Con người sẽ đặt chân lên sao
Hỏa vào năm 2020, 2050 hay không bao giờ? Việc
dự đoán thời điểm đang ngày một khó
khăn hơn. Bức xạ cực mạnh, tình
trạng mất xương trong môi trường không
trọng lượng, những cơn bão bụi chết
người và trạng thái tâm lý bất thường
chỉ là vài vấn đề nhỏ trong công cuộc
chinh phục đó..
Vào cuối những năm 1990, nhà địa
chất hành tinh John Marshall đã bắt đầu
việc nghiên cứu vật liệu chế tạo trang
phục cho các nhà du hành vũ trụ mặc trong
những cuộc thám hiểm sao Hỏa tương lai.
Ông thử nghiệm bằng cách đặt những
vật liệu đó vào một đường hầm
gió và phun vào một hỗn hợp đất sét đỏ
có cấu tạo tương tự như bụi trên hành
tinh đỏ. Kết quả là lớp bụi đó dính
chặt vào bề mặt vật liệu, không chùi
sạch được. Như vậy, nếu các nhà du
hành vũ trụ mặc trang phục được
chế tạo từ những vật liệu này khi làm
nhiệm vụ, họ sẽ phải đối mặt
với rất nhiều mối nguy hiểm tiềm tàng.
Những hạt bụi sao Hỏa bám chặt vào
quần áo sẽ theo các phi hành gia vào trong khoang vũ
trụ, ăn mòn các đai điều áp, nghiền nát
các ổ đĩa máy tính, làm chập các mạch
điện tử và thậm chí có thể khiến các
thành viên của phi hành đoàn phát ốm.
Đó mới chỉ là ví dụ đơn
giản nhất chứng minh cho sự bị động
của con người trong công cuộc chinh phục
"anh bạn láng giềng" của trái đất.
James Garvin, người đứng đầu chương
trình thám hiểm sao Hỏa của NASA thừa nhận
rằng khó khăn lớn nhất là họ chẳng bao
giờ biết được chắc chắn những
gì đang diễn ra trên hành tinh này.
Ba mươi năm trước, thành công
của chương trình đưa con người lên
mặt trăng khiến chúng ta đinh ninh rằng
việc chinh phục các hành tinh thuộc hệ mặt
trời không phải là quá khó. Thời điểm
đó, các kỹ sư không gian hy vọng kế
hoạch thực hiện một chuyến bay có người
lái lên sao Hỏa sẽ khả thi vào năm 1981. Tuy nhiên
sau hơn 20 năm, điều đáng giá nhất mà
NASA thu nhận được là bất cứ sự
vội vàng nào cũng chỉ mang lại thất bại
thảm hại. Ví dụ tại thời điểm
những năm 1970, các kỹ sư chắc chắn
sẽ chọn nhôm làm vật liệu chế tạo
vỏ tàu vũ trụ để ngăn bức xạ
độc hại. Nhưng những nghiên cứu gần
đây lại cho thấy, các nguyên tử nhôm có
thể bị tia vũ trụ phá hủy và như
vậy tấm lá chắn bảo vệ bằng nhôm vô hình
chung lại gây nguy hiểm cho phi hành đoàn.
Thời gian để thực hiện
một chuyến thám hiểm sao Hỏa cũng là
yếu tố gây ra nhiều trở ngại. Nếu như
chỉ cần khoảng một tuần để
thực hiện một nhiệm vụ trên mặt trăng,
thì thời gian của một chuyến thám hiểm
"Thần chiến tranh" có thể kéo dài đến
3 năm. Quãng thời gian ở trong không gian dài như
vậy buộc các nhà khoa học phải tìm ra những
biện pháp bảo vệ sức khỏe thể
chất cũng như tinh thần của phi hành đoàn,
phát triển những thiết bị phù hợp với
điều kiện sao Hỏa và cả những bộ
phận thay thế và sửa chữa trong trường
hợp hỏng hóc. Đồng thời họ cũng như
đảm bảo đủ lương thực, nước
và những nhu yếu phẩm khác bởi vì việc
tiếp tế từ trái đất là điều không
thể.
Mặc dù tiến độ chinh phục
sao Hỏa không theo kịp dự kiến ban đầu
của các nhà khoa học nhưng không vì thế mà
cuộc chạy đua chinh phục hành tinh này bớt
quyết liệt. Một số khám phá khoa học
gần đây đã mở ra nhiều triển vọng.
Các số liệu được máy quang phổ ngoài
sao Hỏa ghi lại cho thấy có thể có nước
ở dưới bề mặt sao Hỏa, mà nước
lại đồng nghĩa với sự tồn tại
của sự sống hay chí ít cũng là những
dấu vết của sự sống trong quá khứ.
