IV) Công thức tính chỉ số BMI:
a) Công thức tính theo đo lường Anh
b) Công thức tính cho hệ thống đo lường mét
c) BMI cho trẻ em và vị thành niên
IV) Những lời khuyên để giảm cân
1) Vài nguyên tắc:
2) Tự giữ cho mình những quy luật và đi đến cùng
3) Chọn kỹ cách thức nấu:
4) Chọn lựa thức ăn chứa ít năng lượng
============================================
Tùy điều kiện, sự lên cân nhanh hay chậm, kinh khủng hay âm ỉ đều là do
sự thay đổi của mô mỡ.
I- Cấu tạo mô mỡ
Mô mỡ gồm một số lớn tế bào gọi là adipocyte (có khoảng 20 đến
25 tỉ). Mọi tế bào mỡ đều chứa một hay nhiều cầu mỡ (globule de
gras). Chúng càng chứa nhiều mỡ, ta càng mập.
Số mô mỡ thay đổi,
nó tăng chớ không bao giờ giảm!Chúng ta được dự trữ những tế bào thật nhỏ gọi là pré-adipocytes, chúng
sẽ trở thành adipocytes: trong lúc mang thai hay nếu ăn quá nhiều.
Một khi đã được xếp đặt, những adipocytes cho dù là từ nguyên gốc
"sinh ra đã có sẵn" hay từ pré-adipocytes thì số lượng sẽ không thay đổi
nữa. Chúng chỉ chất đầy hay trút bớt mỡ mà thôi.
Chúng không bao giờ biến mất. Ta sẽ mang khối dự trữ đó đến ngày cuối cùng
của cuộc đời, lúc nào cũng sẵn sàng đổ đầy và tăng thêm. Chỉ duy nhất một
thứ có thể làm mất đi là sự rút mỡ (liposuccion)
Ðó là một trong những nguyên nhân mà người ta rất dễ
mập sau khi sụt ký
II) Sự phân phối mô mỡ
Trong những năm đầu của đời người, mỡ của những đứa
con trai hay con gái nhỏ được phân phối đồng đều khắp thân thể. Những em bé
cũng được "bao" bởi cách đó.
1) Trong lứa tuổi dậy thì,
kích thích tố làm thay đổi sự phân phối mỡ.
Nơi con trai mỡ giảm phần dưới cơ thể và chuyển lên
phần trên.
Nơi con gái, mỡ ở dưới thấp hơn.
2) Kích thích tố nữ

Kích thích tố oestrogènes và progestérone do buồng
trứng tiết ra kích thích sự tạo adipocytes nơ vùng háng và đùi. Chúng cũng
tăng hình thù: Những tế bào chứa mỡ to thì chứa nhiều mỡ hơn.
3) Kích thích tố nam:
androgènes, do dịch hoàn tiết ra, đóng vai trò nghịch lại: chúng làm giảm số
adipocytes nơi mông và tất cả vùng này.
4) Lúc mãn kinh:
sự tiết kích thích tố ngưng, mỡ nơi đàn bà không giảm phía dưới mà lại phát
triển ngay phần trên rốn nếu không chữa trị bằng điều hòa kích thích. Vào
lứa tuổi năm mươi dáng dấp trở nên cứng hơn và nam tính hơn.
III - Những nguyên do lên cân
Nhiều nguyên do khác nhau nhung tựu trung đều đưa đến
cùng một kết quả: chất đầy những adipocytes nhờ
* thức ăn quá giàu mỡ hay năng lượng
* Thiếu sự tiêu xài năng lượng
nên có sự chênh lệch giữa thức ăn vào và năng lượng ra
1) - Di truyền
Trong mười năm trở lại, những nghiên cứu về gène cho phép ta phát hiện từ
từ những gène tham dự vào sự chuyển hóa chất béo và trong sự tạo thành nặng
cân (mỡ).
Ngày nay người ta biết có những gène ảnh hưởng trên sự ngon miệng, sự
tiết ra diếu tố (enzyme) cầ thiết để đốt chất béo và hãm lại sự tồn trữ.
Nếu một trong hai người cha hoặc mẹ quá mập thì nguy cơ mập cỡ 40%.
Nếu cả hai cha lẫn mẹ đều mập quá bình thường thì sự nguy cơ lên đến 80%
Thật là một bất công nhưng người ta không thể thay đổi tính di truyền
được
2) - Thói quen xấu trong sự an uống
Những thói quen thường bắt đầu từ lúc nhỏ. Một đứa trẻ sống trong gia
đình ăn to hay bị bà mẹ nhồi nhét thức ăn vì lúc nào cũng lo lắng nghĩ rằng
mọi vấn đề đều được giải quyết bằng ăn thì sẽ bị thặng dư không thể tránh
được vài tỉ adipocytes và quen ăn nhiều.
