Vũ trụ trong lòng bàn tay - tóm lược
Nếu tính từ ngày Gallieo huớng kính
thiên văn tự chế của mình vào không
gian để quan sát cơ cấu vận hành của
các hành tinh trong vũ trụ, cho đến
ngày hôm nay thì tư duy và phương
pháp luận của khoa học hiện đại chỉ
ra đời non 400 năm. Khi cuộc cách
mạng khoa học nổ ra ở đầu thế kỷ 20
mang đến cho nhân loại bộ môn cơ học
lượng tử giải thích bản chất của
những vật nhỏ nhất như hạt sơ cấp và
Thuyết Tương Đối của Einstein giải
thích những vật to nhất như vũ
trụ, sự giao lưu giữa khoa học và
tôn giáo nhất là Ki-Tô giáo liên
quan đến việc hiện hữu của con người
và vũ trụ đi đến một tình trạng
gần như bế tắc. Cuộc tranh luận của
phe Sáng Thế và phe Tiến Hóa không
đưa đến một kết luận nào có thể thỏa
hiệp mà càng lúc lại càng gay gắt.
Sự xuất hiện gần đây của lập luận
"thiết kế thông minh" (intelligent
design) chẳng qua là một chiêu thức
sáo mòn "bình mới rượu cũ" để duy
trì cái quan điểm rằng vì con người
và thiên nhiên là những cấu tạo quá
ư phức tạp cho nên phải có người
thiết kế toàn năng để hình thành.
Cụm từ "Chúa của những lỗ hổng" (God
of the gaps) ám chỉ những điều chưa
được khoa học giải thích thì ở đấy
Chúa xuất hiện. Nhưng trên thực tế
thì những lỗ hổng của tri thức con
người về thiên nhiên không chứng tỏ
có điều gì liên hệ đến Chúa. Luận
điểm "thiết kế thông minh" đã được
một nhà khoa học phê bình một
cách hài hước là "người thiết kế
tòan năng" kia chẳng qua là "con nai
biết bay" [1]!
Trước những thành quả vượt bực trong
khoa học nhất là trong vật lý và
sinh học, một câu hỏi lớn được đặt
ra là có một tôn giáo nào có thể
dung hòa với khoa học trên khía cạnh
phương pháp luận và nhận thức luận.
Hay nói một cách đơn giản hơn là có
một hệ thống triết học tâm linh nào
cùng đứng trên một tiền đề với khoa
học chấp nhận sự phi hiện hữu của
một Đấng Tối Cao toàn năng. Phật
Giáo như là một lựa chọn tất nhiên
cho việc đối thoại giữa khoa học và
tôn giáo vì cả hai cùng chia sẻ một
số điểm căn bản. Từ những nền tảng
chung nầy, sự giao lưu sẽ phá
bỏ hàng rào phân biệt biểu kiến giữa
hai lĩnh vực và xa hơn nữa cho khoa
học cái tính nhân bản và cho Phật
Giáo một khuôn mặt khoa học ở thế kỷ
21. Thiên tài Einstein đã từng tiên
đoán "Nếu có một tôn giáo có thể
đáp ứng được những nhu cầu của khoa
học hiện đại, tôn giáo đó có lẽ là
Phật Giáo". Sự dung hòa giữa
Phật Giáo và khoa học xảy ra một
cách tất nhiên bởi vì trong sự suy
luận cả hai được đặt trên cơ sở tôn
trọng thực tế khách quan và sự tự do
diễn đạt tư tưởng không bị một áp
đặt nào từ một thế lực bên ngoài hay
bên trên chi phối. Nó cũng xảy một
cách tự nhiên bởi sự lan tỏa rộng
khắp của khoa học kỹ thuật đến các
nước phương Đông nhất là tại Ấn Độ
và Trung Quốc nơi đã từng là cái nôi
của nền văn minh nhân loại, và cũng
bởi nhu cầu mạnh mẽ tìm hiểu Phật
Giáo tại các nước phương Tây.
Quyển "The Quantum and the Lotus"
(Lượng tử và Hoa sen) so sánh phương
pháp suy luận và những tư tưởng cơ
bản giữa Phật Giáo và khoa học.
Quyển sách ghi lại cuộc đối thoại
thú vị giữa tiến sĩ Matthieu Ricard
và giáo sư Trịnh Xuân Thuận. Tác giả
Ricard là một thiền sư Phật Giáo Tây
Tạng với học vị tiến sĩ về sinh học
phân tử. Tác giả Trịnh Xuân Thuận là
giáo sư vật lý thiên văn xuất thân
từ một gia đình Phật Giáo. Trước
quyển "The Quantum and the Lotus"
cũng đã có những công trình tương tự
so sánh khoa học và tư tưởng phương
Đông. Ở giữa thập niên 70, quyển
sách nổi tiếng "The Tao of
Physics" (Cái Đạo của Vật Lý)
của Fritjof Capra được dịch ra 23
ngôn ngữ đã tạo ra một phong trào
tìm hiểu tư tưởng phương Đông qua
lăng kính khoa học. Cách đây mười
năm, tác giả Trịnh Nguyên Phước đã
viết một bài tiểu luận so sánh Phật
Giáo và khoa học [2]. Quyển "The
Quantum and the Lotus" có lẽ là
tác phẩm đầu tiên so sánh hai lĩnh
vực một cách có hệ thống và mạch
lạc. Trong tất cả 15 chương sách,
tác giả Ricard - người đại
diện Phật Giáo trong quyển sách, và
tác giả Trịnh Xuân Thuận - người đại
diện khoa học, khảo luận những
điểm tương đồng của hai lĩnh vực
để trả lời những vấn đề hóc búa từ
vũ trụ đến con người, từ khoa học
đến mỹ học.
