Trung Quốc Du Hành Ký (1) -  Quảng Châu

Vietsciences- Trương Văn Tân       26/02/2007    
 

Những bài cùng tác giả

 

Tôi đến Quảng Châu vào một buổi tối sau những ngày Tết Nguyên Đán Giáp Thân. Khi chiếc máy bay hạ cánh xuống phi trường Bạch Vân của thành phố Quảng Châu kết thúc chuyến đi dài 9 tiếng đồng hồ từ Úc tôi không có nhiều kỳ vọng vào Quảng Châu, vẫn nghĩ Quảng Châu là một thành phố tạp nham người xe lẫn lộn như những bức hình tôi thấy vài thập niên trước. Nhưng khi chiếc taxi chở tôi vào khách sạn ở trung tâm thành phố, tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác. Quảng Châu đã có những đường xe cao tốc trong thành phố, hai bên đường san sát những toà nhà cao tầng hành chánh, thương mãi hay là những toà nhà chung cư cho dân thành phố. Với những dòng chữ Hán dọc theo bên đường, những tấm biển quảng cáo neon đủ màu sắc, xe hơi chạy ào ạt trên những con đường cao tốc lập thể làm tôi có cảm giác như đang trở lại Tokyo nhưng với một bầu trời khoáng đảng hơn vì so với Nhật đường cao tốc ở đây rộng rãi và những toà nhà đồ sộ hơn. Tôi ngẩn ngơ không biết đây có phải là Quảng Châu, Trung Quốc, bởi vì sự tưởng tượng và thực tế cách nhau quá xa.

 

Phạm Hồng Thái và Hoàng Hoa Cương

Tôi đến Trung Quốc lần thứ nhất và Quảng Châu là thành phố Trung Quốc tôi đặt chân đến đầu tiên. Lâu nay tôi vẫn mong được đến thành phố nầy để viếng thăm Hoàng Hoa Cương nơi chôn cất liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Việc đầu tiên của sáng ngày hôm sau là tìm đường đến Hoàng Hoa Cương. Hoàng Hoa Cương nằm trên một con đường chính của thành phố có tên là Đường Tiên Liệt (Senle Lu: Tiên Liệt Lộ). Tên chính thức của Hoàng Hoa Cương là Công Viên Hoàng Hoa Cương một trong “Quảng Châu Bát Cảnh” của thành phố.  Đây là nơi  chôn cất 72 người liệt sĩ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng cầm đầu một cuộc khởi nghĩa không thành công chống triều đình nhà Thanh ngày 27 tháng 4 năm 1911. Toàn thể 72 người liệt sĩ bị giết hoặc xử tử. Những người nầy là những đảng viên trẻ và ưu tú của Quốc Dân Đảng. Mặc dù thất bại cuộc khởi nghĩa nầy dẫn đến Cách Mạng Tân Hợi thành công tại thành phố Vũ Xương gần 6 tháng sau đó (ngày 10 tháng 10 năm 1911). Chủ Tịch Quốc Dân Đảng là Bác Sĩ Tôn Dật Tiên tuyên bố sự cáo chung của nhà Thanh mở ra thời đại Trung Hoa Dân Quốc.

