Cảm
tưởng về quyển "The quantum and the lotus"
Vô Tận trong lòng bàn tay.
Từ thuyết Ðại bùng nổ đến Giác ngộ

Nguyên bản Pháp ngữ:
L'infini dans la paume de la main.
Du Big Bang à l'Éveil
Tác gỉả: Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận
Nhà xuất bản: Fayard/Nil, Paris 2000
ISBN 2-84111-174-1
Bản dịch Anh Ngữ:
The Quantum and the Lotus, A journey to the Frontiers where Science
and Buddhism meet; Publisher Crown Pub, August 2001, 1st Edition
ISBN 0-60960-854-1
Ðại ý:
Sự dị biệt giữa tôn giáo và khoa
học được đánh dấu khởi đầu từ luận đề của Galilée và từ đó
đã khiến nhiều người cho là hai thế giới này không thể nào
gặp nhau đựơc. Einstein khi đối chiếu Phật Giáo với các tôn
giáo khác đã cho là: nếu có một tôn giáo có thể đáp ứng được
những nhu cầu đòi hỏi của khoa học, thì chính đó là Phật
giáo. Einstein muốn nói tới tính cách thuần lý và thực tiển
của Phật Giáo, khi ông so sánh thấy các tôn giáo khác chỉ
dựa trên kinh điển và giáo điều.
Ðúng như điều Einstein cảm nhận, Phật giáo là một tôn
giáo có thể đối thọai với khoa học, cả hai không những không
đối kháng mà còn bổ khuyết cho nhau trong việc tìm hiểu khoa
học hiện đại và đời sống tinh thần của từng cá nhân cũng như
trong nỗ lực về sự chế ngự thiên nhiên và kềm chế bản ngã để
tìm đường thoát khổ. Ðó là nội dung chính của cuốn sách sẽ
được giới thiệu sau đây. Tác phẩm này là một công trình đáng
kể nhằm đóng góp vào sự tìm hiểu tương quan giữa Khoa học
hiện đại và Phật giáo và được hình thành trong khuôn khổ một
cuộc hội thảo tại Ðại Học Andorre, Pháp, giữa một Phật
tử người Việt đã trở thành nhà Khoa học và một nhà Sinh
học người Pháp đã trở thành tu sĩ Phật giáo.
Tác giả:
Ông Trịnh Xuân Thuận, giáo sư Ðại học Virginia Hoa kỳ
ngành Vật lý thiên thể (Astrophysique), cũng
là một người theo đạo Phật. Với hai tác phẩm
khoa học là La Mélodie secrète và Le Chaos et l'Harmonie
(nxb Fayard 1988 và 1998) ông là một tác giả nổi danh.
(1)
Ông Matthieu Ricard, Tiến sĩ Sinh học (Biologie), ngườì
Pháp. Sau nhiều năm làm việc về Di truyền học tại Institut
Pasteur, Paris, ông đã để tâm nghiên cứu Phật giáo và quyết
định thoát tục, trở thành một tu sĩ Phật giáo. Ông hiện tu
tập tại một thiền viện ở Schechen, gần Katmandou, Népal.
Ông cũng là một tác giả nổi tiếng tại Pháp với tác phẩm
Le
Moine et le philosophe
(Matthieu Ricard/Jean-François
Revel , nxb NiL 1997) và nhiều tác phẩm
khác.
Nội dung tác phẩm:
Sách gồm có 19 chương, phần nhập đề, hai kết luận cuả hai
tác giả, phần chú thích, hai phần chú gỉải thuật ngữ
Khoa học và Phật học và lời cám ơn các cộng tác viên.
Chương 1:
Ðối thoại mở đầu nhằm xác định khảo hướng khác
nhau của hai lãnh vực khoa học và
phật giáo. Khoa học thì nhằm tìm hiểu những bí ẩn của
cuộc đời và chinh phục thiên nhiên, trong khi Phật giáo nhắm
hướng giải thoát con người ra khỏi
những đau khổ bằng cách tìm hiểu bản chất chân thực của đời
sống tinh thần và khuyến khích việc tu tập và thực hiện lòng
từ bi. Ðạo đức Phật giáo cũng đóng góp không những hữu ích
trong nghiên cứu khoa học mà còn trong đời sống cá nhân của
nhà nghiên cứu. Công trình nghiên cứu phải nhằm các công ich
chung hơn là theo đuổi những tư lợi
cá nhân, mà đạo đức cá nhân của nhà khoa học cũng không kém
phần quan trọng. Những tính
tình cá nhân cuả Newton, Philipp
Lenard và Johannes Stark được nêu lên như
những trường hợp xấu
điển hình. Lòng quả cảm của Einstein trong việc phản đối chế
độ Ðức Quốc Xã, chống thả bom nguyên tử và chế độ phân biệt
chủng tộc được ca ngợi về mặt công ích, trong khi đời sống
cá nhân của ông cũng có đôi điều đáng nói. Công trình nghiên
cứu Hisato Yoshimura đóng góp về lãnh vực khoa học môi
trường, tuy được nhiều giải thương
cao quý của Nhật, nhưng
phương cách thử nghiệm của ông được coi là vô nhân đạo. Tính
vị tha và lòng trách nhiệm trong Phật giáo cũng là một định
hướng cần thiết cho khoa học hìện đại: các công trình nghiên
cứu và các thành quả khoa học không nên gây đau khổ cho tha
nhân. Nhưng điều này thật ra quá khó khăn cho người nghiên
cứu, ai có ngờ lý thuyết tương đối của Einstein lại áp dụng
vào việc chế bom nguyên tử để tàn sát dân Nhật tại Hiroshima
và Nagasaki. Mục tiêu của đạo đức không phải là kềm hãm lại
các nghiên cứu khoa học, mà làm sao nêu lên được đức tính vị
tha trong Phật giáo để làm nền tảng cho mọi hoạt động khoa
học. Một thí dụ mới mẻ khác được nêu lên là việc lai tạo vô
tính (le clonage). Nhiều tôn giáo khác đã phản đối việc
nghiên cứu này chỉ vì lý do đơn giản hơn: giá trị thiêng
liêng của Ðấng Sáng Thế không còn nữa. Trong khi đó thì vấn
đề này được Phật giáo nhìn dưới một khía cạnh phóng khoáng,
it giáo điều hơn, bởi vì trong Phật giáo không có vấn đề
Ðấng Sáng Tạo. Theo tác giả, cũng nên chấp nhận việc lai tạo
vô tính, khi nó nhằm muc tiêu trị liệu y khoa và làm giảm đi
những đau khổ của con người. Ở cuối chương sách có đặt vấn
đề nên cải thiện cá nhân trong đời sống đạo đức hàng ngày,
hơn là âu lo đến các căn nguyên cuả vũ trụ hay cấu tạo vật
chất. Sự tìm hiểu về ngoại giới cũng chỉ là phương tiện giúp
đỡ đưa đến sự giác ngộ và giải thoát cá nhân mà thôi.Tất cả
suy luận của Phật tử đều phảì dựa trên sự quan sát thực tai
và những kinh nghiệm cá nhân, trực tiếp: vấn đề không phải
tin một cách giáo điều mà cần có một nhận thức làm khởi điểm
cho niềm tin.
Chương 2
đặt vấn đề có hay không sự khai nguyên vũ trụ.
