Những bài cùng tác giả
Bên nước ta có nhiều loại cà.
Trừ cà kheo, cà mèn, cà rá, cà ròn, cà sa, cà vạt, …những cà bát, cà dái, cà
dại, cà dừa, cà độc dược, cà gai, cà hoang, cà hôi, cà lào, cà na, cà ổi, cà
pháo, cà quánh, cà quinh, cà tím, ngay cả cà rốt, cà phê… nhập khẩu thuộc
loài thảo mộc, còn những cà ghim, cà kếu, cà niễng, cà tong,… thì lại thuộc
loài động vật. Trong số nầy, cà cuống là một côn trùng được nói đến nhiều
nhất. Trước ở miền Bắc, nay phổ biến khắp nơi, dầu cà cuống hương mùi độc
đáo, có người cho cay đắng, nhưng nhỏ một vài giọt vào bát phở, tô bún thì
lại nâng cao mùi vị của món ăn. Ở Á châu, cà cuống thường được dùng toàn cơ
thể làm thức ăn, từ Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar qua Trung Hoa, Singapore,
Indonesia (13). Người Tàu ăn cà cuống luộc thêm một chút muối ở
Quảng Châu hay xào trong dầu mè ở Bắc Kinh. Ở Singapore, fwai fa shim im
là một món cà cuống rất được ưa thích (3) . Người Thái Lan gọi cà
cuống là mangda. Họ trộn nhuyễn toàn cơ thể, có khi vứt bỏ mắt, cánh
và những bộ phận xơ cứng, với hành, kiệu, ớt, đường, thêm vào nước chanh,
nước mắm thành một thứ bột nhão gọi là nam prik mangda để ăn với cơm
hay rau (13) .
Ở ngoài Bắc,
cà cuống được loại chân, cánh, đuôi phụ rồi hấp cách thủy
trong một cái chõ hay nướng trên lò than để ăn ; cũng có khi
để nguyên con còn cả vỏ chitin đem thái nhỏ rồi xào mỡ để ăn
ngay hay ướp muối để tích trữ. Người biết thưởng thức không
sao quên được hương vị cà cuống thịt. “Bỏ cánh đi rồi, anh
nhần nhần sáu cái chân nó, lấy cái đầu, xé ra nhấm nhót cái
ức trước rồi cái đuôi sau, anh sẽ thấy nó có một vị ngon
khác hẳn các món ăn ngon nào khác : nó nhận nhận, bùi bùi,
beo béo mà lại thanh thanh, một người tục có thể ăn cả trăm
con mà không biết ngán” (16). Cà cuống sinh
trưởng ở dưới nước, tại các ruộng sâu, hồ ao, sông lạch,
sống bằng trứng cá và các loài nhuyễn thể. Mùa cà cuống vào
tháng 10 âm lịch, sau vụ gặt lúa mùa ở các đồng ruộng, ao
hồ. Tháng 7-8, ban đêm cà cuống thường bay vào các nơi đèn
sáng (16). Trứng cà cuống lượm trên các thân cỏ
dưới nước. Con trẻ thường thích ăn trứng cà cuống sống hay
nướng. Để bắt cà cuống, người ta thường dùng những dụng cụ
đánh cá như lờ, đó, rưu, dậm. Ở Thái Lan và Việt Nam, cách
dùng đặc biệt cà cuống cay là chiết xuất tinh dầu của nó để
làm tăng hương vị món ăn, cuốn, thang, bánh chưng, nước mắm
(1). Thạch Lam, thời tiền chiến, đã thi vị hóa
món ăn : “Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm ngát,
lại điểm thêm một chút cà cuống thoảng nhẹ như một nghi ngờ”
(2).