Tôi đọc với một thái độ của người
làm công tác khoa học nhưng vừa mới
chập chững tìm hiểu Phật Giáo. Quyển
sách nầy không dễ đọc bởi nó đòi hỏi
độc giả phải có khái niệm cơ bản về
hai môn học: cơ học lượng tử và Phật
Học. Tuy nhiên, trên bình diện nhận
thức luận quyển sách cho tôi nhiều
ngạc nhiên thú vị về lý luận Phật
Giáo và những lời dạy của Đức Phật
cách đây 2500 năm trước. Trong toàn
bộ cuộc đối thoại, tác giả Ricard
dựa trên một số khái niệm cơ bản
Phật Học để đối chiếu với cơ học
lượng tử mà theo chỗ tôi hiểu là:
luật Nhân Quả, tính Không, giác ngộ,
duyên sinh, duyên khởi, vô ngã, vô
thường. Những khái niệm nầy cho thấy
Đức Phật tôn trọng tính khách quan
và cảnh giác sự cuồng tín. Thật vậy,
đối với các môn đệ ngài đã nhiều lần
dạy rằng "Hãy thực chứng những
lời dạy của ta như các ngươi khảo
nghiệm sự chân giả của vàng. Hãy chà
xát vào đá, đập nó, nấu chảy nó.
Đừng chấp nhận lời dạy của ta chỉ vì
sự tôn kính đối với ta. Chỉ chấp
nhận nó khi các ngươi thấy nó là
sự thật" (trang 10). Lời dạy nầy
chứng tỏ Đức Phật đã đi trước khoa
học hàng ngàn năm trong phương pháp
luận và tư duy.
Từ bản chất và mục đích, Phật Giáo
và khoa học mang những đặc tính khác
nhau nhưng không phải vì thế mà
không thể bổ sung cho nhau. "Ở ngã
tư đường" (Chương 1) nơi gặp gỡ giữa
Phật Giáo và khoa học, hai tác giả
đặt vấn đề đạo đức trong khoa học,
thái độ đạo đức của người làm khoa
học, thảo luận những phương diện mà
Phật Giáo có thể hỗ trợ cho khoa
học. Mặt khác, Phật Giáo cũng có
những thắc mắc cơ bản khoa học. Liệu
vật lý có thể giúp Phật Giáo lý giải
sâu xa hơn về thực tại thiên
nhiên. Triết học Phật Giáo mang tính
chất định tính (qualitative) tổng
kết những khái niệm cơ bản dựa trên
kinh nghiệm để giáo huấn giác ngộ
chúng sinh hiểu được những nguyên
nhân của sự đau khổ mà thoát ra khỏi
định luật tự nhiên "sinh lão bịnh
tử" và vòng luân hồi của cõi ta bà
dẫn đến cõi tịnh độ Niết Bàn. Ngược
lại, khoa học là một hệ thống định
lượng (quantitative) xác nhận sự vật
hay sự kiện bằng một con số hay
phương trình toán học. Trong quá
trình đưa đến một kết quả định lượng
nhà khoa học phải nhìn sự vật một
cách khách quan lạnh lùng, truy tìm
bản thể của sự vật bằng phương pháp
thực nghiệm, bằng sự suy luận mang
tính phân tích và tổng hợp. Một kết
quả khoa học phải có tính khách
quan vượt thời gian và không gian.
Nếu không còn những giá trị nầy kết
quả khoa học phải được tu chỉnh để
thích hợp.
Mục đích của Phật Giáo là giáo
dục và giác ngộ con người để nâng
cao đạo đức, biết phân biệt thiện
ác. Ngôn ngữ của Phật giáo là một
ngôn ngữ của hòa bình, vị tha và độ
lượng. Mục đích của khoa học là sự
tôn trọng tuyệt đối tính khách quan
nhưng chung qui chỉ dừng ở chỗ tìm
hiểu nguyên nhân của sự vật, quy
luật tự nhiên mà không phân biệt
thiện ác, không thương không ghét,
không đề cập vấn đề đạo đức. Hệ quả
là khoa học có thể trở thành công cụ
của những tập đoàn chính trị sinh ra
những khoa học gia cực ác như bác sĩ
Ishii trong chiến tranh thế giới thứ
2 [3]; nhưng nhân loại cũng có những
khoa học gia cực thiện như giáo sư
Howard Florey người Úc chế tạo ra
penicillin [4]. Giữa hai đối cực nầy
là một loạt khoa học gia làm việc
với những mục đích khác nhau đã được
định sẵn bởi ông chủ của nguồn lương
bổng! Einstein có lần hóm hỉnh phê
bình "Khoa học sẽ là một thứ
tuyệt vời, nếu người ta không phải
nhờ vào nó để mưu sinh".