Ðây là một bận tâm lớn cho các khoa học và các tôn giáo. Sự
hình thành và tiến hóa của vũ trụ được giải thích qua lý
thuyết Ðại bùng nổ (Big Bang). Theo cách nhìn của các nhà
khoa học thì vũ trụ trước tiên được bùng nổ cách đây 15 tỷ
năm, từ trong phân tử ở trạng thái
cực nhỏ, nóng và dày bị dồn nén. Dần dà qua thời gian vũ trụ
được bành trướng, liên tục tan loãng và đông lạnh. Trong khi
đó căn nguyên của vũ trụ không là một đề tài lớn trong Phật
giáo. Ðiểm chủ yếu người học đạo Phật là nên chuyên tâm tìm hiểu
thực tế về những gì đã và sẽ đến trong cuộc sống để từ đó
tìm ra một chân lý tốí hậu cho đời sống cá nhân mình. Nỗ lực
tìm kiếm này không liên hệ đến sự khai sinh hay tận thế cũa
vũ trụ. Sự tương phản này nêu lên được tính cách hư
ảo của thế giớí hiện tượng theo cách
nhìn của Phật giáo. Những tư tưởng chính về triết học Tính
Không và trạng thái vô thủy vô chung của vũ trụ được giải
thích. Theo đó thì những ý niệm về khai nguyên và tận thế
của vũ trụ là những vấn đề thuộc về chân lý tương đối mà
thôi. Trong khi ta đi tìm kiếm giá trị tuyệt đối, thì vấn đề
này không còn có ý nghĩa gì. Một điểm dị biệt được nêu lên
là: khi nhà khoa học đề cập tới vũ trụ, phải được hiểu đây
là một thực tại khách quan, đôc lập vơí ý thức, trong khi
đó
Phật giáo không nhìn vũ trụ như một thành phần hoàn toàn độc
lập vơí ý thức, mà đặt mối liên hệ này vòng luân hồi liên
tục.
Chương 3 đề cập tới vấn đề có một nguyên lý tổ chức cho
vũ trụ hay không. Câu hỏi là vũ trụ hoàn toàn vô nghiã hay
là trật tự cuả nó được xắp xếp một cách tuyệt hảo bởi một
bàn tay vô hình nào đó, nhờ đó mà đời sống và ý thức mới có
được.Theo quan điểm cùa Phật giáo thì vũ trụ là một luận
điểm siêu hình và lý thuyết Ðại bùng nổ chỉ giải
thich được một giai đoạn trong một qúa trình liên tục của vũ
trụ. Thế giới hiện tượng và ý thức cộng sinh nhau và cũng
không loại trừ nhau trong thời gian theo nguyên lý vô thủy
vô chung. Chính vì thế mà vấn đề tìm ra lời giải
thích cho sự dung hợp này không là điều không cần thiết. Vấn
đề toàn năng và toàn trí của Thượng Ðế trong việc sáng lập
vũ trụ được hai tác giả thảo luận. Lập luận tin có Ðấng Sáng
Tạo thế gian rất đơn giản: vũ trụ cũng như một cái đồng hồ.
Ðồng hồ chỉ là công trình của người thợ làm đồng hồ, các bộ
phận của đồng hồ tự nó không trờ thành đồng hồ được. Lập
luận khoa học ngược lại đặt vấn đề sự tạo lập thế gian cùa
Thượng Ðế nằm trong quy luật cuả thời gian hay ngoài thời
gian. Ðiều quan trọng là thời gian thì tương đối, như
Einstein đã tìm thấy. Như vậy Thương Ðế cũng phải chịu chi phối bởi quy
luật thởi gian. Ðiều này có nghĩa là Thượng đế không còn
toàn năng nữa. Nếu cho rằng Thượng Ðế
ở ngoài thời gian thì Thượng Ðế cũng sẽ không còn cứu rỗi
được chúng ta bới vì hành vi của chúng ta bị hạn chế trong
thời gian. Lý thuyết của Spinoza cũng được đề cập đến:
nguyên tắc tạo lập vũ trụ chỉ chi phối ơ giai đoạn phôi thai
và Ðấng Sáng Thế cũng không thể đựơc nhân cách hoá. Vấn đề
đặt ra ở cuối chương sách là làm sao Phật giáo có thể dung
hoà với các tôn giáo khác, khi Phật giáo coi Ðấng Sáng Thế
là một ý niệm siêu hình. Tuy Phật giáo không chia sẻ
những ý niệm này, nhưng luôn tôn trọng những giáo lý của các
tôn giáo khác. Phật giáo cũng không mơ ước trộn lẫn
các ý niệm cuả các tôn giáo khác nhau để mơ lập thành một
tôn giáo đại đồng. Nếu như trong thực tế đời sống hằng ngày
ai cũng đều mong tìm cho mình một thức ăn thich hợp khẩu vị
cho cơ thể thì người ta cũng nên tìm tương tự như vậy cho
đời sống tâm linh. Ðiều quan trọng là làm sao người ta tu
tập để hướng thượng và trở thành những người lương thiện và
đầy tính từ bi.
Câu hỏi trong chương 4
là sư tương thuộc và tổng thể của thế giới hiện tượng, cụ
thể là các vật chất trong thế giới hiện tượng được hình
thành hoàn toàn độc lập hay là liên kết và tương thuộc nhau
trong một tổng thể. Theo Phật giáo, sự hình thành thế giới
hiện tượng không bắt nguồn từ những nguyên nhân độc lập và
những hoàn cảnh chuyên biệt. Sự cảm nhận này là một sai lầm.
Kinh nghiệm thực tế của đời sống hằng ngày cho thấy vật chất
là những thực tại độc lập khách quan, mỗi vật chất đều có
một thực thể nội tại của nó. Nhưng đây là một cách nhìn quá
đơn giản, mà không thấy được mối liên hệ nhân quả trong thế giới hiện tượng một cách tổng
thể. Tất cả mọi yếu tố đều tương thuộc lẫn nhau, cái này
sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia sẽ diệt. Ý
niệm tương thuộc này liên hệ đến triết học Tính Không trong
Phật giáo. Cũng xin đừng hiểu Tính
Không là hoàn toàn phủ
nhận thế giới hiện tượng hay chỉ là hư vô chù nghiã cùa Tây
phương. Phật giáo nhìn thế giới hiện tượng như là sự diễn
biến tương thuộc nhau và liên tục theo mối liên hệ nhân quả.
Vấn đề tương thuộc này trong khoa học cũng được giải thích
qua các luận thuyết của Einstein, Podolsky và Rosen (EPR),
1935. Những thí nghiệm của John Bell 1964 và gần đây Nicolas
Gisin 1998 trong chức năng của quang tử đã soi sáng thêm vấn
đề. Thí nghiệm về quả lắc của
Foucault từ 1851 cũng đã đưa ra một ý niệm quan trọng: tất cả
những gì xảy và
diễn ra ở đây và hôm nay đều
tùy thuộc vào toàn
thể vũ trụ. Nguyên lý cuả Mach cũng bổ túc thêm là: khối
lượng của một vật thể bắt nguồn từ những ảnh hưởng của vũ
trụ. Hai khảo hướng khác nhau cùng đi chung một kết luận: sự
tương thuộc lẫn nhau giữa con người
và vũ trụ trong thế giới hiện tượng. Từ đó con người có một
nhận thức mới, đó là ý thức về trách nhiệm đại đồng trưóc
mối liên hệ này. Có ý thức này thì con ngưới mới dẹp bỏ lòng
ích kỷ, hưóng về tha nhân cùng xây đắp một hạnh phúc chung
và đặt biệt là không gây đau khổ cho kẻ khác, thực hiện từ
bi. Ðó là một chuyển hoá nội tâm đưa
lần đến giác ngộ. Vũ trụ quan này đuợc diễn
đạt qua lời thơ cuà William Blake dùng làm tựa đề cho tác
phẩm như sau:
Voir un univers dans un grain de
sable
Et un paradis dans une fleur sauvage
Tenir l'infini dans dans la paume de
la main
Et l'éternité dans une heure
Dich xuôi:
Nhìn vũ trụ trong một hạt cát
Và thiên đàng trong một cành hoa hoang dại
Nẳm giữ vô tận trong lòng bàn tay
Và vĩnh cửu trong phút giây
Dịch thơ:
Trong hạt cát ta ngắm nhìn vũ trụ
Nhìn thiên đàng giữa hoa dại hoang sơ
Ôi thiên thu lắng đọng chỉ một giờ
Giữ vô tận trong bàn tay bé nhỏ
(Bản dịch thơ của Lê Cao Bằng Calgary, Canada)
Chủ đề của chương 5
là tìm ra lời giải
thích cho sự hiện hữu của các phần từ sơ đẳng (les
particules élémentaires) trong Phật giáo và Khoa học. Phật
giáo cũng quan tâm tới vấn đề khoa học này nhưng những lời
giải thích hầu như không gây được
những hậu quả sâu xa.