Trong khi đó, các nhà địa chất muốn tìm
hiểu làm thế nào mà sao Hỏa lại trở nên khô
cạn như hiện nay, và liệu hành tinh này có hé
mở những manh mối về tương lai của
trái đất. Một chuyến thám hiểm sẽ là cơ
hội để kiểm chứng khả năng tồn
tại của con người trong những điều
kiện ngoài địa cầu xanh của chúng ta.
Sau thảm họa của tàu Columbia hồi
tháng 2, kế hoạch đến năm 2020 của NASA
chỉ dừng lại ở việc đưa lên sao
Hỏa những con tàu bay theo quỹ đạo cùng
với những robot thăm dò và một số thiết
bị mẫu. Nhưng ngân sách mà NASA đề nghị
cho việc nghiên cứu không gian của năm 2004 là 4
tỷ USD, tăng 532 triệu so với năm 2003 và
một phần số dư đó sẽ được
dành cho các chương trình thí nghiệm nhằm tìm ra
giải pháp cho những vấn đề liên quan đến
cuộc thám hiểm sao Hỏa.
Phương tiện phóng
tàu
Năm 1969, tàu Apollo 11 được phóng
lên mặt trăng bằng tên lửa Saturn V khổng
lồ. Nhưng với nhu cầu chinh phục sao Hỏa
hiện nay, loại tên lửa này không thể đáp
ứng được. Để vượt qua quãng
đường dài gấp 200 lần từ trái đất
đến mặt trăng, khoang chứa nhiên liệu
của tàu vũ trụ sẽ lớn đến mức
không thể chế tạo được một phương
tiện đủ mạnh để phóng tàu vũ
trụ ra khỏi quỹ đạo trái đất.
 |
|
NASA đã kiến nghị một khoản
đầu tư 3 tỷ USD trong vòng 5 năm tới
để thực hiện dự án
Prometheus với mục đích tìm kiếm
nguồn năng lượng mới và chế tạo
những hệ thống đẩy đáp ứng
được yêu cầu thám hiểm sao Hỏa. Trước
hết dự án này sẽ cho ra mắt hai tàu vũ
trụ không người lái: một tàu vũ trụ
chạy bằng nhiên liệu đồng vị phóng
xạ sẽ thực hiện chuyến thám hiểm sao
Hỏa vào năm 2009, và một tàu chạy bằng
điện nguyên tử sẽ được phóng trên
sao Mộc vào năm 2011. |
|
|
|
NASA cũng phát triển hệ
thống có tên Variable Specific Impulse Magnetoplasma Rocket
(VASIMIR) để lắp thử nghiệm vào mọt con
tàu vũ trụ có tên là Bekuö. Theo thiết kế, Bekuö
sẽ sử dụng năng lượng hydrô để
đưa phi hành đoàn lên sao Hỏa trong vòng 90 ngày,
giảm được từ 1/3 đến một
nửa thời gian một chuyến đi mà công
nghệ hiện tại có thể đáp ứng.
Bất kể loại động cơ nào
được lựa chọn thì điều chắc
chắn là con tàu vũ trụ lên sao Hỏa trong tương
lai sẽ được lắp đặt ở ngoài không
gian, vì phóng tàu vũ trụ ở ngoài khoảng không
đỡ tốn nhiên liệu hơn rất nhiều so
với việc phóng từ mặt đất. Trạm
quốc tế ISS đang được xây dựng cho
thấy việc lắp đặt tàu vũ trụ
ở ngoài không gian là khả thi nhưng để
phục vụ việc lắp đặt, NASA sẽ
cần một tàu con thoi để vận chuyển các
cấu kiện lên ISS một cách hiệu quả, an toàn
và ít tốn kém.
Một khi đã lên được sao
Hỏa, các phi hành gia cần có một nguồn cung
cấp năng lượng để duy trì các hoạt
động sống và nghiên cứu. Và như vậy
nếu pin mặt trời không phải là giải pháp
hiệu quả nhất thì NASA có thể sẽ phải
chuyển hướng sang năng lượng hạt nhân.
Theo những số liệu mà tàu Mars Odyssey
ghi nhận khi bay trong quỹ đạo của sao
Hỏa từ 1999 đến 2001, mức độ phóng
xạ trên hành tinh đỏ khoảng 20-25 millirad/ngày,
cao gấp 2 lần liều lượng cho phép đối
với công nhân làm việc trong các nhà máy hạt nhân
ở Mỹ...
