Mập !

Vietsciences- Võ Thị Diệu Hằng     11/08/2008

 

 

Connor McCreaddie 8 tuổi, nặng 99 ký, tại Wallsend, Bắc London. Mẹ của Connor suýt bị nhà nước bắt mất con vì để con quá mập, nguy hiểm đến sức khoẻ.
 

I- Cấu tạo mô mỡ
II) Sự phân phối mô mỡ
   1) Trong lứa tuổi dậy thì
   2) Kích thích tố nữ
   3) Kích thích tố nam
   4) Lúc mãn kinh
III - Những nguyên do lên cân
   1) - Di truyền
   2) - Thói quen xấu trong sự an uống
   3) - Thai nghén
   4) - Chu kỳ kinh nguyệt
   5) - Kích thích tố:
   6) - Sự tránh thai
   7) - Tuổi tác
   8) - Cai thuốc lá
   9) - Ngừng thể thao
   10) - Sérotonine và sự ăn vặt
   11) - Bụng tròn
   12) Thuốc tây
IV) Công thức tính chỉ số BMI:
   a) Công thức tính theo đo lường Anh
   b) Công thức tính cho hệ thống đo lường mét
   c) BMI cho trẻ em và vị thành niên
IV) Những lời khuyên để giảm cân
   1) Vài nguyên tắc:
   2) Tự giữ cho mình những quy luật và đi đến cùng
   3) Chọn kỹ cách thức nấu:
   4) Chọn lựa thức ăn chứa ít năng lượng
 

============================================

Tùy điều kiện, sự lên cân nhanh hay chậm, kinh khủng hay âm ỉ đều là do sự thay đổi của mô mỡ.

I- Cấu tạo mô mỡ

adipocyte trắngMô mỡ gồm một số lớn tế bào gọi là adipocyte (có khoảng 20 đến 25 tỉ).  Mọi tế bào mỡ đều chứa một hay nhiều cầu mỡ (globule de gras). Chúng càng chứa nhiều mỡ, ta càng mập.

Số mô mỡ thay đổi, nó tăng chớ không bao giờ giảm!Chúng ta được dự trữ những tế bào thật nhỏ gọi là pré-adipocytes, chúng sẽ trở thành adipocytes: trong lúc mang thai hay nếu ăn quá nhiều. Một khi đã được xếp đặt, những adipocytes cho dù là từ nguyên gốc "sinh ra đã có sẵn"  hay từ pré-adipocytes  thì số lượng sẽ không thay đổi nữa. Chúng chỉ chất đầy hay trút bớt mỡ mà thôi. Chúng không bao giờ biến mất. Ta sẽ mang khối dự trữ đó đến ngày cuối cùng của cuộc đời, lúc nào cũng sẵn sàng đổ đầy và tăng thêm. Chỉ duy nhất một thứ có thể làm mất đi là sự rút mỡ (liposuccion) 

Ðó là một trong những nguyên nhân mà người ta rất dễ mập sau khi sụt ký

II) Sự phân phối mô mỡ

Trong những năm đầu của đời người, mỡ của những đứa con trai hay con gái nhỏ  được phân phối đồng đều khắp thân thể. Những em bé cũng được "bao" bởi cách đó.

 

1) Trong lứa tuổi dậy thì, kích thích tố làm thay đổi sự phân phối mỡ. 

Nơi con trai mỡ giảm phần dưới cơ thể và chuyển lên phần trên. 

Nơi con gái, mỡ ở dưới thấp hơn.

2) Kích thích tố nữ

Kích thích tố oestrogènes và progestérone do buồng trứng tiết ra kích thích sự tạo adipocytes nơ vùng háng và đùi. Chúng cũng tăng hình thù: Những tế bào chứa mỡ to thì chứa nhiều mỡ hơn.

3) Kích thích tố nam: androgènes, do dịch hoàn tiết ra, đóng vai trò nghịch lại: chúng làm giảm số adipocytes nơi mông và tất cả vùng này.

4) Lúc mãn kinh: sự tiết kích thích tố ngưng, mỡ nơi đàn bà không giảm phía dưới mà lại phát triển ngay phần trên rốn nếu không chữa trị bằng điều hòa kích thích. Vào lứa tuổi năm mươi dáng dấp trở nên cứng hơn và nam tính hơn.