Khi tìm hiểu về những thực tại hay hư ảo của cuộc đời vây
quanh, vấn đề là phải làm sáng tỏ đâu là bản chất của những
gì đã cấu tạo nên những viên gạch nền móng này. Ðể giải
thích về tính cách tổng thể của thế giới hiện tượng một thí
dụ được nêu lên: bản chất của ánh sáng. Nguyên tắc bổ sung
(principe de complémentarité) của
Niels Bohr được giải thích: ánh sáng vưà là làn sóng và vừa
là phân tử. Ánh sáng không thể nào có một thực tại nội tại
tuyệt đối hoặc là phân tử hoặc là làn sóng. Ðiều này tùy thuộc
vào môi trường và phương thức thử nghiệm. Ðó cũng là ý niệm
chính trong nguyên tắc bất định (principe d'incertitude) của
Heisenberg. Khi nghiên cứu về điện từ (electron), thì ông
cho rằng không thể nào xác định tuyệt đối được vị trí và tốc
độ của điện tử. Những thành quả nghiên cứu của trường phái
Copenhague được tóm lược qua kết luận: những nguyên tử tạo
nên một thế giới của những tiềm năng hay những khả
năng hơn là những thế giới của vật chất và những sự kiện. Ý
niệm về nguyên tử được vay mượn để giải thích vể thế giới
hiện tượng. Bohr cũng xác nhận sự khó khăn khi làm sao vượt
qua được những sự kiện và những kết qủa thử nghiệm: sự mô tả
của chúng ta không nhằm soi sáng những đặc điểm thực tế của
hiện tượng, mà phải tìm ra những tương quan của các khiá
cạnh khác nhau trong cuộc sống của chúng ta càng nhiều càng
tốt. Những lập luận của Jacob, Schrödinger,
Einstein và Stapp được giới thiệu, nhưng quan trọng nhất là
của Nottale. Nottale xác nhận là Phật giáo từ 2500 năm trước
đã tìm thấy sự hiện hữu cuà vật chất là tương đối, vấn
đề là làm sao tìm ra những mối quan
hệ trong thế giới này.
Chương 6 đề cập tính cách vô thường trong thế giới hiện
tượng. Ðây không chỉ là một đề tàì để trầm tư mặc tưởng mà
còn là một động lực giúp chúng ta sử dụng thời gian còn lại
của đời mình hữu ích hơn. Sự tìm hiểu của chúng ta về thực
tại tùy thuộc vào viễn kiến về thế giới và thái độ của chúng
ta. Câu hỏi đặt ra: có hay không những thực thể thường hằng
(les entités permanentes) trong vũ trụ? Nếu không có gì vĩnh
cửu tại sao chúng ta lại có thể gọi những sự vật có một đời
sống cố hữu (une existence intrinsèque)? Những ý niệm vô
thường trong đời sống được đề cập. Sự thay đổi này được thể
hiện qua quy luật sanh lão bệnh tử, trong thay đổi của cảm
xúc. Ðìểm tinh tế nhất phải nhận ra là trong từng phút giây
của đời sống cũng có sự thay đổi. Những biến dạng của những
phân tử và về cách nhận dạng các phân tử này qua cách sử
dụng 18 loại quarks khác nhau được giải
thích. Lý thuyết tiêu chuấn (theorie standard) nhằm chứng
minh tính cách bất tử của các phân tử, đặc biệt là dương tử
(proton) được đề cập. Tính bất từ này phải hiểu khi so sánh
với đời sống của con người, nhưng nó có thể biến dạng qua
thời gian. Trong nỗ lực tìm ra một sự
mô tả mới về những hiện tượng của vũ trụ thuyết siêu lực
(théorie de superforce) được giải
thích. Ðây là một tổng hợp các giả
thuyết trước đây. Theo đó thì những phân tử không phải
là những phần tử sơ đẳng, mà chính là những chấn động trên
những sợi dây được gọi là supercorde. Chính năng lượng của
những chấn động này mới xác định được khối lượng của những
phân tử. Ðây còn là một luận điểm mơ hồ, cần được kiểm chứng
bằng thực nghiệm.
Chương 7
đề cập tới vấn đề làm sao ta có thể hiểu thực
tại của thế giới hiện tượng, khi nó được
che đậy bởi những lớp màn chắn bên ngoài. Ðối với khoa học
thì vấn đề này
được nhận chân bằng giả thuyết và thử
nghiệm.Thật ra có ít nhà khoa học quan tâm sâu xa đến những
nền tảng triết lý cùa những công trình mà họ đang theo đuổi.
Những áp dụng thực tìễn trong đời
sống về những thành tựu của lãnh vực
cơ học lượng tử (la mécanique quantique) đã cho thấy vấn đề
này. Chính d'Espagnat cũng xác nhận
là khoa học có thể mô tả được những thực tại được thử
nghiệm. Kết qủa này cũng chỉ là những khái luận về một thưc
tại độc lập không ghi lại được trong không và thời gian. Một
đặc điểm khác: đối tuợng quan sát hoàn toàn lệ thuộc vào vị
trí và thái độ của nhà quan sát, điển hình là sự quan sát
cầu vòng. Cầu vòng là một hình ảnh mà Phật giáo hay dùng
đến để diễn tả tính cách hư thực và
tương thuộc cuả thế giới hiện tượng. Ai cũng thấy cầu vòng
chiếu sáng nhưng không ai có thể bắt lấy được, nên nó vừa là
hư vừa là thực. Cầu vòng chỉ là một trùng hợp ngẫu
nhiên của hai yếu tố: lớp màn mưa và ánh sáng mặt trời,
nếu thiếu một, thì cầu vòng sẽ biến mất, nên nó tương thuộc.
Vấn đề nhận chân ra thế giới hiện tượng có hai khía cạnh:
bản chất tối hậu của hiện tượng và phương cách mà chúng ta
cảm nhận được hiện tượng này. Khi ta
nhận ra được đâu là bản chất tối hậu của hiện tượng thì sự
dị biệt của thế giới hư
ảo và hiện thực sẽ không còn nữa.
Chương 8 đặt vấn đề định mệnh để thảo
luận, thí dụ như có hay không có định mệnh, định mệnh cá
nhân và định mệnh tập thể, ý nghĩa về
nghiệp (karma), đâu là mối liên hệ nhân quả và định mệnh.