Nếu lúc nhỏ cứ để mập thêm mãi thì sẽ dẫn đến chứng
mập phì (obésité).
3) - Thai nghén
Thời kỳ thai nghén là thời kỳ những pré-adipocytes
được biến đổi thành adipocytes
4) - Chu kỳ kinh nguyệt
Chu kỳ kinh nguyệt thay đổi sự ngon miệng. Ta có thể:
* đói ăn trong thời kỳ hành kinh và trước lúc rụng trứng vài ngày.
* là nạn nhân của những cơn đói cồn cào trong nửa chu kỳ thứ hai.
5) - Kích thích tố:
* Oestrogènes được tiết ra rất nhiều trong nửa chu kỳ
đầu làm giảm sự thèm ăn.
*Progestérone tạo ra nhiều hơn trong nửa chu kỳ cuối
làm tăng sự thèm ăn.
Nặng thêm một ký trong hai tuần sau sẽ mất đi trong
hai tuần kế tiếp.
* Oestrogènes giúp cho sự tích trữ mỡ trong những
adipocytes nơi hông và đùi. Nếu quá nhiều kích thích tố này thì sẽ mập.
6) - Sự tránh thai
Số đông những phụ nữ dùng thuốc tránh thai không lên cân trong lúc có
những phụ nữ khác thì mập lên..
Thuốc tránh thai là những kích thích tố dưới dạng thuốc sẽ thay đổi sự
cân bằng của kích thích tố thiên nhiên mà không phụ nữ nào giống người phụ
nữ nào. Do đó những phản ứng do thuốc trên các phụ nữ khác nhau trên vấn đề
ăn uống. Nếu cảm giác đói tăng, ta ăn càng nhiều thì càng mập.
Sau khi đặt vòng, tuy chẳng thay đổi gì về lượng kích thích tố, cũng có
thể mập lên bởi vì có sự giằng co tâm lý. Người đàn bà sống trong cảm giác
vô thức như bị mất mát và để đền bù, họ ăn.
7) - Tuổi tác
Vào khoảng 50 tuổi, người đàn bà đến thời mãn kinh. Buồng trứng hoạt động
kém dần nên kích thích tố giảm, đưa đến sự tích trữ mỡ.
Lên cân lúc bắt đầu tuổi 50 không có hại gì cả, chỉ vì sự tiêu xài
năng lượng quá ít và vì tâm lý sợ già , không còn quyến rũ, không còn toàn
diện như trước.
8) - Cai thuốc lá
Thuốc lá có chất nicotine là một chất kích thích hệ thống thần
kinh kết quả làm biếng ăn (anorexigène):
* Một điếu thuốc hút trước bữa ăn làm mất hay giảm sự thèm ăn
* Những người hút nhiều trong bữa ăn thường ăn ít.
Khi chất nicotine trong cơ thể giảm, cảm giác đói mạnh hơn nên ta ăn
nhiều hơn.
Hút thuốc tiêu xài năng lượng, khoảng vài chục calorie cho mỗi điếu
thuốc. Sự tiêu xài năng lượng này ngưng khi ta ngưng hút.
Ðể giữ thăng bằng cho sự thu và thải năng lượng do ăn uống, phải ăn ít vì
khi cữ thuốc tức là bớt sự tiêu xài năng lượng. Bởi sự thèm ăn tăng khi
thiếu chất anorexigène của thuốc lá
Ngoài ra người ta thường muốn ăn đồ ngọt để bổ sung cho cảm giác thèm
thuốc lá và cũng để thay thế cho thói quen mang điếu thuốc lá trong miệng
ngày trước.
9) - Ngừng thể thao
Dĩ nhiên là khi ta chơi thể thao, ta tiêu xài năng lượng rất nhiều. Cơ
thể cần năng lượng rất nhiều nên ta ăn nhiều. Ta quen thói ăn nhiều những
thức ăn bổ dưỡng cho nhiều năng lượng vì không sợ mập.
Rất thường khi ngừng chơi thể thao đột ngột vì bị thương tích hay vì lý
do nào khác mà ta vẫn giữ thói quen ăn uống như trước trong khi sự tiêu xài
năng lượng giảm nên ta lên cân. Nhưng nếu ta giảm ăn những thức ăn nhiều
nhiệt lượng thì sẽ không bị lên cân.