III - Những nguyên do lên cân

Nhiều nguyên do khác nhau nhung tựu trung đều đưa đến cùng một kết quả: chất đầy những adipocytes nhờ

* thức ăn quá giàu mỡ hay năng lượng

* Thiếu sự tiêu xài năng lượng

nên có sự chênh lệch giữa thức ăn vào và năng lượng ra 

1) - Di truyền

Trong mười năm trở lại, những nghiên cứu về gène cho phép ta phát hiện từ từ những gène tham dự vào sự chuyển hóa chất béo và trong sự tạo thành nặng cân (mỡ). 

Ngày nay người ta biết có những gène ảnh hưởng trên sự ngon miệng, sự tiết ra diếu tố (enzyme) cầ thiết để đốt chất béo và hãm lại sự tồn trữ.

Nếu một trong hai người cha hoặc mẹ quá mập thì  nguy cơ mập cỡ 40%.

Nếu cả hai cha lẫn mẹ đều mập quá bình thường thì sự nguy cơ lên đến 80%

Thật là một bất công nhưng người ta không thể thay đổi tính di truyền được

2) - Thói quen xấu trong sự an uống

Những thói quen thường bắt đầu từ lúc nhỏ. Một đứa trẻ sống trong gia đình ăn to hay bị bà mẹ nhồi nhét thức ăn vì lúc nào cũng lo lắng nghĩ rằng mọi vấn đề đều được giải quyết bằng ăn thì sẽ bị thặng dư không thể tránh được vài tỉ adipocytes  và quen ăn nhiều. 

Nếu lúc nhỏ cứ để mập thêm mãi thì sẽ dẫn đến chứng mập phì (obésité).

3) - Thai nghén

Thời kỳ thai nghén là thời kỳ những pré-adipocytes được biến đổi thành adipocytes

4) - Chu kỳ kinh nguyệt

Chu kỳ kinh nguyệt thay đổi sự ngon miệng. Ta có thể:

* đói ăn trong thời kỳ hành kinh  và trước lúc rụng trứng vài ngày.

* là nạn nhân của những cơn đói cồn cào trong nửa chu kỳ thứ hai.

5) - Kích thích tố:

* Oestrogènes được tiết ra rất nhiều trong nửa chu kỳ đầu làm giảm sự thèm ăn. 

*Progestérone tạo ra nhiều hơn trong nửa chu kỳ cuối làm tăng sự thèm ăn.

Nặng thêm một ký trong hai tuần sau sẽ mất đi trong hai tuần kế tiếp.

* Oestrogènes giúp cho sự tích trữ mỡ trong những adipocytes nơi hông và đùi. Nếu quá nhiều kích thích tố này thì sẽ mập.

6) - Sự tránh thai

Số đông những phụ nữ dùng thuốc tránh thai không lên cân trong lúc có những phụ nữ khác thì mập lên..

Thuốc tránh thai là những kích thích tố dưới dạng thuốc sẽ thay đổi sự cân bằng của kích thích tố thiên nhiên mà không phụ nữ nào giống người phụ nữ nào. Do đó những phản ứng do thuốc trên các phụ nữ khác nhau trên vấn đề ăn uống. Nếu cảm giác đói tăng, ta ăn càng nhiều thì càng mập.

Sau khi đặt vòng, tuy chẳng thay đổi gì về lượng kích thích tố, cũng có thể mập lên bởi vì có sự giằng co tâm lý. Người đàn bà sống trong cảm giác vô thức như bị mất mát và để đền bù, họ ăn.

7) - Tuổi tác

Vào khoảng 50 tuổi, người đàn bà đến thời mãn kinh. Buồng trứng hoạt động kém dần nên kích thích tố giảm, đưa đến sự tích trữ mỡ. Lên cân lúc bắt đầu tuổi 50 không có hại gì cả, chỉ vì sự tiêu xài năng lượng quá ít và vì tâm lý sợ già , không còn quyến rũ, không còn toàn diện như trước.

8) - Cai thuốc lá

Thuốc lá có chất  nicotine là một chất kích thích hệ thống thần kinh  kết quả làm biếng ăn (anorexigène):

* Một điếu thuốc hút trước bữa ăn làm mất hay giảm sự thèm ăn

* Những người hút nhiều trong bữa ăn thường ăn ít.

Khi chất  nicotine trong cơ thể giảm, cảm giác đói mạnh hơn nên ta ăn nhiều hơn.

Hút thuốc tiêu xài năng lượng, khoảng vài chục calorie cho mỗi điếu thuốc. Sự tiêu xài năng lượng này ngưng khi ta ngưng hút.