Vũ Bằng, một nhà văn quê ngoài Bắc vào
sống trong Nam, luôn nhớ đến cà cuống và cho nó là một gia
vị quý hơn cả bát trân. Ông kể trong cuốn Thương nhớ mười
hai : “ Tục truyền rằng Triệu Đà là người đầu tiên ở
nước ta ăn cơm với con cà cuống. Thấy thơm một cách lạ lùng,
ông ta gửi dâng vua Hán một mớ và gọi là quế đố nghĩa
là con sâu cây quế. Vua Hán nếm thử thì nhận rằng nó giống
mùi quế thực, khen ngon và phân phát cho quần thần mỗi người
một con. Bất ngờ, trong đám có một ông lắm chuyện lại tâu
rằng : “Đó không phải là con sâu sống trong cây quế, mà chỉ
là một con sâu sống dưới nước, thủy đồ ”. Vua mới
phán rằng : “ Thử nãi Đà chi cuống dã ” nghĩa : đó là lời
nói láo của Đà. Từ đó cà cuống thành ra đà cuống. Nó còn có
một tên nữa là long sắt nghĩa là "rận rồng ” (16)
. Trước đó hơn một nửa thế kỷ, sự tích nầy đã được cụ Nguyễn
Công Tiểu, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Công nghiệp và Lâm
nghiệp Đông Dương, cán sự Sở Công nghiệp, kể lại trong
Tạp chí Kinh tế Đông Dương (1) với
lời phán của vua Tàu có phần khác : “Nam Việt hà nhân quế
đố, anh hùng vị tất bất khi nhân ” vẫn cùng hàm ý chế nhạo.
Cà cuống là một loại côn trùng Belostomatidae sống
dưới nước thuộc họ Cryptocerate, bộ cánh khác
Heteroptera, lớp cánh nửa Hemiptera. Nó mang tên
khoa học Belostoma indica Vitalis hay Lethocerus
indicus Lep. et Serv. Khi non giống như con dán, mình
dài 7-8cm, rộng 3cm, màu nâu xám, có nhiều vạch đen, đầu nhỏ
với hai mắt tròn và to, miệng là một ngòi nhọn hút thức ăn.
Ngực dài bằng 1/3 thân, có 6 chân dài, khỏe. Bụng vàng nhạt
có lông mịn, ở phía trên có một bộ cánh mỏng nửa mềm nửa
cứng. Khi mổ cà cuống, ta thấy nó có một bộ máy tiêu hóa dài
khoảng 45cm, gồm có một ống đầu trên nhỏ là cuống họng, đầu
dưới phình to chứa một thứ nước có mùi hôi. Sát ngay bầu
chứa nước nầy là hai ngòi nhọn mà con cà cuống có thể thò ra
thụt vào được. Nếu lấy tay rút mạnh hai ngòi nầy thì cả bộ
tiêu hóa của cà cuống có thể bị lôi ra ngoài. Ở dưới ngực,
ngay gần phía lưng, có hai ống nhỏ gọi là bọng cà cuống. Mỗi
bọng dài 2-3cm, rộng 2-3cm, màu trắng, trong chứa một chất
thơm, đó là tinh dầu cà cuống. Nhưng chỉ có con đực mới có
tuyến nầy phát triển
(11)Muốn lấy dầu
cà cuống, người ta áp bụng cà cuống xuống phía dưới, để phía
lưng lên, lấy một que tre đầu vót nhọn, đem rạch ngang lưng
nơi tiếp giáp với ngực, nghĩa là ở vị trí đôi chân thứ ba,
sau đó gấp bụng cà cuống xuống, tức khắc hai cái bọng dầu cà
cuống sẽ lòi lên phía trên. Lấy đầu tre nhọn khều hai cái
bọng này ra, dùng ngón tay khẻ bỏ bọng vào bát hay chén. Khi
được nhiều bọng, chích bọng cho dầu thoát ra khỏi bọng. Vỏ
bọng được loại bỏ đi, nếu không, để lâu dầu cà cuống sẽ có
mùi hôi. Tinh dầu cà cuống là một chất lỏng trong như nước
lọc. Để ngoài không khí rất dễ bay hơi do đó dầu cà cuống
cần đựng trong lọ nhỏ, nút kín. Tùy theo con to, nhỏ mà tinh
dầu có nhiều hay ít. Trung bình một con cho 0,02mL, 1.000
con đực mới thu được chừng 20mL (11) .