Hơn nữa, mức độ phóng
xạ sẽ còn lớn hơn nhiều trong thời gian
bay từ trái đất đến sao Hỏa và ngược
lại. Phóng xạ vũ trụ - năng lượng và
những phần tử chủ yếu phát ra từ
mặt trời - có thể tác động xấu
thậm chí phá vỡ chuỗi ADN trong tế bào, kích
hoạt những biến đổi tế bào mà về
lâu dài sẽ gây nên bệnh bạch cầu và nhiều
bệnh ung thư khác. Tuy cơ thể con người có
cơ chế điều chỉnh những bất thường
của ADN nhưng với lượng phóng xạ
lớn như môi trường trên sao Hỏa thì tốc
độ hư hỏng di truyền sẽ vượt quá
tốc độ sửa chữa tự nhiên của cơ
thể.
Các nhà khoa học cũng rất quan tâm
đến sự có mặt phổ biến của
những tia vũ trụ năng lượng cao ngoài không
gian. Những tia này có thể phát tán phóng xạ ở
hàm lượng đủ lớn để gây ra
những thương tổn đối với hệ
thần kinh trung ương, như làm suy yếu khả
năng vận động và nhận thức của phi
hành gia. Một nghiên cứu được NASA thực
hiện cách đây 2 năm cũng cho thấy các phi hành
gia ở ngoài không gian trong thời gian dài sẽ có
nhiều nguy cơ bị bệnh đục nhân mắt,
một hậu quả của việc tiếp xúc với
tia phóng xạ. Chính vì những nguy cơ đe dọa
đến sức khỏe của các nhà du hành vũ
trụ mà NASA chỉ cho phép thời gian tối đa
ở ngoài không gian liên tục là 250 ngày, vừa
bằng khoảng thời gian tối thiểu để
bay từ trái đất đến sao Hỏa và ngược
lại.
Sức khỏe
Trong những chuyến đi dài ngày trong không
gian, xương của các phi hành gia bị loãng với
tốc độ 1-2% mỗi tháng. Hiện người
ta chưa biết đích xác liệu môi trường không
trọng lượng có làm chậm lại quá trình này
hay không, nhưng trong trường hợp xấu
nhất, các nhà du hành vũ trụ khi thực hiện
một nhiệm vụ trên sao Hỏa trong vòng 3 năm
sẽ mất nửa khối lượng xương,
điều đó có nghĩa là xương trở nên
giòn, dễ gãy và chậm hồi phục khi bị
chấn thương.
Cũng có nhiều dấu hiệu chứng
tỏ khả năng miễn dịch của cơ
thể giảm sút rõ rệt trong những chuyến bay vào
không gian. Những nghiên cứu trên trái đất cho
thấy hoạt động miễn dịch của
tế bào giảm gần 50% sau mỗi chuyến bay. Nhưng
đây mới chỉ là những kết quả nghiên
cứu trên trái đất nên các nhà khoa học chưa
thể biết chính xác hệ miễn dịch sẽ
phản ứng như thế nào khi cơ thể ở
ngoài không gian trong một thời gian dài. Khi hệ
miễn dịch bị suy yếu thì chỉ một căn
bệnh bình thường cũng có thể gây hậu
quả nghiêm trọng và những căn bệnh tiềm
tàng trong cơ thể như thủy đậu hay zona
sẽ hoạt động trở lại. Để
sớm phát hiện và ngăn chặn nguồn bệnh,
các nhà khoa học đề xuất những thiết
bị có kích cỡ cực nhỏ làm nhiệm vụ
theo dõi tế bào. Khi phát hiện thấy những
dấu hiệu bất thường, các thiết bị
này sẽ đưa ra cảnh báo để nhà du hành
uống thuốc kịp thời.
Tâm lý của phi hành
đoàn
Bị giam hãm trong một không gian chật
hẹp suốt hàng năm trời ở một nơi xa
trái đất đến mức phải mất 20 phút
mới lập được liên lạc thông tin,
cảm giác cô đơn sẽ khiến các phi hành gia
dễ bị kích động và rơi vào trạng thái
suy sụp tinh thần. Bởi vì không thể tạo ra
trong môi trường thử nghiệm tâm lý khắc
nghiệt như trên sao Hỏa, nên các nhà khoa học không
thể dự đoán chính xác khả năng chịu
đựng của phi hành gia. NASA đang nghiên cứu
xem liệu có thể hạn chế khả năng xung
đột tiềm tàng giữa các thành viên phi hành
đoàn, bằng cách lựa chọn những người
có cá tính phù hợp với nhau. NASA cũng hy vọng
sẽ thiết kế được một máy tính giám
sát có thể phát hiện được mức độ
stress cũng như những dấu hiệu tâm thần
bất thường thông qua sự thay đổi nét
mặt, cường độ giọng nói của
mỗi cá nhân, để từ đó có những
biện pháp xoa dịu thích hợp.