Một câu hỏi khác: nếu con người và bản ngã chỉ là hư
ảo thì làm sao có thể chuyển hoá được
cuộc sống trong hiện kiếp? Karma theo
tác giả phải được hiểu là hành động. Những gì chúng ta suy
nghĩ, nói và hành động sẽ tạo nên khuôn mẫu cùa cuộc đời
chúng ta. Ðiều này bắt nguồn từ sự cảm nhận của chúng ta đối
với cuộc đời, nó đến từ ý thức, kinh nghiệm cá nhân về đời
sống. Dĩ nhiên sự cảm nhận này hoàn toàn khác biệt trong
từng cá nhân. Một ngưòi đạt đạo rồi sẽ thấy những ràng buộc
trong thế giới hìện tượng là điều hư ảo.
Nghiệp cũng không phải là định mệnh,
nó chỉ là một phản ảnh về mối quan hệ nhân quả, không chỉ
trên hành động mà có ý hướng đưa tới hành động. Chúng ta
không bao giờ hoàn toàn lệ thuộc vào
định mệnh như những tù nhân, mà trong đó quá khứ và tương
lai làm thành một khối liền chắc. Bằng tự do và ý thức người
ta có thể chuyển nghiệp này. Chúng ta là kết quả
của những quyết định mà chính chúng ta chọn lựa, dĩ nhiên là
rất khó khăn khi nỗ lực thoát ra khỏi
căn nghiệp. Ý niệm này được Norbert Wiener cha đẻ của khoa
học cybernétique diễn đạt như sau: Chúng ta chỉ là những ổ xoáy
nước trong một dòng sông vô tận. Chúng ta không là những bản
thể trường tồn, nhưng những dấu vết sẽ
còn lưu lại mãi.
Chủ đề của chương 9
là ý niệm về thời gian qua các lăng
kính. Theo Galilée thì thời gian là một dụng cụ chủ yếu để
xếp đặt và nối kết các sự đo lường về các chuyển động trong
các đối tượng nghiên cứu một cách
toán học. Nhưng Newton với quy luật về cơ học đã
đưa ra một định nghĩa chính xác về
thời gian. Theo Newton sự chuyển động
các vật thể trong không gian xác định được vị trí và tốc độ
của nó nhờ vào những khoảnh khắc thời gian tiếp nối nhau.
Qua định nghĩa này thì đặc điểm của
thời gian là độc nhất, tuyệt đối và
phổ quát. Lý thuyết này bị đánh đổ bởi lập thuyết tương đối
của Einstein. Thời gian thì theo Einstein co dãn
và tuỳ thuộc không gian. Ngoài ra Einstein còn cho rằng
không gian và thời gian không thể sống tách rời nhau, cả
hai là một cặp kết hợp nhau. Einstein còn phát hiện thêm
trong lý thuyết tương đối tổng quát của ông: Thời gian không
những chậm lại bởi vận tốc mà còn chậm lại bởi trọng lực.
Phật giáo nhìn vấn đề thời gian khác hơn. Thời gian vật lý
chỉ là một phương cách để tìm hiểu vể thế giới hiện tượng
thôì. Ý niệm thời gian và không gian chỉ có trong thế giới
hiện tượng và có mối quan hệ với những kinh nghiệm với những
hệ thống đối chiếu với nó. Thời gian trôi là một điều không
nắm bắt được trong phút giây hiện tại. Trong phút giây hiện
tại thí quá khứ đã chết và tương lai thì chưa xảy
ra. Theo cách nhìn này thì làm sao mà hiện tại có thể hiện
hữu hoặc ngưng đọng ở giữa cái không
còn nữa và cáí chưa thể xảy ra. Ý niệm về thời gian chỉ là
chân lý tương đối trong thế giới hiện tượng mà thôi. Những ý
niệm khác nhau vể thời gian qua quan điểm của Heraclite,
Saint Augustin, Aristote, Kant và Husserl được hai tác giả
đưa ra giải thích. Nhiều kinh điển Phật giáo được trích dẫn
trong trong chương này để giải thích về ý niệm thời gian.
Phật giáo dùng thời gian như một quan điểm tâm lý nhằm chế
ngự những nỗi lo âu về cái chết và khuyến khích người ta nên
chuyên cần tu tập. Ý thức được thời gian trôi là quí giá nên
người học Phật sẽ luôn luôn tập trung để tu tập, nhưng cũng
không sống trong nỗi ám ảnh về cái
chết, mà chỉ suy tưởng không ngừng về việc này nhằm chuẩn bị
đón nhận nó đến trong thanh thản an lạc.
Chương 10 giải
thích thuyết nhân quả theo Khoa học và Phật giáo. Lý thuyết tương đối của
Einstein đã đưa ra nhiều luận điểm mới, mà theo đó nguyên
tắc về nhân quả cũng cần được xét lại. Không có gì đi nhanh
hơn ánh sáng và chính ánh sáng cũng là một phương tiện
truyền thông nhanh nhất trong vũ trụ, theo Einstein. Hai
biến cố chỉ có liên hệ nhân quả với
nhau khi mà ánh sáng có đủ thời giờ mang biến cố thứ nhứt
đến biến cố thứ nhì trong khi sự cách biệt của thời gian làm
tách biệt chúng ra. Ðiều này giải
thích được mối liên hệ nhân quả của hai biến cố và đồng thời
cũng giải thích được tốc độ của ánh
sáng. Một thí dụ được nêu lên để soi sáng vấn đề. Một tia
sét đánh trên hai đầu toa xe lửa đang
chạy, ba người A, B và C quan sát hiện tượng này sẽ giải
thích ba cách khác nhau, tùy thuộc vào vị trí mà họ đang
theo dõi. Nếu A đứng yên trên sân ga
thì A sẽ thấy tia sét đánh cùng một lúc phía trước và phía
sau của toa xe, nếu B ngồi trong toa
xe đang chạy thì B trước tiên sẽ thấy tiếng sét đánh phía
trước của xe rồi liền sau đó sẽ thấy tiếng sét đánh phía
sau. Lý do giải thích hiện tượng này là xe đang di chuyển,
ánh sáng của tia chớp phía trước ít khoảng cách hơn tia
sáng phía sau. Vận tốc của ánh sáng thì không thay đổi,
nhưng ánh sáng đến phía trước thì cần ít thời gian hơn phía
sau. Còn nếu C ngồi trên một xe chạy ngược chiều thì sẽ thấy
ngược lại điều B chứng kiến. Thí dụ này cho thấy là những
biến cố khi xảy diễn qua sự liên tục của thời gian có thể bị
biến dạng do những chuyển động.Theo đó thì kết quả có thể đi
trước nguyên nhân. Những ý kiến liên quan đến thuyết tất
định trong khoa học (le déterminisme scientifique) qua ý
kiến của Heisenberg, Foucault, Newton Laplace,
Poincaré và Hegel được đề cập tới. Khó khăn lớn nhất của
khoa học là không thể nào tiên đoán tương lai một cách chính
xác bởì vì sự mô tả cũng như hiểu biết về điễu kiện ban đầu
của hiện tượng không bao giờ đầy đủ. Trong khoa học cũng
không có sự tình cờ hay tất yếu, mà chính ra những nguyên
nhân hay điều kiện thì vô kể mà ta không biết trước được.
Theo Phật giáo thì thuyết nhân quả là
điều hiển nhiên và quy luật được diễn biến qua bốn hình thái
phát sinh như sau: một vật có thể sinh ra (1) bởi tự nó, (2)
bởi sự vật khác, (3) bởi tự nó và bởi sự vật khác hoặc (4)
không bởi tự nó hoặc không bởi sự vật khác. Dù dạng thái nào
thì nhân và quả phải có một điểm nối kết nhau để tạo thành
mối quan hệ, chớ không thể nào là những thực tại độc lập.