Thật ra, Hoàng Hoa Cương là nơi an nghỉ của hơn 80 người anh hùng liệt sĩ thời Dân Quốc mà Phạm Hồng Thái là một liệt sĩ nước ngoài duy nhất được chôn cất ở đây. Hoàng Hoa Cương chiếm một diện tích 130 000 m2 với một cửa Tam Quan hùng tráng được khắc bốn chữ “Hạo Khí Trường Tồn” do Bác sĩ Tôn Dật Tiên đề. Đi qua cửa Tam Quan là bức tượng Nữ Thần Tự Do được mô phỏng theo Statue of Liberty của Mỹ. Từ cửa Tam Quan là một con đường 200 m dẫn đến tấm bia khắc tên 72 liệt sĩ.  Mỗi ngôi mộ ở đây được xây cất theo nhiều phong thái khác nhau trông rất hùng tráng và uy nghiêm. Mộ của Phạm Hồng Thái ở phiá sau công viên tọa lạc trên một khoảnh đất khá rộng. Trước khi bước vào khuôn viên ngôi mộ có một tấm bia lớn viết bằng tiếng Hán lược thuật lại hành động anh hùng của ông. Ngày 19 tháng 6 năm 1924, sau khi viết bảng cáo trạng tố cáo tội ác của thực dân Pháp đến nhân dân toàn thế giới, Phạm Hồng Thái giả dạng ký giả vào Khách Sạn Victory tại tô giới Sa Diện để ám sát toàn quyền Merlin. Merlin thoát chết và Phạm Hồng Thái phải gieo mình xuống dòng Châu Giang tự tử. Cảm xúc trước hành vi anh hùng của Phạm Hồng Thái, Thị Trưởng Quảng Châu lúc đó là Hồ Hán Dân của Chính Phủ Quôc Dân Đảng đem thi thể Phạm Hồng Thái an táng tại Nhị Vọng Cương trong khuôn viên Hoàng Hoa Cương. Ngôi mộ được thiết kế để tấm bia quay về hướng Tây Nam là hướng của Tổ Quốc Việt Nam. Đến năm 1958, vì nhu cầu xây đường xe trong thành phố ngôi mộ được di chuyển đến vị trí hiện tại và được Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Quảng Châu trùng tu cho đến ngày hôm naỵ  Tấm bia được viết bằng tiếng Việt phiá trên “Mộ Liệt Sĩ Phạm Hồng Thái”, phần dưới tiếng Hán ghi là “Việt Nam Phạm Hồng Thái Liệt Sĩ Chi Mộ”. Tôi đứng trước ngôi mộ chắp tay lại vài giây để tưởng niệm một người anh hùng đã vì sự nghiệp giải phóng dân tộc bỏ mình nơi đất khách. Tôi có mua một quyển sách nhỏ giới thiệu Hoàng Hoa Cương bằng tiếng Hán trong đó hình ảnh và tiểu sử Phạm Hồng Thái chiếm hai trang. Kế bên ngôi mộ Phạm Hồng Thái có một ngôi mộ người Việt Nam nhỏ hơn trông rất đơn sơ qua đời năm 1967 có lẽ là đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam nhưng không biết có liên hệ gì đến Phạm Hồng Thái.

 

Mộ Phạm Hồng Thái

Tôi đến công viên Hoàng Hoa Cương đúng vào buổi sáng một ngày thứ Bảy của những ngày sau Tết Nguyên Đán nên khách vãng lai khá nhiềụ  Có những cô cậu học sinh đứng trước những ngôi mộ ghi ghi chép chép. Những cặp vợ chồng trẻ với con nhỏ quây quần bên nhau dưới những hàng cây cao rợp bóng. Những người trung niên thì tụ tập trước những sân trống của những ngôi mộ đá cầu lông hoặc tập nhảy những điệu nhảy Rhumba, Tango trông rất là điệu nghệ. Những người cao niên hơn thì tập Taichi hoặc cùng nhau ca những bài ca Việt Kịch (kịch Quảng Đông) với sư hỗ trợ của tiếng đàn Nhị hồ và tiếng sáo. Tôi đi lửng thửng thì gặp một nhóm ông bà cụ tụ tập rất đông đảo. Một bà cụ vừa ca vừa thách thức một ông cụ, ông cụ ca lại nhưng có vẻ đối đáp không lại bà cụ. Những người xung quanh vừa vổ tay vừa cười ra chiều thích thú. Tất cả tạo nên một cảnh sắc vui tươi nhộn nhịp và thanh bình chưa từng thấy. Ca được một lúc họ giải tán. Tôi tò mò hỏi bà cụ ban nảy bằng tiếng Phổ Thông (Mandarin) nhát gừng của tôi “Qúi vị làm gì mà vui thế??”, bà cụ nghe cái giọng trọ trẹ của tôi hỏi lại “Cậu từ đâu tớỉ Hong Kong? Singapore Malaysia” “Không! Từ Úc Châu”, bà ấy la lên “À… Tôi cũng có thân nhân ở Úc”. Thế là bà cụ nắm tay tôi ca một mạch gần 5 phút những câu chúc Tết “Kong hee fat choy, Vàng ngọc đầy nhà, Dồi dào sức khỏe, Trường thọ diên niên…..”. Người đi qua lại nhìn tôi không biết chuyện gì xãy ra. Tôi ngơ ngác hơi “quê”, nhưng đến thăm Hoàng Hoa Cương lại được một bà cụ chúc Tết “tràng giang đại hải” thì thế nào cũng có một năm may mắn, “phúc mãn đường” vậỵ

 

"Tiếng bom Sa Diện"

Tối hôm sau tôi cùng một người bạn Trung Quốc đi dạo một vòng “Quảng Châu by night” bằng xe hơi. Dòng sông Châu Giang chảy ngang thành phố Quảng Châu. Bên nầy con sông là trung tâm sầm uất, bên kia con sông nhà cửa ít hơn và trên đà phát triển với một tòa nhà đồ sộ của Trung Tâm Triển Lãm Thương Mãi Quốc Tế. Chúng tôi chạy sang bên kia bờ để nhìn thành phố về đêm với những toà nhà cao tầng rực sáng. Hai bên bờ người ta trồng những hàng dừa (palm tree) dài hơn 5 km đươc phản xạ bằng những ánh đèn màu xanh trông rất huyền ảo.