10) - Sérotonine và sự ăn vặt
Sérotonine là thần kinh trung gian (neuromédiateur)
có tác dụng trên sự thèm ăn, cảm giác no, tính khí (humeur), buồn ngủ, căng
thẳng lo lắng (stress) . Tất cả những yếu tố trên quyết định sự thăng bằng
cơ thể.
Sérotonine do não tiết ra:
* từ tryptophane
* có nhiều trong não
* có khi thức ăn giàu chất bột (glucide)
Vậy phải cần nhiều tinh bột mới tạo ra sérotinine
Ta thiếu sérotinine khi:
* Bữa ăn không đủ tinh bột, khi ta cữ ăn hoàn toàn
cơm, bánh mì (thường là để khỏi lên cân)
* Là nạn nhân của sự lo lắng căng thẳng. Cho
dù nỗi lo lắng mãnh liệt hay thường xuyên, nó đều huy động để tạo sự thèm
ngọt. Ta cần chất ngọt: vây là ta ăn vặt bánh kẹo để có
cảm giác dễ chịu hơn
*Hệ thống điều hòa sérotonine không hoạt động tốt.
Ðây là trường hợp nơi những "người thèm muốn chất carbohydrate" (tinh bột,
đường), gọi là "carbohydrate cravers". Những người này thèm chất ngọt và có
những thôi thúc không kiềm chế được đối với những món ăn ngọt, ăn nhiều lần
trong ngày. Ðối với họ, đồ ngọt là loại "ma túy" làm họ giảm cơn ghiền.
Cho dù từ nguồn gốc nào đi nữa thì thiếu glucide trong thực phẩm hay rối
loạn trong cách ăn uống, những sự thúc đẩy ăn ngọt để tạo ra chất sérotinine
sẽ làm mất thăng bằng cách thức ăn uống một cách đáng kể. thí dụ như ăn
nhiều đường hay nhiều chất béo cùng với đường (phần lớn đồ ăn vặt thường béo
và ngọt) có nghĩa là mang đến cho cơ thể quá nhiều calorie sẽ đưa đến sự
tăng trọng lượng.
11) - Bụng tròn
Chất kích thích tố corticoïde tiết ra bởi nang thượng thận thích hợp cho
sự tích trữ mỡ trong những adipocytes nơi bụng.
Kích thích tố corticoïde được tạo ra do ảnh hưởng của
sự lo lắng sợ hãi: người ta thường gọi nó là "hormone du stress"
Lượng adrénaline tăng không thích hợp cho bụng thon.
Ðiều này có thể giải thích vì sao có những người đàn bà không mập mà bụng to
tròn.
Thuốc là và rượu thường đi đôi với stress và đều có
tác dụng như nhau.
12) Thuốc tây
Những thuốc chống suy nhược thần kinh (antidépresseur) và những thuốc an
thần (tranquillisant) thích hợp cho sự lên cân bởi vì chúng làm chậm lại sự
chuyển hóa căn bản của cơ thể.
Vì vậy không nên dùng những thứ thuốc này nếu ta không thật sự cần.
Cortisone cũng có hiệu quả như vậy. Do đó có thể dùng một chế độ ăn uống
nghèo chất Sodium (muối ăn) nghĩa là đừng ăn mặn.
IV) Công
thức tính chỉ số BMI:
IMC Indice de Masse
corporelle, BMI Body
Mass Index
a) Công
thức tính theo đo lường
Anh
BMI = ( |
trọng lượng tính
bằng
Pounds
(chiều
cao
inches) x (Chiều
cao
inches) |
)
x 703 |
Thí dụ
một người nặng 220
pounds , cao
6 feet 3 inches
có
BMI =
27.5.
( |
220
lbs.
(75 inches) x
(75 inches) |
) x 703 = 27.5 |
b) Công thức
tính cho hệ thống đo lường
mét
BMI = |
Cân nặng
Kilograms
(Chiều
cao Mét)
x (Chiều
cao Mét) |
|
|
hay |
|
BMI = ( |
Cân
nặng
Kilograms
(Chiều
cao Centimét)
x (Chiều
cao Centimét) |
)
x 10000 |
Thí dụ
một người nặng 99,79
ký và
cao 1,905
mét (190.50 centimet)
có
BMI là
27.5.