Chương 11 xoay quanh vấn đề mối quan hệ giữa tinh thần và
vật chất qua Khoa học và Phật học.Theo khoa Sinh học thần
kinh (la neurobiologie) thì tinh thần nảy sinh từ sự tác
động lẫn nhau giửa cơ thể và thế giới
bên ngoài và là kết quả của một tổ chức cực kỳ phức tạp từ những phần tử bất
động (les particules inanimées). Như vậy phải chăng là tinh
thần chỉ là một sự phàn ảnh của vật chất. Trả lời câu hỏi
này Phật giáo có một lối giải thich khác hơn. Có ba trạng
thái của tinh thấn: tinh thần ở trình độ thứ nhất thì thô
sơ, chỉ thuần túy là sự vận động của não bộ, ở trình độ thứ
hai thì tinh thần có khả năng phản tĩnh bằng suy luận và
trực giác để quyết định vấn đề và ở trình độ thứ ba thì tinh
thần đạt được sự hiểu biết thuần khiết không dựa trên phương
thức phân biệt chủ quan và khách quan hay trên những tư
tưởng suy lý. Ðây là trang thái cao nhất của tinh thần còn
được gọi là sự minh mẫn. Ba trạng thái này không hoạt động
độc lập mà ảnh huởng nhau qua mối liên hệ nhân quả trong thể
xác. Một trạng thái tinh thần này đều bắt nguồn từ một trạng
thái tinh thần khác xảy ra trước đó.
Từ nhân sinh ra quả là một quá trình nảy
sinh được kết hợp qua mối liên hệ chù yếu và những yếu tố
phụ thuộc. Thí dụ hạt giống được sinh ra là kết qủa của việc
nẩy mầm, đây là mối quan hệ chủ yếu, nhưng cũng đừng quên
những yếu tố phụ thuộc là thời tiết và độ ẩm. Tinh thần nhị
nguyên theo lý thuyết của Descartes cũng được đem ra so sánh
với quan điểm của Phật giáo và nguyên tắc bổ sung của Niels
Bohr cũng là một lối giải thích. Ý niệm về một thế giới vô
hình và hữu hình cũng được đề cập tới. Phần quan trọng nhất
của chương này là bàn về vai trò của tinh thần trong đờì
sống, đặc biệt là những kinh nghiêm về
cận tử (near death experience) và một câu chuyện có thật về
luân hồi cuả Shanti Dévi tại Ấn Dộ được dẫn
chứng.
Chương 12
đặt vấn đề so sánh giữa người máy (robot) và
máy vi tính (ordinateur) với não bộ
của con người. Vấn đề khả năng phản tĩnh của con người được
đưa ra để so sánh với những tiến bộ của ngành sinh học hiện
đại cũng như những luận điểm mới trong lãnh vực thông minh
nhân tạo (intelligence artificielle). Theo các nhà sinh học
thì bộ óc chỉ là một bộ máy suy nghĩ được cấu tạo bởi những
hoạt động trong một hệ thống thần kinh tổng hợp. Những gì
gọi là tinh thần đều đến từ những tổ chức càng ngày càng
phức tạp hơn của não bộ. Những gì
được gọi là ý thúc, tư tưởng hay tình yêu và những cảm
xúc trong cuộc sống đều là những kinh nghiệm sống trải.
Trong khi đó thì Francisco Valera chú ý đến sự tương tác cúa
não bộ và thế giới bên ngoài. Chính
sự tác động thường xuyên của môi trường mới là quan trọng.
Hoạt động của hệ thần kinh được đem ra so sánh với cấu trúc
của một máy vi tính (ordinateur) và được xem như là cương
liệu (hardware) trong khi tinh thần được coi như là nhu liệu
(software). Ðiểm dị biệt chủ yếu vẫn là máy móc chỉ tính
toán và làm việc theo những chương trình đã quy định do nhà
thảo chương cung cấp không hơn không kém, mà nó không
có ý thức phản tỉnh để trả lời câu hòi tại sao mình có thể
đưa đến kết quả như vậy. Ðiều đáng kinh ngạc ở đây là khả
năng tính toán của máy móc vượt hẳn xa con người. Trong trận
đánh cờ cuà vô địch thế giới Garry Kasparow và người máy
Deep Blue trong năm 1997 đã cho thấy vấn đề này. Deep Blue
thắng được là nhờ có thể nghĩ ra 200 triệu vị thế cờ trong
một giây và từ đó tổng hợp ra được 10 thế cờ liên tiép,
trong khi bộ óc của con người với kinh nghiệm và sự tính toán,
đặc biệt là trực giác chỉ tìm đươc vài nước
cờ trước mà thôi. Nhưng cuộc thắng cờ cũng chỉ là sự tuân
lịnh mù quáng của Deep Blue qua những chương trình đã soạn
trước của các chuyên viên. Deep Blue cũng không vui khi
thắng, không buồn khi thua, không hồi hộp khi tính toán và
cũng không nuối tiếc khi đi sai một thế cờ, vì Deep Blue dầu
sao đi nữa cũng chỉ là máy mà thôi. Jean- Pierre Cheanguex
cho rằng máy móc chưa có cảm xúc như
con người vì chính ra con người chưa đủ khả năng tạo ra được
một bộ óc phức tạp cho máy như hệ thần kinh con người. Bộ óc
con người hiện nay là kết quả của một sự tiến hoá hơn một tỷ
năm trong khi máy vi tính chì xuất hiện từ thập niên 50 cuà
thiên niên kỷ trước. Alain Turing đã
đưa ra cách thí nghiệm mới về sự thông
minh của người máy. Ông cũng tiên đoán rằng trong tương lai
người máy có thể đánh lừa đươc người đối thoại với mình
trong 5 phút. Các nhà nghiên cứu trong lãnh vực này cho là
một ngày nào đó không xa máy vi tính và người máy cũng sẽ có
cãm giác thương yêu buồn giận như con người. Nhưng những câu
hỏi nền tảng như: tôi từ đâu đến, sống để làm gì và chết sẽ
ra sao thì người máy khộng thể tự hỏi và trả
lời được. Một câu hỏi dễ hiểu nhất mà
người máy cũng không biết được là thân phận mình sẽ ra sao
khi cúp điện. Sự tiến hóa của ý thức qua hai dạng thái: ý
thức sơ khởi và ý thức phản tỉnh, luận điểm này đươc hai
tác giả bàn đến trong mối quan hệ với Phật giáo ờ cuối
chương. Những kinh nghiệm mà chúng ta có được về tinh thần,
những khả năng mà chúng ta có thể
hiểu được bản chất cuả tinh thần qua phương pháp nội suy hay
chế ngự tinh thần bằng cách coi nó như một đối tượng nghiên
cứu nội quan vẫn chưa được khoa học giải
thích thoả đáng. Những điều bàn đến chỉ nằm phản ảnh được
vấn đề trong chân lý tương đối mà thôi. Những suy lý, hy
vọng hay lo âu đưa chúng ta tới quyết định này hay quyết
định khác vẫn nằm trong phạm vi cùa thế giới vô minh và mê
aỏ. Chúng ta vẫn còn lầm lạc trong những luồng tư tưởng mà
chúng ta cho là thực tại. Chính Giác ngộ mới là kiến thức
duy nhất vượt qua sự lầm lẫn này,
không có căn cứ trên ý niệm, vì ý niệm hoàn toàn bất lực
trước những bản chất tối hậu cúa tinh thấn.