Khi chúng tôi băng qua cầu để trở lại thành phố, một tấm bảng chỉ đường tình cờ đập vào mắt tôi với hai chữ Hán “Sa Diện” (Sa = cát, Diện = mặt) đọc theo tiếng Phổ Thông (Mandarin) là “Sa Mian”. Tôi bàng hoàng vì nơi đây đã xảy ra “Tiếng bom Sa Diện” của anh hùng Phạm Hồng Thái 80 năm trước. Tôi vội vã yêu cầu anh tài xế chạy theo hướng nầy để tìm Khách San Victory. Sa Diện thật ra là một hòn đảo nhỏ trên dòng Châu Giang. Ở đây con sông chia ra làm hai nhánh đổ ra biển. Sa Diện là một tô giới Anh dưới triều nhà Thanh. Nơi đây còn lại những tòa nhà với kiến trúc Tây Phương ở thế kỷ 18, 19. Khách Sạn Victory do người Anh xây cất là một toà nhà cao ba tầng chiếm một góc đường và bây giờ được đổi tên là Khách Sạn Shengli (Thắng Lợi).  Phiá trước mặt là một con kênh thông với sông Châu Giang cách đó không xa. Khi nhìn Khách Sạn này tôi bỗng nhớ đến một đoạn Sử học thuộc lòng ở thời kỳ Trung Học; “Sau khi ném bom thất bại, Phạm Hồng Thái chạy ra khỏi Khách Sạn. Bọn mật thám Pháp vừa đuổi theo vừa bắn. Phạm Hồng Thái chạy theo hình chữ “chi” để tránh đạn và hướng về phiá sông Châu Giang rồi nhảy xuống sông trầm mình tự tử”. Khi chiếc xe rẽ theo góc đường dọc theo Khách Sạn chạy về hướng sông Châu Giang lòng tôi cảm khái vô hạn. Có thể đây là con đường thoát thân của Phạm Hồng Thái 80 năm trước. Ở con đường ngang nầy bây giờ xuất hiện một nhà hàng có tên là “Vietnam Cuisine” thấp thoáng những cô gái Trung Quốc mảnh khảnh trong chiếc áo dài Việt Nam tha thướt. Người bạn Trung Quốc nói nhỏ với tôi “Đây là khu vực nhà cao cấp cua newly-rich!!”. Cách Khách Sạn Victory không xa là Khách Sạn năm sao White Swan (Bạch Thiên Nga) cao 30 tầng là một trong những biểu tượng của thành phố Quảng Châu hiện đại.

 

Viện Bảo Tàng Nam Việt Vương

Ngày kế tiếp tôi dùng xe điện ngầm đến thăm Viện Bảo Tàng lăng của Nam Việt Vương ngang Công Viên Việt Tú là công viên lớn nhất của thành phố Quảng Châu. Nơi đây là lăng của Văn Vương Triệu Muội (Zhao Mei) [1] là cháu nội của Vũ Vương Triệu Đà (Zhao Tuo). Triệu Muội là vua thứ hai của nước Nam Việt kế tục Triệu Đà. Lăng nầy tình cờ được phát hiện năm 1983 khi những chiếc xe xúc đất va vào một bức tường đá kiên cố dưới lòng đất trong một chương trình xây cất một trung tâm thương mãi tại khu vực nầy. Các chuyên gia về địa chất và khảo cổ được mời đến để tham gia vào việc khai quật hơn 1000 hiện vật cách đây hơn 2000 năm. Những hiện vật nầy phần lớn là những công cụ nấu ăn, vại chứa rượu, cốc uống rượu làm bằng đồng với những chi tiết điêu khắc rất là tinh vi. Sự phát triển đồ đồng có hơn 4000 năm trước. Điều nầy cũng dễ hiểu vì đồng có thể tinh luyện ở 1000º C trong khi sắt ở 1500º C. Những bộ dấu ấn bằng vàng của vua, thái tử, hoàng hậu và các bà phi cũng được trưng bày. Ngoài ra, có những hiện vật trang trí hoặc trang sức bằng ngọc được chạm khắc với một kỹ xảo tuyệt vời. Thi thể của Triệu Muội được bọc một khung có lát hằng ngàn ngọc lá. Bây giờ thi thể không còn gì mà chỉ còn một hàm răng của người đàn ông trên dưới 50. Ở một gian phòng khác người ta trưng bày những vị thuốc Bắc và những hạt mực để làm mực viết và vũ khí các loại. Có những thanh kiếm sắt dài hơn 1 m đã hoen rỉ, những mũi tên đồng bắn liên hoàn có thể là những mũi tên mà Triệu Đà dùng cho “nỏ thần” mà ông ta học được của An Dương Vương nước Âu Lạc.