Sự khiếm khuyết đạo đức cũng được
thấy qua cái thói ham danh, kiêu
ngạo, ganh tị, ích kỷ, nhiều tham
vọng của một số người làm khoa
học. Lắm lúc cái "tham, sân, si" này
còn tệ hơn người bình thường. Và đây
là những nguyên nhân đưa đến những
tệ nạn thường thấy trong các cơ quan
nghiên cứu khoa học như tranh giành
công lao của đồng nghiệp, dùng những
thủ đoạn "chính trị" để chèn ép đồng
nghiệp có khả năng, giấu nghề, chà
đạp nguyên tắc khách quan của khoa
học, bẻ cong hoặc ngụy tạo kết quả
thí nghiệm. Tất cả chỉ vì sự thăng
tiến và tiếng tăm của mình. Trường
hợp ngụy tạo kết quả gần đây của Woo
Suk Hwang [5] và Jan Schön [6] là
hai thí dụ điển hình.
"Vũ trụ có một khởi thủy ban đầu hay
không? Có cần đến một Đấng Sáng Tạo
hay không?" là những đề tài của
Chương 2 và Chương 3. Vụ nổ lớn
nguyên thủy (Big Bang) gần 15 tỷ năm
trước là nguồn gốc phát sinh ra vũ
trụ bao gồm vật chất, thời gian và
không gian. Cơ học lượng tử đã chứng
minh sự không cần thiết của một Đấng
Sáng Tạo. Với một kết luận tương tự,
luật Nhân Quả và duyên sinh không
chấp nhận một khởi điểm nguyên thủy
với khái niệm nổ "đùng" một cái vạn
vật đều hiện hữu từ cái không có
(trang 27). Vạn vật xảy ra vì một
nguyên nhân và sự tương thuộc. Theo
luật Nhân Quả và duyên sinh, Big
Bang chỉ là một giai đoạn của một
chuỗi sự kiện vô thủy vô chung. Theo
tác giả Trịnh Xuân Thuận, cơ học
lượng tử chỉ cho ta biết vũ trụ ở
thời điểm 10-43 giây sau
Big Bang - rất gần thời điểm zero
nhưng chưa phải là zero, lúc đó vũ
trụ chỉ là một điểm cực nhỏ có kích
thước cỡ 10-33 cm. Hai
con số nầy là thời gian và chiều dài
Planck và cũng là giới hạn đo lường
của vật lý hiện đại. Chưa ai có thể
phỏng đoán được sự kiện gì đã xảy ra
"trước" thời điểm zero của Big Bang.
Khoa học không suy diễn mông lung
những sự kiện chưa có thể kiểm chứng
được. Tuy nhiên, hiện nay có một số
nhà vật lý đang nỗ lực tạo dựng
những lý thuyết "tiền Big Bang"
(pre-Big Bang theories) để tiên đoán
cái gì "hiện hữu" trước đó.
Dù phủ nhận hiện diện của một Đấng
Sáng Tạo, tác giả Trịnh Xuân Thuận
vẫn còn băn khoăn trước sự hình
thành của vũ trụ dựa vào những điều
kiện ban đầu được biểu hiện qua 15
hằng số (trang 39). Một hằng số điển
hình là vận tốc ánh sáng (299792
km/s), sau đó là hằng số vạn vật hấp
dẫn Newton, G (6.67 x 10-11
Nm2/kg2), hằng
số Planck, h (6.625 x 10-34
Js), khối lượng của electron (9.1091
x 10-31 kg), của proton,
điện tích electron..... Những hằng
số nầy bất biến đối với thời gian và
không gian. Nếu có người ngoài hành
tinh sống ở một thiên hà khác cũng
sẽ đo được những hằng số nầy. Những
hằng số nầy đòi hỏi một sự chính xác
kỳ diệu cho sự tồn tại của vũ trụ
chúng ta đang có hiện tại. Chẳng hạn
nếu G nhỏ hơn một chút thì vũ
trụ chỉ là những đám khí hydrogen
không tạo được hành tinh, G
lớn hơn một chút thì vũ trụ sẽ nhanh
chóng co lại ngay từ lúc sơ sinh. Ở
cả hai trường hợp vũ trụ sẽ hoàn
toàn khác và con người sẽ không hiện
hữu. Thậm chí, các con số nầy cũng
chi phối kích thước và khối lượng
của mọi vật trên quả điạ cầu. Chiều
cao con người không thể vượt quá 2
m, núi cao nhất không thể cao hơn 8
km, trái đất quay với vận tốc vừa
phải sao cho đúng với kích thước của
mình đưa đến một ngày địa cầu là 24
tiếng [7]. Với 15 con số kỳ diệu
nầy, vũ trụ được điều chỉnh một cách
chính xác nên con người hiện hữu và
và từ đó ý thức (consciousness) được
thành hình.