99.79
Kg
(1.905 m) x
(1.905 m) |
= 27.5 |
|
c) BMI cho
trẻ em và vị thành niên
|
Gầy |
BMI-tuổi-
< 5th percentile
|
|
Nguy cơ mập |
BMI-tuổi-
85th
percentile
đến
< 95th percentile
|
|
Mập |
BMI-tuổi
> 95th
percentile |
BMI
giảm
trong những năm
trước khi đi học
rồi tăng cho đến
tuổi trưởng thành
|
Ví dụ
Xem IBM của
đứa bé trai đang lớn.
Trong khi BMI của nó thay
đổi, nó giữ mức 95 th
percentile BMI-cho
lứa tuổi đó.
Tuổi |
BMI |
Percentile |
2 |
19.3 |
95th |
4 |
17.8 |
95th |
9 |
21.0 |
95th |
13 |
25.1 |
95th |
|
Chúng
ta thấy BMI của đứa bé
giảm khi ở tuổi chưa đi
học và tăng lên khi
nó lớn tuổi hơn


IMC = BMI
Công thức
tính:
BMI =
|
trọng lượng tính
bằng
Ký
(chiều
cao
bằng mét)² |
Tốt
nhất: đàn ông, IMC =
22,7 kg/m²
đàn bà
, IMC = 22,4 kg/m²
CAO |
Vừa |
Mập vừa |
Béo phì |
1,56 |
49 à 61 |
68 |
79 |
1,58 |
50 à 62 |
69 |
81 |
1,60 |
51 à 64 |
71 |
83 |
1,62 |
53 à 66 |
73 |
85 |
1,64 |
54 à 67 |
75 |
87 |
1,66 |
55 à 69 |
77 |
89 |
1,68 |
57 à 71 |
78 |
91 |
1,70 |
58 à 72 |
80 |
93 |
1,72 |
59 à 74 |
82 |
96 |
1,74 |
61 à 76 |
84 |
98 |
1,76 |
62 à 77 |
86 |
100 |
1,78 |
64 à 79 |
88 |
102 |
1,80 |
65 à 81 |
90 |
105 |
1,82 |
67 à 83 |
92 |
107 |
1,84 |
68 à 85 |
94 |
109 |
1,86 |
70 à 86 |
96 |
112 |
1,88 |
71 à 88 |
98 |
114 |
1,90 |
73 à 90 |
100 |
117 |
1,92 |
74 à 92 |
102 |
119 |
|
|
|
|
5
IMC |
20,1 à 25 |
27,8 |
32,3 |
|
CAO |
Vừa |
Mập vừa |
Béo phì |
1,46 |
40 à 51 |
59 |
66 |
1,48 |
41 à 52 |
61 |
68 |
1,50 |
42 à 54 |
63 |
70 |
1,52 |
43 à 55 |
64 |
72 |
1,54 |
44 à 56 |
66 |
74 |
1,56 |
46 à 58 |
68 |
76 |
1,58 |
47 à 59 |
70 |
78 |
1,60 |
48 à 61 |
71 |
80 |
1,62 |
49 à 62 |
73 |
82 |
1,64 |
50 à 64 |
75 |
84 |
1,66 |
52 à 66 |
77 |
86 |
1,68 |
53 à 67 |
79 |
88 |
1,70 |
54 à 69 |
81 |
90 |
1,72 |
55 à 70 |
83 |
92 |
1,74 |
57 à 72 |
84 |
94 |
1,76 |
58 à 74 |
86 |
96 |
1,78 |
59 à 75 |
88 |
99 |
1,80 |
61 à 77 |
90 |
101 |
1,82 |
62 à 79 |
92 |
103 |
1,84 |
63 à 81 |
94 |
105 |
1,86 |
65 à 82 |
97 |
108 |
|
|
|
|
IMC |
18,7-
23,8 |
27,9 |
31,1 |
|
(http://www.cdc.gov)
|
|
BMI |
|
<
18.5 |
Gầy |
18.5 –
24.9 |
Vừa |
25.0 –
29.9 |
Hơi mập |
>30.0
|
Béo phì |
|
 |
6'3"
|
Cao
|
6'3"
|
220 lbs
|
Nặng |
220 lbs
|
27.5
|
BMI
|
27.5
|
|
Nhưng... hãy coi chừng
|
 |
|
IV) Những lời khuyên để giảm cân
Bạn đã lên vài ký trong mùa Ðông hay có một sự thay
đổi vì bạn đã phải trải qua một thời kỳ khó khăn... Kết quả là bạn cảm thấy
cơ thể mình không ổn và làm mất đi vài ký sẽ là điều tốt cho bạn.