Dầu cà cuống, nhẹ hơn nước, cho thoảng ra
một mùi đặc biệt giông giống như mùi quế. Ông Trịnh Văn Hợi,
kỹ sư hóa học ở Phòng Thí nghiệm Nông học ở Hà Nội, không có
phương tiên phân tích, đoán chất dầu có thể là amyl
valerianat (1) . Năm 1957, nhân được Ban Khoa học
Kỹ thuật và Văn hóa Tòa Đại sứ Pháp cấp học bổng, kỹ sư
Nguyễn Đăng Tâm, nay đã qua đời, qua Đức dự thảo luận án
tiến sĩ tại phòng thí nghiệm của giáo sư Adolf Butenandt tại
Viện Sinh vật học Max-Planck ở Tubingen-München. Vào hồi đó,
giáo sư Butenandt và các cộng sự viên đã khảo cứu nhiều về
các chất hấp dẫn tính phái pheromon, đặc biệt của bướm tằm
hay bạch cương tàm Bombyx mori L. Bắt đầu từ
2-hexenol, họ thấy càng tăng gia dãy carbon và các dấu nối
đôi như trong các chất 2,4-hexadienol hay 2,4,6-octatrienol,
sức hấp dẫn lại càng lớn. Nhiều văn bằng sáng chế mang tên
ông và các nhà cộng sự đã đề nghị dùng, hoặc một mình, hoặc
trộn lẫn với các chất diệt trùng, những chất hấp dẫn tính
phái như tetradecadienol, pentadecadienol, hexadecadienol, …
(6). Đến phiên anh Tâm lấy tinh dầu cà cuống làm
nguyên liệu. Sử dụng những phương pháp phân tích mới mẻ nhất
hồi ấy, anh phát hiện được thành phần chính của dầu là phân
tử (E)-2-hexenol acetat (E hay trans là một trong hai thể
của dấu nối đôi giữa hai carbon 2 và 3, dạng kia là Z hay
cis). Để hoàn thành luận án, anh còn đề nghị một phương pháp
nhân tạo tổng hợp phân tử ấy từ butyraldehyd và ethyl
malonat trong môi trường pyridin (9). Hexenol
acetat chế tạo ra, độ sôi 168-170°, chỉ số khúc xạ n25D
= 1,4160, cũng có dạng E như chất thiên nhiên (4).
Nhưng chất anh Tâm tìm ra được không phải
độc nhất trong dầu cà cuống mà chỉ là thành phần lớn nhất.
Bảy năm sau, ở Hà Lan, nhờ máy sắc ký khí tinh xảo hơn, V.
Devakul và H. Maarse khám phá ra dầu cà cuống chứa đựng cả
một chục chất khi khảo sát sắc khí phổ. Ngoài hexenol
acetat, họ xác định được một thành phần khác, tương đối ít
hơn, là 2-hexenol butyrat cũng ở dạng E (5).
Ngoài ra, môt số amin acid như alanin, arginin, glutamic
acid, methionin, phenylalanin, tryptophan, tyrosin, valin,…
đã được tìm ra trong nhiều bộ phận của cà cuống trưởng thành
: bắp thịt lồng ngực, màng treo dạ dày, máu và bạch huyết,
buồng trứng (7). Người ta cũng nhận thấy chất
prolin liên quan đến sự cầm giữ và bảo quản nước thì lại
vắng mặt trong máu và bạch huyết (8). Bên cạnh
(E)-2-hexenol acetat, chất đồng vị (Z)-3-hexenol acetat đã
được phát hiện trong tế bào trái một loại táo (13),
trong thân một cây mùi tây Anthriscus nitida (1),
trong lá loại đậu nành Davis (14), trong trái nho
Vitis vinifera (17), trong dầu ô liu
(10), hay trong số các chất dễ bốc hơi của cây đậu
Vigna unguiculata (15). Những phân tử nầy
cống hiến mùi hương (19) có tính chất hấp dẫn sâu
bọ (14) và đã được hòa trộn với nhiều chất khác
làm thơm thuốc thoa da hay thuốc đánh răng (20).