Sự điều chỉnh vô cùng chính xác ngay
từ ban đầu của vũ trụ là một việc có
chủ ý hay một việc thuần ngẫu nhiên?
Tác giả Trịnh Xuân Thuận đề cập đến
thuyết đa vũ trụ mà trong đó nhiều
vũ trụ được thành hình với một loạt
hằng số khác nhau nhưng chỉ có vũ
trụ của chúng ta "thắng lớn" như
trúng số độc đắc bằng 15 hằng số rất
hài hòa. Tuy nhiên, cá nhân tác giả
Trịnh Xuân Thuận không tin vào
thuyết đa vũ trụ trong đó vũ trụ
chúng ta ngẫu nhiên thành hình và sự
sống ngẫu nhiên xuất hiện (trang
50). Cái "ngẫu nhiên" nầy đầy kịch
tính nhiều gấp vạn lần hơn cả phim
ảnh Hollywood hay phim chưởng Hong
Kong trong đó người hùng sẽ xuất
hiện đúng lúc để cứu người đẹp ra
khỏi những bàn tay thô bạo, hoặc
như trong phim "Dr Zhivago"
khi Zhivago nhìn qua cửa sổ xe
bus "ngẫu nhiên" nhìn thấy Lara đang
đi trên phố, chàng vội nhảy ra khỏi
xe lao về hướng của nàng nhưng
lại quá xúc động "ngẫu nhiên" đột
quỵ trên đường để rồi mãi mãi không
gặp được nàng.... Theo ông sự ngẫu
nhiên không thể nào cho chúng ta 15
hằng số trên (trang 50). Như vậy,
nếu không phải ngẫu nhiên thì vũ trụ
và sự sống xuất hiện với một chủ ý.
Nhưng tác giả Trịnh Xuân Thuận nhanh
chóng biện luận rằng vì đã có nhiều
bằng cớ phủ nhận sự hiện diện của
một Đấng Sáng Tạo, "chủ ý" ở đây có
nghĩa là một "nguyên lý tổ chức"
(principle of organization) - không
phải là Chúa được nhân cách hóa
trong ý nghĩa cổ điển mà là những
định luật vật lý điều chỉnh vũ trụ
một cách vi diệu ngay từ lúc ban
đầu. Tác giả Trịnh Xuân Thuận đã vô
tình khoác lên Đấng Sáng Tạo một màu
áo khác!
Dựa trên luật Nhân Quả, tác giả
Ricard quả quyết rằng nếu không chấp
nhận một điểm khởi đầu thì cũng
không có "nguyên lý tổ chức" bởi nếu
"nguyên lý tổ chức" là nguyên nhân
và điều kiện ban đầu cho sự hình
thành của vũ trụ thì Big Bang sẽ xảy
ra liên tục không nghỉ. Điều nầy vô
lý. Cái nhìn của Phật Giáo là không
có điểm khởi đầu, vô thủy vô chung
và bản chất vô thường chi phối mọi
hiện tượng vì vậy đi tìm một "nguyên
lý tổ chức" là việc không cần thiết
(trang 57-58). Đây là một lập luận
để tránh né vấn đề hay là một cách
nhìn khác do bản chất định tính
của Phật Giáo trong đó mọi hiện
tượng được nhìn bằng sự tương thuộc
duyên sinh?
Tất cả do duyên sinh nên vô ngã. Vì
luật Nhân Quả nên "cái nầy thuộc vào
cái kia, cái nầy sinh cái kia sinh,
cái nầy diệt cái kia diệt". Tác giả
Ricard nói đến tính Không trong Phật
Giáo qua sự liên hệ lôgic giữa vô
ngã, vô thường và duyên sinh. Đó là
cái nhìn Trung Đạo (Middle Way)
trong Phật Giáo. Vô ngã và vô thường
đưa đến một hệ luận là mọi sự vật và
hiện tượng không mang bản chất độc
lập, cố định, bất biến. Vì không có
một bản chất cố định tất cả đều là
ảo giác hay chỉ là một biểu hiện
nhất thời. Cái nhìn Phật Giáo rất
phù hợp với cơ học lương tử của thế
giới vi mô (microcosm). Nguyên lý
bất định Heisenberg nói đến tính bất
định trong thế giới vi mô. Trong thế
giới vi mô của những hạt cực nhỏ
như phân tử, nguyên tử, neutron,
proton, electron người ta không thể
xác nhận vị trí và vận tốc của hạt
cùng một lúc. Vị trí của hạt sơ cấp
chỉ có thể tính bằng xác suất thống
kê, chẳng hạn hạt xyz cùng một lúc
xuất hiện ở những vị trí khác
nhau với xác suất ở điểm A là 50 %,
điểm B 20 % v.v... Phật Giáo cho đây
là ảo giác. Nhà vật lý Schrödinger
khi đề cập đến bản chất của những
hạt sơ cấp từng nói "Không nên
nhìn một hạt như là một thực thể cố
định mà hãy xem nó như là sự kiện
nhất thời. Đôi khi những sự kiện nầy
liên kết với nhau cho ra một ảo giác
của
những thực thể cố định"
(It is better not to view a particle
as a permanent entity, but rather as
an instantaneous event. Sometimes
these events link together to create
the illusion of permanent entities)
(trang 85). Nói theo kiểu văn chương
"miệt vườn" cho dễ hiểu là "thấy vậy
mà không phải vậy". Sự chuyển hoán
từ một dạng thức nầy sang một dạng
thức khác đã được kiểm chứng
trong những cái cực nhỏ như electron
hay những vật lớn nhất như vũ
trụ. Tính nhị nguyên giữa sóng và
hạt đã được phát hiện vào đầu thế kỷ
20. Sóng có thể là hạt (photon), và
hạt (thí dụ: electron) cũng có thể
là sóng. Bản chất sóng/hạt tùy thuộc
vào cách thức đo đạt của người làm
thí nghiệm. Điều nầy thực chứng bản
chất không cố định vô ngã của sự
vật. Sự chuyển hoán giữa các dạng
năng lượng (như sự ma xát cơ năng
biến thành nhiệt năng, khối lượng
biến thành năng lượng) cũng là một
biểu hiện của vô ngã vô thường.