Bạn có thể thành công trong việc làm mất vài ký với 2 điều kiện: thay
đổi thói quen ăn uống và tăng cường hoạt động thể lực. Không cần phải làm
thể thao (sport), mà chỉ cần đi bộ mỗi ngày và một ít bơi lội mỗi tuần sẽ
giúp ích rất nhiều.
Chú ý là nếu bạn muốn bớt trên 5 ký, phải khám bác sĩ, hay một thầy thuốc
chuyên khoa ăn uống (diététicien) bởi vì bạn cần được theo dõi thường xuyên.
1) Vài nguyên tắc:
Muốn giảm cân phải áp dụng vài nguyên tắc vững chắc sau đây:
* Phải tự định cho mình thời gian, phải mất ít nhất 2-3 ký
* Ngăn ngừa những cơn đói cồn cào và sự mỏi mệt
* Giữ tốt những quy luật ngay từ khởi đầu
* Tránh để thiếu vitamine và khoáng chất
* Không nên dùng thuốc hay thực phẩm đặc biệt
* Giữ cho mình một thú vui lớn trong khi ăn
2) Tự giữ cho mình những quy luật và đi đến cùng
Ðể thay đổi chế độ ăn uống, phải giảm một cách điều độ năng lượng do thức ăn
đem đến, nghĩa là chất béo và đường. Phải áp dụng triệt để chế độ ăn uống:
* Không bỏ bữa ăn, nhất là bữa ăn sáng phải được thịnh soạn. Buổi tối ăn
thức ăn nhẹ.
* Không ăn gì ngoài những bữa ăn chính. Nếu bạn cảm thấy đói giữa những bữa
ăn, hãy uống một ly nước, ly cà phê hay trà không đường. Nên uống thêm trước
bữa ăn và trong bữa ăn.
* Tiếp tục ăn chất bột mỗi bữa ăn: bún, cơm, khoai tây hay bánh mì. Chúng
tạo cho bạn cảm giác no và mang đến cho bạn năng lượng cần thiết đồng thời
cung cấp chất sợi. Ngược lại, những gì ăn theo nó thì nên giới hạn: xốt béo,
bơ, phô ma, kem tươi (crème fraîche = fromage frais) vân vân... Phải dùng
chất bột riêng rẽ hay trộn với đồ gia vị không đường và không chất béo.
* Không dùng nước ngọt có ga.
* Không dùng rượu và bia. Bạn có thể tiếp tục uống rượu nho đỏ và giới hạn 1
ly mỗi ngày.
* Tránh ăn bên ngoài bởi vì sẽ rất khó kiểm soát thực phẩm. Nơi tiệm ăn, đôi
khi cũng được, nơi bạn bè thì khó hơn. Nếu bạn ăn chung với nhiều người,
phải ráng bớt lượng thức ăn và nhất là không bao giờ ăn thêm một phần nữa
* Chọn thịt "gầy" (viande maigre) tức là thịt không mỡ và ưu tiên cho thịt
gà không da, cá và tôm cua.
* Chú ý những chất mỡ lẫn trong thực phẩm: tránh tất cả những loại xốt làm
bằng thịt, thực phẩm làm bằng thịt heo có mỡ, những thức ăn nướng (gratin)
giàu sữa, bơ hay kem, gruyère (một loại fromage chín) và trứng, đồ chiên
xào, bành mì viennoise (ngọt) và bành ngọt, kẹo và sô cô la, kem lạnh và
bánh ga tô ăn chơi .
* Ăn rau tùy thích dưới mọi hình thức: sống, chín, xúp.
* Ăn hai trái cây mỗi ngày, không được ăn thêm.
3) Chọn kỹ cách thức nấu:
- Thịt: nướng hay rô ti
- Cá: nướng, hấp lò hay nấu bằng lò vi ba (micro-ondes, micro waves)
hay bao giấy nướng.
- Rau cải: hấp, hầm hơi hay hấp lò vi ba.
* Trộn đồ gia vị và xốt càng ít chất béo càng tốt: cho một ít dầu ăn, bơ hay
kem , rồi dùng chanh, yaourt, viên nước cốt thịt để nấu canh (bouillon cube)
và xì dầu, cuối cùng thêm gia vị với rau thơm và đồ gia vị.
4) Chọn lựa thức ăn chứa ít năng lượng
Muốn chọn thức ăn chứa ít năng lượng phải biết
giá trị dinh dưỡng của thực phẩm
Đăng lần đầu : 23/05/2004
Cập nhật :
11/08/2008
Bài
đọc thêm:
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt
|