Ðể giữ thăng bằng cho sự thu và thải năng lượng do ăn uống, phải ăn ít vì khi cữ thuốc tức là bớt sự tiêu xài năng lượng. Bởi sự thèm ăn tăng khi thiếu chất anorexigène của thuốc lá

Ngoài ra người ta thường muốn ăn đồ ngọt để bổ sung cho cảm giác thèm thuốc lá và cũng để  thay thế cho thói quen mang điếu thuốc lá trong miệng ngày trước.

9) - Ngừng thể thao

Dĩ nhiên là khi ta chơi thể thao, ta tiêu xài năng lượng rất nhiều. Cơ thể cần năng lượng rất nhiều nên ta ăn nhiều. Ta quen thói ăn nhiều những thức ăn bổ dưỡng cho nhiều năng lượng vì không sợ mập. 

Rất thường khi ngừng chơi thể thao đột ngột vì bị thương tích hay vì lý do nào khác mà ta vẫn giữ thói quen ăn uống như trước trong khi sự tiêu xài năng lượng giảm nên ta lên cân. Nhưng nếu ta giảm ăn những thức ăn nhiều nhiệt lượng thì sẽ không bị lên cân.

10) - Sérotonine và sự ăn vặt

Sérotonine là thần kinh trung gian (neuromédiateur) có tác dụng trên sự thèm ăn, cảm giác no, tính khí (humeur), buồn ngủ, căng thẳng lo lắng (stress) . Tất cả những yếu tố trên quyết định sự thăng bằng cơ thể.

Sérotonine do não tiết ra:

* từ tryptophane 

* có nhiều trong não

* có khi thức ăn giàu chất bột (glucide)

Vậy phải cần nhiều tinh bột mới tạo ra sérotinine

Ta thiếu sérotinine khi:

* Bữa ăn không đủ tinh bột, khi ta cữ ăn hoàn toàn  cơm, bánh mì (thường là để khỏi lên cân)

* Là nạn nhân của sự lo lắng căng thẳng. Cho dù nỗi lo lắng mãnh liệt hay thường xuyên, nó đều huy động để tạo sự thèm ngọt.  Ta cần chất ngọt: vây là ta ăn vặt bánh kẹo để có cảm giác dễ chịu hơn

*Hệ thống điều hòa sérotonine không hoạt động tốt. Ðây là trường hợp nơi những "người thèm muốn chất carbohydrate" (tinh bột, đường), gọi là "carbohydrate cravers".  Những người này thèm chất ngọt và có những thôi thúc không kiềm chế được đối với những món ăn ngọt, ăn nhiều lần trong ngày. Ðối với họ, đồ ngọt là loại "ma túy" làm họ giảm cơn ghiền.

Cho dù từ nguồn gốc nào đi nữa thì thiếu glucide trong thực phẩm hay rối loạn trong cách ăn uống, những sự thúc đẩy ăn ngọt để tạo ra chất sérotinine sẽ làm mất thăng bằng cách thức ăn uống một cách đáng kể. thí dụ như ăn nhiều đường hay nhiều chất béo cùng với đường (phần lớn đồ ăn vặt thường béo và ngọt) có nghĩa là mang đến cho cơ thể quá nhiều calorie sẽ đưa đến sự tăng trọng lượng.

 

11) - Bụng tròn

Chất kích thích tố corticoïde tiết ra bởi nang thượng thận thích hợp cho sự tích trữ mỡ trong những  adipocytes nơi bụng.

Kích thích tố corticoïde được tạo ra do ảnh hưởng của sự lo lắng sợ hãi: người ta thường gọi nó là "hormone du stress"

Lượng adrénaline tăng không thích hợp cho bụng thon. Ðiều này có thể giải thích vì sao có những người đàn bà không mập mà bụng to tròn.

 Thuốc là và rượu thường đi đôi với stress  và đều có tác dụng như nhau.

 

12) Thuốc tây

Những thuốc chống suy nhược thần kinh (antidépresseur) và những thuốc an thần (tranquillisant) thích hợp cho sự lên cân bởi vì chúng làm chậm lại sự chuyển hóa căn bản của cơ thể.

Vì vậy không nên dùng những thứ thuốc này nếu ta không thật sự cần.

Cortisone cũng có hiệu quả như vậy. Do đó có thể dùng một chế độ ăn uống nghèo chất Sodium (muối ăn) nghĩa là đừng ăn mặn.