Chương 13 đề cập tới ý niệm về tinh thần trong mối quan
hệ với vũ trụ qua Khoa học và Phật giáo. Theo Phật giáo tinh
thần và vũ trụ cộng sinh và cộng hưỏng nhau, không
thể nào có một cuộc sống riêng biệt,
cả hai chỉ hiện hữu trong thế giới
hiện tượng và chì có gía trị chân lý tương đối. Theo ý kiến
của các nhà sinh học hiện đại thì tinh thần đưọc trải
qua hai giai đoạn từ không ý thức đến có ý thức. Phật giáo
cũng không hẳn đi ngược lại lý thuyết về tiến hoá, nhưng lại
nhưng qua sự tiến hoá của thế giới
súc vật đến thế giới của con người thì khả
năng phản tỉnh của con người là ở mức độ cao nhất, đặc biệt
là khà năng cảm nhận hạnh phúc và đau
khổ trong cuộc đời. Phật giáo chia thế giới làm ba loại: ước
vọng, hữu hình và vô hình. Yếu tố quan trọng làm chuyển hóa
đời sống con người là đìều kiện tinh thần. Chính sự thù
ghét, tham lam, ích kỷ làm cản trở sự chuyển hoá đó. Ðó
chính là màn chắn lại để cho chúng ta thấy không được bản
chất thực của tinh thần. Sau
đó ý niệm về giác ngộ được giải
thích. Ðó là giai đoạn đạt đạo, vượt qua khỏi vô minh và
phiền não, thoát khỏi vòng lẩn quẩn luân hồi. Tuy nhiên vì
tình từ bi, người đạt đạo vẫn có thể
đầu thai trở lại thế gian để gíúp người đồng loại. Vấn đề
vai trò của tiềm thức và ý nghĩa của
chiêm bao theo Tâm lý học được đem ra đối chiếu với Phật
giáo ở cuối chương. Phật giáo hiểu tiềm thức theo nghĩa
khuynh hướng (tendance) hay sự tiêm nhiễm
(imprégnation) và chia làm ba loại. Loại thứ nhứt là những
tích lũy tiềm tàng và tạo cho chúng
ta thành một thói quen, gây ảnh hưởng đến phương cách suy
nghĩ và hành động. Loại thứ hai là những suy gẫm
vể những tính cách hư ảo của những
khuynh hướng hay những động lực này. Những trầm tư giúp
chúng ta vượt thoát trạng thái nêu trên bằng cách tìm ra
căn cơ của vấn đề. Loại thứ ba đặc biệt dành cho người có
khả năng, biết dùng khuynh hướng này như một chất xúc tác
làm chuyển hoá được tâm linh mình. Phật giáo chia trạng thái
tỉnh đến ngủ mê làm 4 giai đoạn, giấc mơ là chỉ ở giai đoạn
thứ nhì. Giấc ngủ mê được coi như là sự lập đi lập lại của
cái chết, trong khi đó thì giấc mơ được coi như là sự lập đi
lập lại của một trạng thái trung gian giữa
chết và tái sinh.
Chương 14 đặt vấn đề quy luật khoa học để thảo luận. Quy
luật khoa học được hiểu theo nghĩa là những lời giải
thích khách quan và tổng quát về những mối tương quan của
các hiện tượng và tìm ra những quy cách vận hành cuà nó.
Những ý niệm về quy luật khoa học tại Tây phương từ thời
Tiền sử đến Phục hưng được đề cập sơ lược. Ðối với người Hy
Lạp từ thế kỷ thứ VI trước Thiên Chúa thì thiên nhiên vừa
là một đề tài suy tưởng và cũng vừa
là lý thuyết. Thiên nhiên được sắp đặt bởi những quy luật mà
loài người có thể hiểu được và cũng không là một vật cố hữu
cuà Thượng đế. Aristote đề ra nguyên lý nhân quả qua 4 dạng
thức của nguyên nhân: hình thức, nội dung, hiệu năng và cứu
cánh. Ðể trả lời câu hỏi tại sao trời mưa thì Aristote đã
dùng phương thức cứu cánh để giải
đáp. Trơỉ mưa bởi vỉ loài người và cây cối cần nước mưa để
sinh tồn và tăng trưởng, chứ không phải hội tụ của hơi nước
và thuyết trọng lực như chúng ta biết hiện nay. Nhiều nhà
nghiên cứu khoa học như Kepler và Newton, dù có niềm tin vào
những quy luật của khoa học, nhưng cũng đồng thời ngợi ca
Ðấng Tối Cao trong việc tạo lập vũ trụ. Theo Phật giáo thì
vấn đề quy luật nằm ờ chỗ phân chia
chân lý tương đối và chân lý tối hậu. Chân lý tương đối thí
nhằm tìm hiểu thế gìới hiện tượng qua quy luật nhân quả.
Nhưng ngoài ra nghiệp báo (karma) cũng đóng một vai trò chủ
yếu đề giãi thích những đau khổ vả hạnh phúc. Tuy nhiên
karma chỉ lả một khía cạnh trong luật
nhân qủa và cũng không là một toà án tối cao để phân xử
những hành vi của chúng ta. Chân lý tuyệt đối thì nhằm tìm
hiểu những vấn đề tối hậu. Một câu hỏi khác được nêu lên là
tại sao nền tảng của khoa học đều bắt nguốn từ Tây phương,
mả không là Trung Hoa, dù nước này có nhìều phát minh sớm
nhất như la bàn và thuốc súng. Lời giải
thích cho vấn đề được đưa ra là không phải là người Trung
Hoa không có khả năng phân tích những hiện tượng khoa học,
nhưng họ có những nhu cầu ưu tiên tìm hiểu cho những vấn đề
quan trọng khác như đạo đức, hạnh phúc hay cái chết. Ngoài
ra theo họ thì thiên nhiên cũng không thể tách rời ra tửng
những thành phần biệt lập để nghiên cứu riêng biệt như tại
Tây phương, vì mọi thành phần trong thiên nhiên hoà hợp với
nhau theo một thể thống nhất. Phương thức suy lý làm nền
tảng cho khoa học tây phương cũng không được người Trung Hoa
chú trọng. Thực ra phương pháp suy lý cũng có giới hạn của
nó khi chỉ tìm hiểu một thành phần riêng lẻ mà quên đi tổng
thể cuả đối tượng nghiên cứu. Những thành quả
khoa học của thuyết 4 động lực cơ bản được giới thiệu ở cuối
chương.
Chương 15 bàn tới những bí ẩn của toán học. Vấn đề đặt ra
là toán học phải chăng chỉ là những sản phẩm
của tri thức mà thôi hay còn tạo nên những biến thiên vô
hình trong thực tại. Với niềm tin vào những quy luật khoa
học, đặc biệt là toán học, làm nền tảng, hầu hết các nhà
khoa học cho rằng chỉ có những quy luật của khoa học có thể
giải thích được những quy cách vận
hành lệ thuộc vào thiên nhiên. Descates und Leibnitz còn đi
xa hơn khi kết luận rằng những giải
thích không diễn đạt được bằng ngôn ngữ toán học thì không
thể gọi là khoa học được. Những đề cao vai trò của toán học
qua Galilée, Pythagore và Wigner được trích dẫn
và giải thích. Những thành tựu
Einstein trong việc không sử dụng hình học Euclide, những
công trình cùa Riemann vào thế kỷ XIX về
hình học cong và đặt biệt gần đây ý niệm mới về toán học của
Mandelbrot (dimension fractionnaire) được tác giả giải
thích. Bàn về bản chất của Toán học có hai quan niệm đối
kháng nhau, theo trường phái của các nhà Constructivistes
thì cho là toán học không có thực. Tất cả
những ý niệm tóan học đều là những sao chép từ những cãm
tưởng như David Humes nói. Những dạng của hình học không thể
tìm thấy trong các dạng của thiên nhiên. Trường phái duy
thực của các nhà Réalistes thì ngược
lại cho rằng chính toán học mới có một thực tại độc lập với
tư tưởng của chúng ta. Bằng lý trí chúng ta có thể tìm kiếm
và khám phá chân trời bao la của toán học. Dù chúng ta có ý
thức hay không thì toán học là một phạm vi rộng lớn đã có sẵn.