Đáng để ý là song song với hexenol acetat, hexenol butyrat ,
những chất hấp dẫn tính phái tương tự như (E)-2-octenyl
acetat, (E)-2-decenyl acetat,… đã được phát hiện trong những
loại sâu như Rhoecocoris sulciventris, Biprorulus bibax
(6). Cũng nên biết là cis-hexenol có mặt
trong cây cỏ nên thường được gọi là
“rượu của lá ” còn trans-hexenal hiến
mùi lá nên mang tên “aldehyd của lá
” (5).
Người ta
nghĩ đến mùa sinh nở, cà cuống đực tiết tinh dầu làm cho cà
cuống cái ngửi thấy ngoi theo và đôi cà cuống đực cái tìm
nơi yên ổn mà giao phối. Ngoài chức năng tính phái nấy, dầu
cà cuống còn có phận sự săn mồi, bảo vệ. Khi kiếm mồi gặp cá
lớn, cà cuống lao mình bám lấy, tìm chỗ huyệt châm ngòi
chích tinh dầu vào, tức thì con mồi bị tê liệt, lăn kềnh ra,
cà cuống cứ việc bám vào mà hút máu ; hoặc khi cà cuống bị
con vật khác đuổi thì phun chất tinh dầu nầy, làm cho kẻ
địch ngửi thấy mùi phải rút lui. Trên thực nghiệm, dùng với
liều nhỏ thì tinh dầu cà cuống có tác dụng kích thích thần
kinh và hưng phấn bộ phận sinh dục, nhưng dùng với liều cao
thí có thể gây ngộ độc (11).
Hồi còn công
tác ở Viện Hóa Học các Chất Thiên Nhiên ở Gif-sur-Yvette
(Pháp), trong phòng thí nghiệm của giáo sư Bửu Hội, tiến sĩ
Nguyễn Đạt Xường và cộng sự viên có chương trình khảo cứu
những chất tương tự. Non 50 hexanyl, hexenyl, hexynyl,
cyclohexanyl, cyclohexenyl ester (acetat, butyrat,
propionat, hexanoat, decanoat, valerianat, benzoat,
ethoxalat, theonat, furoat, nocotinat,) đã được nhân tạo
tổng hợp dựa lên phản ứng ester hóa các phân tử rượu với một
acid chlorid. Những kết quả không đăng báo nầy không được
khai thác về mặt ứng dụng có lẽ các chất nhân tạo nầy thoạt
xem không thấy có hương vị thơm cay, ngon lành như dầu thiên
nhiên. Thật ra, ngay cả chất hexenol acetat nhân tạo mà
người Thái Lan đã khai thác trên thương trường, hoàn toàn
ròng sạch, cũng không làm vừa ý người dùng. Phải chăng dầu
cà cuống thơm ngon vì nó có hương vị của một hỗn hợp nhiều
chất mà ngoài hexenol acetat và hexenol butyrat, ta chưa xác
định được cấu tạo các thành phần khác, tuy số lượng không
bao lăm nhưng góp phấn tích cực vào hương vị dầu. Đây cũng
là một đề tài khảo cứu hữu dụng cho các phòng sinh vật học.
Một cảnh
tượng quê hương mỗi lần gợi lên biết bao thương nhớ ở người
sống xa xứ : “… những người đàn bà bán cà cuống ấy sở dĩ
không cần rao vì họ đã có khách quen cả rồi : có hàng thì cứ
tự nhiên đem vào bán, mà đã vào thì các bà nội trợ cứ tự
nhiên mua. Người bán và người mua cùng ngồi nhễ bọng cà
cuống cho vào một cái đĩa nhỏ, đến khi xong cả thì mới trút
vào trong một cái ve nhỏ bằng ve dầu Vạn Ứng, đậy thật kín,
lấy giấy bóng bao ngoài cái nút rồi lấy giấy quấn chặt cho
không bay hơi đi mất ” (16) .
Tài liệu
1-Nguyễn
Công Tiễu, Notes sur les insectes comestibles du Tonkin, Bulletin
économique de l’Indochine, 31ème année, Nouvelle série, VIII 198
(1928) 735-794
2- Thạch
Lam, Hà Nội băm sáu phố phường, nxb Đời nay, Hà Nội (1943) 42
3- F.S.