Môi trường trên
sao Hỏa
Khác hẳn với cái tên của mình, hành
tinh đỏ rất lạnh giá. Năm 1997, thiết
bị thăm dò Pathfinder đã đo được
nhiệt độ ở khu vực hạ cánh dao động
từ âm 13 độ C đến âm 93 độ C trong
vòng 24 giờ. Sao Hỏa không chỉ lạnh lẽo mà
còn có rất nhiều cơn bão bụi với khả năng
sinh ra dòng tĩnh điện có điện áp lên
tới 8 kV, đủ mạnh để phá hỏng máy
tính và làm nổ tung các cầu chì.
Bầu khí quyển đậm đặc
carbon dioxit cùng với sự vắng mặt của nước
khiến sao Hỏa trở thành nơi không thể
sống được. Trong khi đó, việc mang nước
và không khí dự trữ lên hành tinh này cũng rất
khó thực hiện, nên nhiều khả năng các nhà
du hành sẽ mang theo những thiết bị chứa
sẵn hydro để biến carbon dioxit trong khí
quyển thành khí methane và nước. Tiếp đó, nước
sẽ được điện phân để tách thành
ôxy và hydro. Ôxy dùng để thở còn hydro lại
tiếp tục được quay vòng cho chu trình.
Mặc dù NASA đang tập trung phát
triển những công nghệ trợ giúp cho hành trình lên
sao Hỏa, nhiều nguy cơ vẫn còn nằm ngoài
khả năng dự đoán của con người. Các
chuyên gia đánh giá khả năng rủi ro của
cuộc thám hiểm sao Hỏa sẽ là 25%, điều
đó có nghĩa là cứ 4 chuyến bay lên hành tinh này
sẽ có một phi hành đoàn không trở về.
Đó cũng là tỷ lệ rủi ro mà NASA đã
dự đoán cho thế hệ tàu Apollo khi thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu mặt trăng.
Tuy nhiên, một cuộc hành trình lên sao Hỏa sẽ dài
và phức tạp hơn nhiều so với việc lên
vệ tinh trái đất. Vì thế, điều
cuối cùng và cũng là điều quan trọng
nhất là liệu NASA có dám chấp nhận mạo
hiểm để thực hiện khát vọng chinh
phục hành tinh đỏ xa xôi hay không.
Được khởi xướng
từ hơn 20 năm trước, chương trình nghiên
cứu sao Hỏa của NASA mới chỉ dừng
lại ở việc đưa những thiết bị
thăm dò không người lái lên hành tinh đỏ.
Vậy loài người còn phải chờ đợi
bao lâu nữa?
Robert Zubrin, Chủ tịch Hiệp
hội sao Hỏa:
"Nếu như trước đây NASA
vẫn tiếp tục duy trì chương trình Apollo thì
bây giờ những đứa trẻ đầu tiên
được sinh ra trên sao Hỏa có thể đã
chuẩn bị tốt nghiệp trung học rồi".
Buzz Aldrin, thành viên của phi hành
đoàn Apollo 11:
"Từ chiếc máy bay đầu tiên
của anh em nhà Wright cho đến khi con người
đặt chân lên mặt trăng, chúng ta mất đúng
66 năm. Do đó, quãng chuyển tiếp từ
nhiệm vụ chinh phục mặt trăng sang chinh
phục sao Hỏa cũng sẽ mất từng đó
thời gian".
John Charles, nhà khoa học cấp
cao của NASA:
"Trước thảm họa Columbia, tôi
đã cho rằng chúng ta sẽ lên sao Hỏa trong vòng 20
năm tới. Nhưng giờ đây tôi không thể
lạc quan như trước được nữa
Roger Launius, giáo sư lịch
sử vũ trụ của Bảo tàng Hàng không vũ
trụ quốc gia, thủ đô Washington, Mỹ:
"Chúng ta (người Mỹ) chinh
phục mặt trăng vì nhiều lý do chính trị,
quan trọng nhất là cuộc chạy đua với người
Nga trong Chiến tranh lạnh. Ngày nay thật khó có
thể tìm ra một động cơ chính trị nào
đủ mạnh để khiến chúng ta phải tăng
tốc công cuộc chinh phục sao Hỏa".
Tia Sáng (theo Popular Science)
|