 

 

IV) Công thức tính chỉ số BMI:

IMC Indice de Masse corporelle, BMI Body Mass Index

  a) Công thức  tính theo đo lường  Anh

BMI = (             trọng lượng tính bằng Pounds             
(chiều cao inches) x (Chiều cao inches)
) x 703

Thí dụ  một người nặng  220 pounds , cao 6 feet 3 inches  BMI = 27.5.

(             220 lbs.            
(75 inches) x (75 inches)
) x 703 = 27.5


  b) Công thức tính cho hệ thống đo lường  mét

 

BMI =             Cân  nặng  Kilograms             
(Chiều cao Mét) x (Chiều cao Mét)
 
  hay  
BMI = (           Cân  nặng  Kilograms             
(Chiều cao Centimét) x (Chiều cao Centimét)
) x 10000

Thí dụ  một người nặng  99,79  và cao 1,905 mét (190.50 centimet) BMI 27.5.

            99.79 Kg            
(1.905 m) x (1.905 m)
= 27.5

 

  c) BMI cho trẻ em và  vị thành niên

 

  Gầy BMI-tuổi- < 5th percentile
 
  Nguy cơ mập BMI-tuổi-  85th percentile
đến < 95th percentile
 
  Mập BMI-tuổi > 95th percentile
 
BMI giảm trong những  năm trước  khi đi học rồi tăng cho đến  tuổi trưởng thành

Ví dụ
Xem IBM của đứa  bé trai đang  lớn. Trong  khi BMI của  nó thay đổi, nó  giữ  mức  95 th percentile BMI-cho lứa tuổi đó.

Tuổi BMI Percentile
2 19.3 95th
4 17.8 95th
9 21.0 95th
13 25.1 95th

Chúng ta thấy BMI của đứa  bé  giảm khi ở tuổi chưa đi học và  tăng  lên  khi nó  lớn tuổi hơn

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

IMC = BMI

Công thức tính:

BMI =             trọng lượng tính bằng            
(chiều cao bằng  mét)²

Tốt nhất: đàn  ông, IMC = 22,7 kg/m²

               đàn bà ,   IMC = 22,4 kg/m²

Đàn bà

Đàn ông

5
CAO

Vừa

Mập vừa

Béo phì

1,56

49 à 61

68

79

1,58

50 à 62

69

81

1,60

51 à 64

71

83

1,62

53 à 66

73

85

1,64

54 à 67

75

87

1,66

55 à 69

77

89

1,68

57 à 71

78

91

1,70

58 à 72

80

93

1,72

59 à 74

82

96

1,74

61 à 76

84

98

1,76

62 à 77

86

100

1,78

64 à 79

88

102

1,80

65 à 81

90

105

1,82

67 à 83

92

107

1,84

68 à 85

94

109

1,86

70 à 86

96

112

1,88

71 à 88

98

114

1,90

73 à 90

100

117

1,92

74 à 92

102

119

       

IMC

20,1 à 25

27,8

32,3

CAO

Vừa

Mập vừa

Béo phì

1,46

40 à 51

59

66

1,48

41 à 52

61

68

1,50

42 à 54

63

70

1,52

43 à 55

64

72

1,54

44 à 56

66

74

1,56

46 à 58

68

76

1,58

47 à 59

70

78

1,60

48 à 61

71

80

1,62

49 à 62

73

82

1,64

50 à 64

75

84

1,66

52 à 66

77

86

1,68

53 à 67

79

88

1,70

54 à 69

81

90

1,72

55 à 70

83

92

1,74

57 à 72

84

94

1,76

58 à 74

86

96

1,78

59 à 75

88

99

1,80

61 à 77

90

101

1,82

62 à 79

92

103

1,84

63 à 81

94

105

1,86

65 à 82

97

108

       

IMC

18,7- 23,8

27,9

31,1

(http://www.cdc.gov)

BMI  
< 18.5 Gầy
18.5 – 24.9 Vừa
25.0 – 29.9 Hơi mập
>30.0 Béo phì

Drawing of a man with a muscular build

6'3" Cao 6'3"
220 lbs Nặng 220 lbs
27.5 BMI 27.5

Nhưng... hãy coi chừng

Drawing of a man with a less muscular build

 

IV) Những lời khuyên để giảm cân 

Bạn đã lên vài ký trong mùa Ðông hay có một sự thay đổi vì bạn đã phải trải qua một thời kỳ khó khăn... Kết quả là bạn cảm thấy cơ thể mình không ổn và làm mất đi vài ký sẽ là điều tốt cho bạn.