Nhân vật Triệu Đà và nước Nam Việt là những sự kiện quen thuộc trong lịch sử Việt Nam. Cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc (2300 năm trước) tại Trung Quốc, Tần Vương Chính tóm thu sáu nước thống nhất Trung Nguyên (khu vực phiá Bắc sông Trường Giang) lên ngôi hoàng đế xưng là Tần Thủy Hoàng. Sau đó Tần Thủy Hoàng đem quân vượt sông Trường Giang (Dương Tử Giang) thôn tính các nước Bách Việt. Cũng nên nói thêm là Bách Việt là khu vưc phiá nam trung lưu va hạ lưu sông Trường Giang, bây giờ là một phần của tỉnh An Huy, tỉnh Giang Tây (Dương Việt), tỉnh Chiết Giang (Ư Việt), tỉnh Phúc Kiến (Mân Việt), Lưỡng Quảng (Quảng Đông/Quảng Tây) (Nam Việt); Bắc bộ và Bắc Trung bộ Việt Nam (Âu Việt và Lạc Việt). Quân Tần dừng chân ở Lưỡng Quảng. Triều đình nhà Tần giao việc quản lý Lưỡng Quảng cho một viên quan lại tên là Triệu Đà gốc người Hồ Bắc (Trung Quốc). Sau khi Tần Thủy Hoàng băng hà, loạn lạc nổi lên. Thừa cơ hội nầy, Triệu Đà thành lập cát cứ xưng vương lấy tên là Triệu Vũ Vương và đặt tên nước là Nam Việt bao gồm 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay, thủ đô là Phiên Ngung (Panyu, Quảng Châu ngày nay). Sau đó, Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc (Việt Nam) của Thục Phán An Dương Vương sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt qua chuyện tình nổi tiếng Trọng Thủy Mỵ Châu.

Lúc bấy giờ tại Trung Nguyên, sau khi nhà Tần sụp đổ thì xảy ra một cuộc tranh hùng giữa Hán Vương Lưu Bang và Sở Vương Hạng Võ. Lưu Bang chiến thắng và thành lập nhà Hán. Sau khi lập quốc, ba đời vua Hán còn vướng bận với việc chống trả người Hồ (Hung Nô) phương Bắc, trong triều đình lại bị Lữ Hậu (vợ Lưu Bang) chuyên quyền. Trong thời gian nầy nước Nam Việt được để yên khoãng 100 năm. Trong suốt cuộc đời làm vua, Triệu Đà nhiều lần thách thức Hán Triều để củng cố nền độc lập nước Nam Việt. Triệu Đà làm vua đươc 67 năm thì đến Triệu Muội (15 năm) và 3 đời vua sau (13 năm). Khi Hán Vũ Đế lên ngôi, vị vua trẻ nầy dùng vũ lực hoặc chính sách hòa thân (gả công chuá làm thông gia) để bình định người Hung Nô. Sau khi rảnh tay với Hung Nô, Hán Vũ Đế cử quân đánh Nam Việt. Nước Nam Việt bị diệt. Nước Âu Lạc là một phần của Nam Việt nên đất đai Âu Lạc cũng bị nhà Hán thống trị. Thời kỳ Bắc Thuộc 1000 năm bắt đầu. 