Trong thế giới vĩ mô (macrocosm),
nguyên lý bất định Heisenberg mất ý
nghĩa. Khác với những vật cực nhỏ mà
vị trí của nó dựa vào tính xác suất
ở nhiều nơi A, B, C.... khác
nhau, một vật to như cái bàn không
thể lúc thì ở trong phòng học lúc
thì tự động nhảy vào nhà bếp hoặc
"rong chơi" ngoài sân. Cái bàn trong
phòng học sẽ mãi mãi ở đúng vị trí
của nó trừ khi ta phải xê dịch. Như
vậy, trong thế giới vật lý vĩ mô
khác vi mô. Nhưng đâu là lằn ranh
phân biệt vi mô và vĩ mô, vật lý
dường như không có câu trả lời định
lượng dứt khoát [8]. Theo tác giả
Ricard, Phật Giáo quan niệm thuộc
tính vi mô lần lần phát triển thành
thuộc tính vĩ mô mà không cần lằn
ranh phân biệt. Tính Không hay vô
ngã vô thường thành một định luật
bao quát toàn diện không phân biệt
vật lớn vật nhỏ, vi mô hay vĩ mô.
Khái niệm vô thường và khoa học được
phân tích chi tiết hơn ở Chương 6.
Vô thường hay là sự thay đổi liên
tục được tác giả Ricard phân biệt là
"vô thường thô" (gross
impermanence), như sự thay đổi thời
tiết, xâm thực của một ngọn núi, sự
giãn nở của vũ trụ hay sự biến đổi
tình cảm, và "vô thường tinh"
(subtle impermanence) xảy ra trong
một khoảnh khắc ngắn nhất (trang
101). Khi ta cảm nhận được sự biến
đổi là việc không thể tránh được và
mang tính rộng khắp thì ta có thể
hiểu là vũ trụ không phải được tạo
thành bằng những thực thể cố định,
riêng biệt mà là một hệ thống của
những luồng tương tác liên tục không
dứt của trùng trùng duyên khởi. Từ
thế giới vĩ mô như vũ trụ ta thử đi
vào thế giới vi mô của các hạt sơ
cấp để tìm xem tính vô thường vẫn
còn hiện hữu hay không. Nguyên tử là
đơn vị chung nhỏ nhất của vật chất
làm thành con người, hoa lá đến hạt
bụi. Nguyên tử có hạt nhân. Nếu kích
thước một nguyên tử là bằng một sân
vận động thì hạt nhân có kích thước
bằng hạt gạo nằm giữa sân. Hạt nhân
được cấu tạo bởi proton và neutron.
Hai loại hạt sơ cấp nầy lại được tạo
thành bởi các hạt quark. Cứ 3 quarks
tạo thành một proton hay neutron.
Vật lý hiện đại cho ta biết quark là
hạt sơ cấp nhỏ nhất của nguyên tử,
có nghĩa là cái nhỏ nhất trong cấu
trúc vạn vật. Ở điều kiện thích nghi
quark có thể biến thành dạng khác.
Sự chuyển hoán nầy đưa đến sự biến
đổi từ proton thành neutron và ngược
lại. Đây là một thí dụ của "vô
thường tinh" đã được tác giả Ricard
đề cập. Rõ ràng là bản chất vô
thường quán xuyến từ quark cái nhỏ
nhất trong vật chất đến cái to nhất
là vũ trụ.