Bạn có thể thành công trong việc làm mất vài ký với 2 điều kiện: thay đổi thói quen ăn uống và tăng cường hoạt động thể lực. Không cần phải làm thể thao (sport), mà chỉ cần đi bộ mỗi ngày và một ít bơi lội mỗi tuần sẽ giúp ích rất nhiều.

Chú ý là nếu bạn muốn bớt trên 5 ký, phải khám bác sĩ, hay một thầy thuốc chuyên khoa ăn uống (diététicien) bởi vì bạn cần được theo dõi thường xuyên.


1) Vài nguyên tắc:

Muốn giảm cân phải áp dụng vài nguyên tắc vững chắc sau đây:

* Phải tự định cho mình thời gian, phải mất ít nhất 2-3 ký

* Ngăn ngừa những cơn đói cồn cào và sự mỏi mệt

* Giữ tốt những quy luật ngay từ khởi đầu

* Tránh để thiếu vitamine và khoáng chất

* Không nên dùng thuốc hay thực phẩm đặc biệt

* Giữ cho mình một thú vui lớn trong khi ăn



2) Tự giữ cho mình những quy luật và đi đến cùng

Ðể thay đổi chế độ ăn uống, phải giảm một cách điều độ năng lượng do thức ăn đem đến, nghĩa là chất béo và đường. Phải áp dụng triệt để chế độ ăn uống:

* Không bỏ bữa ăn, nhất là bữa ăn sáng phải được thịnh soạn. Buổi tối ăn thức ăn nhẹ.

* Không ăn gì ngoài những bữa ăn chính. Nếu bạn cảm thấy đói giữa những bữa ăn, hãy uống một ly nước, ly cà phê hay trà không đường. Nên uống thêm trước bữa ăn và trong bữa ăn.

* Tiếp tục ăn chất bột mỗi bữa ăn: bún, cơm, khoai tây hay bánh mì. Chúng tạo cho bạn cảm giác no và mang đến cho bạn năng lượng cần thiết đồng thời cung cấp chất sợi. Ngược lại, những gì ăn theo nó thì nên giới hạn: xốt béo, bơ, phô ma, kem tươi (crème fraîche = fromage frais) vân vân... Phải dùng chất bột riêng rẽ hay trộn với đồ gia vị không đường và không chất béo.

* Không dùng nước ngọt có ga.

* Không dùng rượu và bia. Bạn có thể tiếp tục uống rượu nho đỏ và giới hạn 1 ly mỗi ngày.

* Tránh ăn bên ngoài bởi vì sẽ rất khó kiểm soát thực phẩm. Nơi tiệm ăn, đôi khi cũng được, nơi bạn bè thì khó hơn. Nếu bạn ăn chung với nhiều người, phải ráng bớt lượng thức ăn và nhất là không bao giờ ăn thêm một phần nữa

* Chọn thịt "gầy" (viande maigre) tức là thịt không mỡ và ưu tiên cho thịt gà không da, cá và tôm cua.

* Chú ý những chất mỡ lẫn trong thực phẩm: tránh tất cả những loại xốt làm bằng thịt, thực phẩm làm bằng thịt heo có mỡ, những thức ăn nướng (gratin) giàu sữa, bơ hay kem, gruyère (một loại fromage chín) và trứng, đồ chiên xào, bành mì viennoise (ngọt) và bành ngọt, kẹo và sô cô la, kem lạnh và bánh ga tô ăn chơi .

* Ăn rau tùy thích dưới mọi hình thức: sống, chín, xúp.

* Ăn hai trái cây mỗi ngày, không được ăn thêm.


3)  Chọn kỹ cách thức nấu:

- Thịt:
nướng hay rô ti

- Cá: nướng, hấp lò hay nấu bằng lò vi ba (micro-ondes, micro waves) hay bao giấy nướng.

- Rau cải: hấp, hầm hơi hay hấp lò vi ba.

* Trộn đồ gia vị và xốt càng ít chất béo càng tốt: cho một ít dầu ăn, bơ hay kem , rồi dùng chanh, yaourt, viên nước cốt thịt để nấu canh (bouillon cube) và xì dầu, cuối cùng thêm gia vị với rau thơm và đồ gia vị.


4) Chọn lựa thức ăn chứa ít năng lượng

Muốn chọn thức ăn chứa ít năng lượng phải biết giá trị dinh dưỡng của thực phẩm

Đăng lần đầu : 23/05/2004

Cập nhật : 11/08/2008

 Bài đọc thêm:

Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt

 

 

© http://vietsciences.org   và  http://vietsciences.free.fr Võ Thị Diệu Hằng