Có một chi tiết mơ hồ là khi tôi học lịch sử Việt Nam ở thời Trung Học, những sách giáo khoa Sử thường xem Triệu Đà như một ông vua Việt Nam. Thậm chí, trước 1975 ở Quận 5 Sài Gòn cũng có con đường Triệu Đà. Vì Triệu Đà là vua của vùng đất Lưỡng Quảng nên các sử gia “nghiệp dư” lại tiến thêm một bước nữa, tuyên bố “Lưỡng Quảng là vùng đất cũ của Việt Nam”! Khi đến Quảng Châu tôi thấy người ta dùng từ “Việt” rất nhiều chẳng hạn như “Việt Kịch” (kịch Quảng Đông) “Việt Ngữ” (tiếng Quảng Đông), Lưỡng Việt (Quảng Đông, Quảng Tây). Nhưng chữ “Việt” ở đây viết theo bộ Mễ (= gạo) . Có lẽ truyền thống Bách Việt vẫn còn ảnh hưởng đậm nét qua ngôn ngữ và văn hoá người Quảng Đông. Chữ Việt bộ “Tẩu” (= chạy, thí dụ: Việt Nam)   vẫn dùng qua lại với chữ “Việt” bộ “Mễ” trong quá trình lịch sử Bách Việt mấy ngàn năm. Cuối thời Xuân Thu (2500 năm trước), không phải một cách ngẫu nhiên Việt Vương Câu Tiễn dùng chữ Việt bộ Tẩu để đặt tên cho vương quốc của mình (bây giờ là điạ phận tỉnh Chiết Giang là một phần của Bách Việt). Tôi sẽ nói về Việt Vương Câu Tiễn ở phần sau.

 

Nam Hoa Thiền Tự

Trước khi đi Trung Quốc, một người đồng nghiệp trong cơ quan đề nghị với tôi nên thăm chuà “Nam Hoa Thiền Tự”, đến đây lạy Phật thì sẽ có nhiều “phúc đức”. Ngôi chùa nầy ở gần thị trấn Shaoguan (Thiều Quan) cách thành phố Quảng Châu 200 km về phiá Bắc. Chùa nầy được thành lập 1500 năm trước do một sư tổ người Ấn Độ (Bồ Đề Đạt Ma) đến Trung Quốc truyền đạo. Sư tổ đời thứ sáu Lục Tổ Huệ Năng sáng lập môn phái Thiền Tông là một nhà tư tưởng Phật Giáo được đặt ngang hàng với Khổng Tử và Lão Tử [2]. Đến chùa nầy phải đi bằng xe lưả. Không biết tôi có được cái may mắn hưởng nhiều “phúc đức” khi đến chùa Nam Hoa hay không nhưng tôi muốn biết kiến trúc của một ngôi chùa cổ và "thám hiểm" bằng xe lửa để thấy được sinh hoạt thật của người dân Trung Quốc.

 

Nhà Ga và Xe Lửa

Khi tôi đến ga xe lửa Quảng Châu thì từ xa đã thấy người trùng trùng lớp lớp. Người ta về quê ăn Tết bây giờ trở lại thành phố làm việc. Hằng chục ngàn người di động như một dòng thác trước quảng trường nhà ga. Từ xa những mái đầu người như những đợt sóng màu đen nhấp nhô không dứt. Tôi không nghe người ta la hét hoặc chửi bới. Họ di động với mớ hành lý cồng kềnh trong trật tự theo một qui luật bất thành văn. Tôi ở giữa dòng người ngơ ngơ ngác ngác, vai đeo ba lô đi những bước ngập ngừng không biết phải tiến thoái làm sao….. Điều khổ tâm khi du lịch Trung Quốc là người dân không biết tiếng Anh, bảng chỉ dẫn tiếng Anh lại không có. Trung Quốc là một nước đa dân tộc và nói nhiều giọng địa phương. Chính phủ khuyến khích người dân dùng tiếng Phổ Thông mà cơ bản là tiếng Bắc Kinh để có sự thống nhất tiếng nói. Dù vậy, nhiều người ở vùng sâu vùng xa vẫn chưa nói thông thạo.