Vì là một người "vô thần ngoại đạo"
vẫn thường quan niệm "chết là hết
chuyện" tôi rất kinh ngạc khi đọc
đến Chương 10 và 11 đề cập đến việc
tái sinh nói về sự sống sau khi
chết. Tôi truy cập những trang
web Phật Giáo tìm hiểu xem đây có
phải là những tư tưởng chính thống
hay chỉ là những điều mê tín dị
đoan. Trong việc truy tìm nầy tôi
phát hiện ra "Thuyết Tái Sinh" được
xem như là một hệ luận của Luân Hồi
và rất được trân trọng trong lý
thuyết Phật Học. Suy nghĩ theo tư
duy khoa học bỗng nhiên vô hiệu. Tôi
bỗng nhiên lúng túng. Tác giả Ricard
đưa ra một trường hợp tái sinh của
một phụ nữ Ấn Độ tên là Shanti Devi
và cũng chứng kiến việc tái sinh của
người thầy của mình là Khyentse
Rinpoche. Tiền kiếp của Shanti Devi
qua đời vì bịnh hậu sản và sau đó
tái sinh vào một gia đình khác. Khi
đứa bé gái được tái sinh nầy lớn
lên, cô bé lúc nào cũng nằng
nặc muốn gặp lại người chồng cũ.
Người chồng quá sợ hãi không dám gặp
trực tiếp nhưng muốn biết sự tình
như thế nào bèn nhờ người anh họ đến
dò la hư thực. Khi người anh họ vừa
mới bước vào nhà thì cô bé la lên
kêu đúng tên họ lại còn bảo "Hồi xưa
anh thường lợi dụng lúc chồng tôi đi
vắng lân la đến nhà ve vãn tôi!!".
Ông anh họ nhà chồng nghe xong gần
té xỉu vì sự thật không thể nào chối
cãi....
Một trường hợp đúng thì cũng đủ
chứng minh "Thuyết Tái Sinh" hiện
hữu. Tôi lúng túng vì không biết
phải lý giải thế nào cho thích hợp.
Phật Giáo đưa ra khái niệm "thân
trung ấm" [9] để diễn tả sự sống sau
khi chết trước khi linh hồn [10] đi
tái sinh. Có lẽ thân trung ấm không
phải là đối tượng nghiên cứu của
khoa học nên khoa học chưa có câu
trả lời. Như vậy, sự tái sinh là sự
truyền đạt (transmission) linh hồn
hoặc ý thức trong quá trình "tái
tạo" và sự truyền đạt nầy có giống
như việc truyền tín hiệu từ chiếc
điện thoại di động nầy đến chiếc
khác?! Có thể xem linh hồn như một
loại sóng "điện từ" sinh học? Súc
vật và con người có linh hồn, còn
thực vật thì sao? Tôi dùng con số
cho đơn giản, nếu vài thế kỷ trước
đây tổng số loài người và những sinh
linh khác chỉ có vài tỉ bây giờ sinh
sôi nẩy nở ra vài chục tỉ thì số
cung của linh hồn sẽ ít hơn số cầu.
Có thực sự là linh hồn có thể phân
chia như sự sinh sôi của tế bào để
tiếp ứng đủ cho số cầu? Đó là chưa
kể một số linh hồn được giác ngộ
thoát khỏi cõi ta bà vãng sinh tịnh
độ. Tác giả Trịnh Xuân Thuận cũng có
một thắc mắc tương tự. Ông nghĩ phải
có một nguồn ý thức vô hạn trong vũ
trụ để cung ứng và "nhập" vào hình
hài của hàng chục tỉ sinh linh. Tác
giả Ricard trấn an với lời giải
thích hơi nhập nhằng rằng là nguồn ý
thức hay linh hồn biết "tùy cơ ứng
biến" để gia giảm số lượng tương ứng
với con số của hình hài (trang
199)! Dựa vào câu chuyện "khó tin
nhưng có thật" của Shanti Devi, linh
hồn tái sinh sẽ trở lại bản thể của
của tiền kiếp. Hóa ra, linh hồn vừa
là một "vật" bất biến vừa là một cái
"ngã" độc lập trong quá trình tái
sinh liên tục. Sự suy diễn nầy đưa
đến một kết luận cực kỳ mâu thuẫn
đối với bản chất vô thường vô ngã
của Phật Giáo.
Trong toàn bộ cuộc đối thoại, tác
giả Ricard và tác giả Trịnh Xuân
Thuận nói đến những điểm tương đồng
thú vị nhưng tôi không thấy hai tác
giả đề cập đến những điểm tương
phản. Dù có mang một tâm tình lạc
quan nhất, tôi không nghĩ hai lĩnh
vực lại có thể có những điểm tương
đồng một cách hài hòa như hai bánh
xe răng lúc nào cũng ăn khớp với
nhau. Tác giả Ricard xoay quanh tính
Không, duyên sinh, vô thường, vô
ngã trong toàn quyển sách; nó cho
một cách nhận thức mới ở những
chương đầu nhưng sự trùng lập làm
cách biện luận trở thành đơn điệu dễ
làm cho người đọc cảm thấy nhàm chán
ở những chương sau. Thỉnh thoảng tác
giả Ricard chấp nhận hoặc phản bác
có phần độc đoán giáo điều một hiện
tượng hay một luận điểm, không giải
thích rành mạch hoặc chỉ trích dẫn
một vài câu nói của các triết gia
chưa bao giờ được thực chứng. Tác
giả Trịnh Xuân Thuận đưa ra những
vấn đề khoa học và đặt ra những câu
hỏi khúc mắc nhưng hầu như chấp nhận
những ý kiến của tác giả Ricard mà
ít khi phản luận theo tư duy khoa
học.