Những ý kiến về toán học cuả Descates, Penrose và Hertz đươc
dẫn giải. Vai trò của trực giác trong toán học được đem ra
thảo luận bằng những thì dụ của Archimède
và Poincaré. Những thành tựu của thiên tài toán hoc Ấn độ
Ramanu-jan được giới thiệu. Ngoài ra những khám phá mới
trong của các nhà sinh học não bộ đã cho thấy mối tương quan
giữa hoạt động của não thùy vả trực
giác toán học. Ðể giải thích hiện
tượng thiên tài Einstein các nhà sinh học não
bộ tại Canada trong năm 1999 đã cho là dung lượng hai não
thùy thuộc về xương đỉnh cùa Einstein hơn một người bình
thường là 15%. Còn Phật giáo thì nghĩ sao vể toán học? Theo
Phật giáo thì toán học chỉ là những ý niệm của con người áp
dụng vào trật tự của thiên nhiên. Trật tự này là một phản
ảnh về sự tương thuộc của và những qui luật nhân quả.
Theo Phật giáo thì những sự minh mẫn
không nhất thiết là sự thông minh
thuộc về toán học hay là các loại khác. Ðó chẳng qua chỉ là
sự tỉnh thức, một khả năng chủ yếu nhằm tạo cho tinh thần
có một ý thức. Ðặc điểm chiếu sáng của tinh thần này
được so sánh tương phản với sự vô tri của đá cuội. Những ý
niệm về toán học đã đem lại những dẫn chứng
về mối tương thuộc trong thế gìới
hiện tượng, trong khi đó thì thi sĩ cảm nhận mối tương quan
này qua thẩm mỹ và diễn đạt bằng một loại ngôn ngữ
khác. Khả năng cảm nhận được sự hòa
điệu cúa con người trong vũ trụ là một đặc điểm có sẵn
trong tinh thần của chúng ta. Nhưng sự diễn tả qua những quy
luật của toán học, những dạng thức,
phương trình chỉ là một sản phẩm vể ý niệm trong tư tưởng.
Câu hỏi chính của
chương 16 là lý trí hay suy niệm có thể
giúp chúng ta tìm hiểu thế giới như thế nào. Vấn đề đặt ra
là người ta có thể so sánh hai phương thức thu thập kiến thức
bằng khoa học và tôn giáo không và phải dựa trên cơ sở nào
để kiểm chứng những giá trị về những kiến thức do tôn giáo
mang lại. Phật giáo nghĩ gì về kiến thức khi mà kiến thức
thuần lý bắt nguồn từ nhũng ý niệm trừu tượng, đươc quan
sát, thử nghiệm và diễn đạt bằng ngôn ngữ khách quan của
toán học. Một loại kiến thức dựa trên kinh nghiệm suy niệm
của cá nhân có đáng được xem là thuần lý không. Theo Phật
giáo thì thuần lý có nghĩa là một phương tiện kiến thức
chính xác. Ý niệm này bao gồm mọi khía cạnh của luận lý,
thực nghiệm cũng như suy niệm. Theo đó người ta phân biệt
hai loại kiến thức một loại có giá trị theo quy ước hay
tương đối và một loại có gía trị tối hậu hay tuyệt đối. Chỉ
là giá trị tương đối khi nó giúp chúng ta hiểu biết ngoại
hình của sự vật và có giá trị tuyệt đối khì nó giúp chúng ta
hiểu được bản chất của hiện tượng. Nhưng suy niệm cũng cần
đến luận lý và lý trí như là dụng cụ phân tích. Suy niệm
giúp chúng ta phát triển nhũng điều tốt đẹp như thiện tính,
tính từ bì. Kết hợp với kinh nghiệm suy niệm còn giúp chúng
ta mở mắt thấy được những hậu qủa tai hại của những hận thù
và những thuận lợi khi ta có lòng kiên nhẩn trong đời sống
hằng ngày. Cũng cần phân biệt ở đây về kiến thưc và Giác
ngộ. Giác ngộ là một trạng thái cao cả nhất của kiến thức,
khi mà người tu tập không còn phân biệt chủ thể và khách thể
trong ý niệm và tri thức thuần lý nhường chổ cho ý thức trực
tiếp, trong sáng và bừng tỉnh. Tây phương thường giải thích
Giác ngộ như là một trạng thái tâm lý của trực giác và thần
bí, nhưng thật ra lối giải thích này không thể diễn đạt được
hết ý niệm Giác ngộ trong thế giới suy niệm của Phật giáo,
vì Giác ngộ vượt qua mọi giới hạn của những ý niệm thông
thường. Còn Kiến thức khoa học thì sao? Một lý thuyết khoa
học thực ra chì giải thích được một
vài khía cạnh của thực tai, chứ không toàn diện. Ðịnh lý nổi
danh về sự bất toàn (le théorème d'incomplétude)
của Gödel vào năm 1931 là một thí dụ điển hình. Gödel đã
minh chứng rằng trong hệ thống số học vẫn có nhiều điểm
không thể dùng luận lý xác định đúng hay sai. Người ta cũng
không thể chứng minh một hệ thống mạch lạc và không tương
phản dựa trên những công lý (những điều đề nghị ban đầu được
chấp nhận mà không cần chứng minh). Theo Gödel
người ta nên ra khỏi hệ thống và cũng phải đặt ra những công
lý phụ để giải quyết vấn đề. Sự chính xác của toán học được
phép nghi ngờ. Trong tinh thần đó không những mục tiêu của
khoa học cần xác định lại, mà chỉ
những phương tiện khảo cứu
cũng luôn được kiểm chứng. Vấn đề được đặt ra ở cuối chương
để thảo luận là những kiến thức thu
thập được đến từ những kinh nghiệm suy niệm sẽ không có tính
phố quát, bởi vì nó là
thuần túy cá nhân vả cũng không kiểm nghiệm đươc. Tây phương
thường có thành kiến về kiến thức đến đến từ suy niệm này và
cho rằng tinh thần này không là một dụng cụ đáng hãnh diện
và những kinh nghiệm này cũng không bổ ích. Thực ra kinh
nghiệm nội tại là một điêù không thể phủ nhận được. Sự tu
tập giúp cho người ta chuyển hoá được con người với nhiều
đức tính tốt như: vị tha, khoan dung, kham nhẩn, thanh thản,
buông bò mọi ràng buộc và tăng thêm nghị lực. Kết quả này có
đạt đươc hay không là do khả năng và lòng trì chí của từng
cá nhân. Về lâu dài người ta mới có thể đánh giá kết quả
những kinh nghiệm này một cách khách quan hơn.