Tôi chỉ biết nói tiếng Phổ Thông “lắp bắp” nhờ những bài học tiếng Trung Quốc của đài truyền hình Nhật Bản NHK. Nghe thì “loạng choạng”, nhưng nhờ Hán Tự (Kanji) trong tiếng Nhật nên không đến nổi “mù chữ”. Nhờ vậy tôi có thể sử dụng xe bus hay xe điện ngầm để di chuyển trong thành phố. Tôi chỉ dùng tiếng Phổ Thông “ba rọi” của tôi khi ở thế thượng phong làm “chủ” như ở trong nhà hàng, hoặc khách sạn để pha trò! Trong trường hợp hỏi thăm đường xá ở nhà ga thì nên giả câm giả điếc là cách hay nhất. Nói tiếng Phổ Thông “lắp bắp” chỉ làm cho người ta hiểu lầm tôi là một nông dân vùng núi vừa đến thành phố! Người Trung Quốc quá đông nên họ không có thì giờ đứng lại tỏ thái độ thân thiện hỏi han kẻ "lạc đường" như người Úc hay đối xử lễ phép như người Nhật. Làm sao bây giờ? Cái máu hải hồ trong tôi bỗng nhiên bừng dậy khiến cho cái đầu trở nên thông minh một chút…. Để hỏi cách thức mua vé, tôi viết chữ Hán nơi đi nơi đến cộng thêm vài dòng tiếng Anh linh tinh vào một tấm giấy. Tấm giấy có công hiệu như một lá bùa, không cần nói một lời chỉ đưa tấm giấy cho một cô bé ở phòng “Chỉ Dẫn” là tôi sẽ được đối xử một cách lịch sự duyên dáng, đến nơi đến chốn.

Xe lửa là phương tiện di chuyển chính liên tỉnh trên toàn quốc, tiện nghi và sạch sẽ. Trên chuyến xe lửa tôi đi, sau khi sắp xếp chỗ ngồi cho hành khách các cô nhân viên biến thành các cô bán đồ kỷ niệm. Đồ kỷ niệm ở đây là một tấm card mạ vàng giống như credit card, một bên là hình Mao Trạch Đông, mặt bên kia là số tử vi của 12 con giáp với hai câu đối “Vạn sự như ý” và “Xuất nhập bình an”!! Cô nhân viên quảng cáo tấm card gần 10 phút đồng hồ với giọng lanh lảnh như một nhà hùng biện. Tôi thấy nhiều người mua, tôi cũng bèn mua một tấm đúng con giáp của tôi để lấy hên đầu năm và được Bác Mao phù hộ!! Về phần “giúp vui” thì Cục Đường Sắt Trung Quốc cho hành khách nghe nhạc yêu nước hay nhạc ca tụng Mao Chủ Tịch với những lời ca hơi lổi thời như “Mao Chủ Tịch vạn tuế vạn vạn tuế” hay là “Mao Chủ Tịch ở mãi trong con tim chúng ta”… Người Trung Quốc nhất là nông dân dường như vẫn còn mang nhiều hoài niệm với Mao Trạch Đông.

************

Kể từ ngày Triệu Đà thành lập nước Nam Việt lấy Phiên Ngung làm thủ đô thì Quảng Châu có một lịch sử hơn 2000 năm. Tên Phiên Ngung vẫn còn nhưng bây giờ là Khu Phiên Ngung trực thuộc thành phố Quảng Châu. Quảng Châu cũng là nơi có nhiều liên hệ đến lịch sử Việt Nam cận đại. Ngoài Phạm Hồng Thái, nhiều nhà cách mạng Việt Nam cũng đã dừng chân tại đây cho những hoạt động cách mạng chống Pháp. Ngày nay Quảng Châu là một trung tâm thương mãi và kinh tế quan trọng của miền Nam Trung Quốc. Trong suốt 4 ngày tại đây, tôi không tìm được bóng dáng một căn nhà ở. Bảy triệu dân thành phố Quảng Châu đã bị chung cư hoá. Có những chung cư 10 tầng cũ kỹ, mốc thếch như chưa bao giờ được sơn. Có những chung cư đồ sộ hiện đại 20, 30 tầng cho những người khá giả hơn. Nhưng có lẽ nhờ vậy, tôi không thấy “slums” với những con kênh đen ngòm vì nước thãi. Hệ thống giao thông công cộng thành phố như xe bus và xe điện ngầm vừa rẻ vừa nhiều nên không thấy những chiếc xe hai bánh chạy hỗn độn như trên đường phố Sài Gòn.

Tôi từ giã Quảng Châu bay đến Thượng Hải. Từ trên máy bay tôi nhìn xuống dòng Châu Giang. Con sông đã từng làm chứng nhân cho bao cuộc thăng trầm lịch sử, bây giờ như trẻ lại loang loáng trong ánh nắng bình minh, vẫn lững lờ trôi về biển…

 

Chú Thích:

1.       Viện Bảo Tàng ghi là Muội, "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" ghi là Hồ

2.       Xem "Kinh Pháp Bảo Đàn", Thích Duy Lực dịch và lược giải

 

 

           © http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org Trương Văn Tân