Một câu hỏi thường được đặt ra "Phật
Giáo là một tôn giáo, khoa học hay
triết học?". Sau khi đọc quyển sách
nầy, tôi nhận thấy Phật Giáo mang
đặc tính của cả ba. Tác giả Ricard
xem Phật Giáo là một "khoa học thiền
tu" (comtemplative science) thì cũng
không phải là ngoa ngữ nếu nhìn từ
mục đích của khoa học và Phật Giáo
là cả hai cùng truy tìm bản chất mọi
hiện tượng sự vật trong một tinh
thần tôn trọng sự thật khách quan.
Phật Giáo vượt hơn hẳn khoa học trên
mặt đạo đức vì không những mang
đến con người một tài sản tư duy quí
báu với một vũ trụ quan và nhân sinh
quan rõ rệt, lại còn dẫn dắt con
người trong việc giác ngộ trên con
đường hướng thiện vô ngã vị tha.
Einstein từng nói "Khoa học không
có tôn giáo thì què quặt, tôn giáo
không có khoa học thì mù lòa".
Sự bổ sung giữa Phật Giáo và khoa
học trở nên cần thiết cho việc nâng
cao cùng lúc tư duy và đạo đức con
người. Mặc dù đi trước khoa học hơn
2000 năm Phật Giáo vẫn cần được phân
tích bằng phương pháp khoa học hiện
đại để hội nhập vào thời đại mới vốn
dĩ đa dạng. Ngược lại, ngoài việc áp
dụng của tư tưởng nhập thế của Phật
Giáo khoa học cần nghiên cứu những
vấn đề đã được Phật Giáo tiên đoán
cũng như những khái niệm cốt lõi
trong Phật Học. Vấn đề thành hình
tâm linh và thuyết tái sinh có thể
là đề tài nghiên cứu khoa học thú vị
nếu không nó dễ trở nên những chuyện
mê tín hoang đường được thêu dệt cho
nhiều mục đích vụ lợi khác nhau.
Những lời phát biểu của tác giả
Ricard về Phật Giáo trong quyển sách
chỉ ở trình độ dẫn nhập. Tôi cảm
thấy có nhu cầu tìm hiểu sâu xa hơn
về sự tương đồng và tương dị giữa
Phật Giáo và khoa học. Đi tìm thư
tịch về Phật Giáo ở một ngôi chùa
địa phương làm tôi thất vọng. Những
bài trên những trang web Phật Giáo
mang nhiều tính tản mạn và ít tính
thuyết phục. Sự thiếu sót thư tịch
và tài liệu tham khảo dẫn đến
việc khập khiễng trong kiến thức.
Mặt khác, tại hải ngọai ở những nơi
có nhiều người Việt sinh sống, chùa
chiền lớn nhỏ được xây cất tùy
tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu tín
ngưỡng của cư dân. Sự phát triển
không cân bằng giữa kiến thức tu tập
và vật chất dễ đưa đến sự nhầm lẫn
giữa "đạo pháp" và "mê tín" với một
hệ quả là sự mê tín sẽ có nguy cơ
tồn tại mãi mãi như một căn bệnh
trầm kha di truyền.
Bản chất của vô thường là mọi vật
đều biến đổi, với một tác nhân duyên
khởi mọi vật có thể tiến hóa hay
thoái hóa. Phật Giáo cũng không nằm
ngoài những qui luật mà tự thân nó
lập nên. Dù tác giả Ricard có lạc
quan cho rằng cái nhìn Trung Đạo sẽ
giúp các nhà khoa học lý giải được
những nghịch lý, nhưng cuộc đối
thoại giữa Phật Giáo và khoa học chỉ
có thể tiếp tục khi nào có sự phát
triển song song của hai lĩnh
vực. Khoa học là đứa con sanh sau đẻ
muộn nhưng khoa học có tác động sâu
rộng đến đời sống tinh thần và vật
chất của loài người vì nó đã biết
tìm và vận dụng một cách hiệu quả
những qui luật tự nhiên vào cuộc
sống đời thường. Phật Giáo đi trước
hơn 2000 năm nhưng sẽ trở nên vô
nghĩa nếu không có những phát triển
mới trên nền tảng cũ. Nền tảng cũ dù
trân quí bao nhiêu thì cùng sẽ mai
một như một ao tù tư tưởng nếu vắng
bóng những bước đột phá cho tương
lai. Phật Giáo là một hệ thống tư
tưởng duy lý. Đức Phật không phải là
Thượng Đế toàn năng. Phật Giáo vì
vậy cần phải được tiếp cận với một
thái độ phê phán có khoa học như Đức
Phật đã từng dạy "Đừng
chấp nhận lời dạy của ta chỉ vì sự
tôn kính đối với ta. Chỉ chấp nhận
nó khi các ngươi thấy nó là sự thật".