Bodenheimer, Insect as human food, W. Junk Publishers, The Hague
(1951) 266, 272
4- A.
Butenandt, Nguyen Dang Tam, Uber eines geschlechsspezifischen Duftstoff
Belostoma indica Vitalis (Lethocerus indicus Lep.),
Hoppe-Seyler’s Zeitschrift fur Physiologische Chemie (1)308
(1957) 277-83
5- V.
Devakul, H. Maarse, A second compound in the odorous gland liquid of the
giant water bug Lethocerus indicus (Lep. and Serv.),
Analytical Biochemistry (3) 7 (1964) 269-74
6- M.
Jacobson, Insect sex attractants, Interscience Publishers
NewYork-London-Sydney (1965) 39, 46, 84, 103
7- A.P.
Saxena, Free amino-acids in the tissues of Belostoma indica (Hemiptera :
Belostomidae), Current Science (13) 40 (1971) 355-6
8- J.
Singh, Proline metabolism in heteroptera from different environment,
Biochem. Exper.Biol. (2) 14 (1978) 181-3
9- K.
Mori, Synthetic chemistry of insect pheromones and juvenile hormones,
Akadémiai Kiadó, Budapest (1979) 39
10- M.C.
D.Gracia, J.M. Olias, R.G. Gonzales-Quijano, Volatile components in the
aroma of virgin olive-oil. III. Reproductibility of the method used
for its isolation, concentration, and separation, Grasas y Aceites
(Sevilla, Spain) (5) 31 (1980) 317-21
11- Đỗ
Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội (1986) 993-4
12- R.G.
Berger, A. Kler, F. Drawert, C6-aldehyde formation from linolenic acid in
fruiy cells cultured in vitro, Plant Cell, Tissue and Organ culture
(2) 8 (1987) 147-51
13- R.
W. Pemberton, The use of the Thai giant waterbug Lethocerus indicus
(Hemiptera : Belostomatidae) as human food in California, Pan-Pacific
Entomologist (1) 64 (1988) 81-2
14- S.H.
Liu, D.M. Norris, P. Lyne, Volatiles from the foliage of soybean, Glycine
max, and lima bean, Phaseolus lunatus : their behavioral effects on the
insects Trichoplusia ni and Epilachna varivestis, J. Agric. Food
Chem. (2) 37 (1989) 496-501
15- W.
Lwande, P.G. McDowell, H. Amiani, P. Amoke, Analysis of airborne
volatiles of cowpea, Phytochem., (2) 28 (1989) 421-3
16- Vũ
Bằng, Thương nhớ mười hai, nxb Văn học, Tp Hồ Chí Minh (1989) 205-10
17- C.
De La Presa-Owens, R.M. Lamuela-Raventos, S. Buxaderas, C. De La
Torre-Boronat, Characterization of Macabeo, Xarel, and Paredella white
wines frol the Penedes region. II., Amer. J. Enol. Vitic. (4)
46 (1995) 529-41
18- B.
Muckensturm, F. Diyani, J.P. Reduron, Grilactone and other terpenoids
from Anthriscus nitida, Biochem. Syst. Ecol. (7/8) 23
(1995) 875-6
19- X.
Wan, J. Tang, X. Ding, Q. He, Free and glucosidically bound volatile
flavor compounds in hawthorn, Shipin Yu Fajiao Gongye, (2) 24
(1998) 20-6
20- H.D.
Kim, Y.H. Kim, S.Y. Yoon, Perfume composition for reducing irritation of
skin whitening agent and improving flavor in toothpaste composition which
uses peroxide and sodium bicarbonate as whitening agent, Repub.
Korean Kongkae Taeho Kongbo KRXXA7 KR 2002045226 A 20020619
(2000)
(Đã
đăng trong Nghiên cứu và Phát triển số 4 (34) 2000, có sửa
lại và bổ túc tài liệu)
© http://vietsciences.free.fr
và
http://vietsciences.org Võ Quang Yến
|