Ngoài những việc tu tập trong quan
hệ thầy trò, Phật Giáo cần phải
có nhiều cuộc hội thảo quốc tế bao
gồm mọi tông phái giống như các hội
thảo khoa học trong đó mọi người đều
bình đẳng trình bày, thảo luận và
tranh cãi để nâng cao trình độ hiểu
biết Phật Học.
Phật Giáo là "khoa học của tâm hồn"
và cũng là một kho tàng tri thức của
nhân loại tích tụ hơn 2500 năm nhưng
cho đến bây giờ ở thế kỷ 21 vẫn chưa
được phát huy và triển khai đúng
mức.
March 2006
(Đã đăng trên các mạng erct.com,
khoahoc.net, giaodiem.com, viết lại
cho Vietsciences với một số bổ
sung.)
* "The Quantum and the Lotus"
(by Matthieu Ricard & Trinh Xuan
Thuan), Three Rivers Press, New York
2001.
Ghi Chú
1.
R. P. Crease, Physics World,
18, pp 19, October 2005. Tác
giả kể lại một câu chuyện về một anh
chàng say rượu đi săn nai. Con nai
lẩn tránh rất hay nên anh này không
tài nào săn được. Tức tối, anh ta
leo đến tận đỉnh núi để chận đường
chú nai nhưng vẫn không thấy tăm
hơi. Anh ta tiu nghĩu trở về quán
rượu tuyên bố với các bạn nhậu của
anh ta rằng con nai không săn được
vì con nai biết bay! Mọi người chế
diễu cười ồ. Còn gì khác nữa, anh ta
một mực cãi lại, nếu nó không biết
bay thì làm sao nó lại biến mất. Câu
chuyện nầy làm tác giả liên tưởng
đến lối lý luận của những người đề
xướng "thiết kế thông minh". Giống
như anh say rượu săn nai, những
người nầy gán một nguyên nhân siêu
hình cho một hiện tượng không giải
thích được rồi qui trách nhiệm vào
những kẻ phản đối theo kiểu "tin hay
không tin là vấn đề của các
anh". Nguyên nhân theo anh say rượu
săn nai là "con nai biết bay"; theo
những người đề xướng "thiết kế thông
minh" là sự hiện hữu của "người
thiết kế toàn năng". Vì vậy, tác giả
viết một câu kết luận như sau:"Argumentatively
speaking, therefore, an intelligent
designer is a flying moose" (Cho
nên nói theo kiểu lý sự thì người
thiết kế thông minh là con nai biết
bay).
2.
http://chimviet.free.fr/20/khc0050.htm
3.
Trong thời gian Nhật Bản xâm
chiếm Trung Quốc ở chiến tranh thế
giới thứ 2, Ishii Shiro thừa lệnh
Nhật Hoàng Hirohito thành lập Đơn Vị
731 tại Mãn Châu để làm thí nghiệm
nhân thể trên các tù nhân Trung Quốc
và Đồng Minh.
4.
Howard Florey sinh trưởng tại
Adelaide (bang South Australia,
Australia). Ông tốt nghiệp y khoa
tại Đại Học Adelaide và đoạt giải
Nobel Y Khoa (1945) cho công trình
nghiên cứu penicillin.
5.
Woo Suk Hwang là giáo sư tại
Seoul National University (Hàn
Quốc), nổi tiếng thế giới và đã được
dân Hàn Quốc tôn vinh là anh hùng
khoa học. Ông ngụy tạo kết quả thí
nghiệm trong quá trình nghiên
cứu sinh sản vô tính (cloning) tạo
ra phôi con người và phổ biến kết
quả trên tạp chí Science
(2005). Sự ngụy tạo nầy gây ra một
cú "sốc" lớn trong cộng đồng nghiên
cứu khoa học quốc tế. Ông từ chức
vào tháng 12, 2005.
6.
Jan Schön, một nhà nghiên cứu
trẻ có nhiều triển vọng nhưng trong
khi làm việc tại Bell Labs (Mỹ) ông
ta ngụy tạo kết quả 16 lần trong
khoảng thời gian 1998 –2001 đăng hơn
40 bài báo cáo khoa học trên các tạp
chí nổi tiếng như Nature,
Science, Applied Physics
Letters và tuyên bố đã chế tạo
ra transistor dưới dạng phân tử. Có
khả năng đoạt giải Nobel nếu là
thật. Ông bị Bell Labs đuổi việc
ngay sau đó.
7.
Trinh Xuan Thuan, chương VII
"Giai điệu bí ẩn và con người đã tạo
ra vũ trụ" (người dịch Phạm Văn
Thiều), NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà
Nội 2000.
8.
M. Arndt, K. Hornberger and
A. Zeilinger, Physics World, 18,
pp 35, March 2005.
9.
www.thuvienhoasen.org
10.
Trong sách hai tác giả dùng
từ "ý thức" (consciousness) để ám
chỉ "linh hồn" (soul) có lẽ để làm
giảm màu sắc huyền bí.
|