Chương 17
tiếp tục tìm hiểu về thế giới qua sự tương quan
giữa nhà nghiên cứu khoa học và đối
tượng nghiên cứú. Những định kiến siêu hình của nhà khoa học
có gây ảnh hưởng đến viễn kiến khoa học hay không và người
ta có thể hiểu được thực tại với một kiến thức tuyệt đối hay
không, đó là câu hỏi chính. Trong đó hai phương cách thu
thập kiến thức của Khoa học và Tôn giáo được nêu lên: nhà
khoa học thì nghiên cứu thế giới ngoại quan trong khi người
tu học phân tích hiện tượng bằng suy tưởng hướng nội. Vấn đề
không thể quên được nhà khoa học cũng là một con người với
tính chủ quan và với những định kiến. Không phải ai thấy
được hình ảnh của sự vật thì người ta có thể có khả năng giải
thích được mà còn cần đến trí tường tượng và khả năng chuyên
môn. Nhà nghiên cứu tây phương thường có khuynh hướng đưa ra
trước một giả thuyết là có một chân lý vững chắc đằng sau
những giá trị biểu kiến đẽ làm việc. Họ luôn luôn có một mục
tiêu xác định , một gía trị để theo đuổi và kiến thức về vấn
đề đặt ra, nhờ đó mà họ có thể soạn lọc những điều cần thiết
cho công việc. Trong khi đó nhà nghiên cứu Ðông phương nhờ
thấm nhuần văn hoá Ðông phương nên có một phương cách khác
hơn. Họ đặt chân lý trong một thế giới vô thủy vô chung và
tìm ra mối quan hệ nhân quả và tương thuộc trong thế giới
hiện tượng. Những kinh nghiệm của Enstein, Darwin, Harson và
Newton được đưa ra. Việc quan sát ánh sáng bằng mắt thường
và viễn vọng kính được diễn giải và đưa tới kết luận là
chính sự quan sát giúp người ta đạt được ý thức vấn đề và
giải thích nó theo quan sát của mình. Làm thế nào người ta
có thể đạt được một thực tại khoa học, câu hỏi này được giải
thích theo trường phái duy thực (Réalisme scientifique) và
được Wallace tóm tắt như sau: Ta phải chấp nhận một số
tiền đề sau đây để tìm hiểu khoa học
1/ Thế giới vật chất hiện hữu độc lập với
kinh nghiệm con ngưới.
2/ Thế giới này có thể đạt được bằng ý niệm của con ngưới
(bằng toán học hay các khoa học khác).
3/ Trong muôn nghìn phương cách của hệ thống các ý niệm
nhằm mô tả các hiện tượng quan sát thì chỉ có một cách duy
nhất là đúng với thực tế.
4/ Khoa học phải khám phá được lý thuyết duy nhất được
cho là chân lý này.
5/ Nhà khoa học sẽ không thiếu được phương cách để
nhận ra lý thuyết này.
Trường phái duy thực vẫn có nhiều hạn
chế mà Phật giáo có thể bổ sung được. Theo Phật Giáo thì thế
giới hiện tượng luôn luôn biến đổi qua thời gian và có mối
quan hệ với ý thức con người hơn là một thực tại độc lập.
Ngoài ra không thể nào nhận chân ra một thực tại tuyệt đối,
bản chất tối hậu của hiện tượng chỉ là một khía cạnh trong
thể liên hợp của thế giới, không có sự cách biệt giữa
nhà nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu, cả hai bổ sung cho
nhau. Theo Phật Giáo, thực tại tối hậu vượt qua mọi hiện
tượng thông thường như hình dạng, khuôn khổ và sức nặng
v.v.. mà khoa học tìm ra.
Chương 18 nêu lên vấn đề thẩm mỹ trong Khoa học và Phật
học. Câu hỏi đặt ra là có một ý niệm thẩm mỹ trong nghiên
cứu khoa học và trong Phật giáo không. Khi nói tới hoạt động
khoa học, người ta liên tưởng đến
những gì khô khan, lạnh lùng, thuần lý dĩ nhiên thiếu
cảm xúc và thẩm mỹ. Thật ra trong việc quan sát hiện tượng
thiên nhiên và đề xướng lý thuyết có một mối quan hệ với
thẩm mỹ. Trong nét đẹp cuả các hiện tượng thiên nhiên và nét
đẹp trừu tượng trong lý thuyết khoa học có 3 đặc điểm chính:
cần thiết, đơn giản và chân lý. Những đặc điểm này được tìm
thấy qua các kinh nghiệm của Newton, Copernic và Einstein.
Theo Phật giáo thì ý niệm về thẩm mỹ bắt nguồn từ những bản
chất sâu xa trong con ngườì. Nói một cách đơn giản nhất thì
nét đẹp là những gì đem đến cho chúng ta một cảm giác viên
mãn, và tuỳ theo trường hợp cũng có thể gọi là hạnh phúc. Dĩ
nhiên nét đẹp cũng có những mức độ khác nhau, tùy thuộc vào
sự viên mãn. Có thể gọi là một nét đẹp tương đối khi nó đem
lại cho ta những thỏa mãn
nhất thời, trong khi một nét đẹp tuyệt đối đem lại cho chúng
ta một hạnh phúc vĩnh cửu. Một nét đẹp tâm linh được thể
hiện rõ nét qua việc chiêm ngưỡng dung mạo Ðức Phật. Nhìn
Ngài sẽ gợi lên trong ta một hạnh phúc về sự Giác ngộ và khả
năng có thể đạt đến sự tỉnh thức này. Dĩ nhiên sự cảm
nhận hạnh phúc này tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh trình độ của
từng cá nhân cũng như xã hội. Khi chúng ta sống càng hoà
điệu với bản chất sâu xa của mình, thì chúng ta càng khám
phá ra những nét đẹp nội tại trong chúng ta. Một nét đẹp tối hậu
chỉ đạt được khi nào chúng ta đã sống trong Phật tánh và đạt
được Giác ngộ.
Chương 19 chương cuối cùng của cuốn sách, nêu lên vấn đề
hành động theo Phật giáo. Tây phương thường cho là sự hành
thiền là một biểu hiện tiêu cực, trốn chạy cuộc đời và làm
sao đem lối sống từ trầm tư suy niệm này đến tích cực hơn.
Phương châm của người học Phật là hãy tự chuyển hoá mình
trước khi cải thiện cuộc đời, hạnh phúc cuộc đời đến từ trái
tim vị tha và bất hạnh đến từ trái tim vị kỷ, nên dẹp bỏ mọi
vị kỷ cá nhân, nó là thần được làm giảm bớt khổ đau. Nhưng
từ bi suông mà không hành động chỉ là đạo đức giả. Hạnh phúc
của từng cá nhân đều có mối quan hệ với người khác và cũng
khộng thể xây đắp hạnh phúc cá nhân mình trên sự bất hạnh
của kẻ khác. Muốn thực hiện điều này dĩ nhiên đây là một sự
nỗ lực lâu dài, có bước chuẩn bị,
hành động trong ngắn hạn và trong trường kỳ. Phương cách có
vẻ quá lý tưởng này được đưa ra thảo luận.
Những câu hỏi
được đặt ra là làm sao chờ đợi sự chuyển
hóa trong trường hợp bạo tàn của Hitler, Stalin và Polpote.
Bất
bạo động có còn là một giải pháp
chính trị thích hợp cho trường hợp
Tây tạng nữa không;
ngoài sự ngây thơ, yếu đuối và cả
những tính toán kinh tế của các nhà
lãnh đạo tây phương trước thị trường Trung hoa, thì những nỗ
lực giải quyết vấn đề tù cải tạo tập trung và việc mưu tìm
một giải pháp cho Tây tạng cũng được
hai tác giả thảo luận.Trở lại vấn đề hành động trong
cuộc đời thì suy niệm có một giá trị đặc biệt. Nó giúp cho
người tu
tập tìm thấy một sự bình an trong tâm hồn đồng thời mở liên
hệ đến thế giới chung quanh. Từ nhận thức này mỗi người
sẽ có một thế giới quan khác và sẽ giúp tìm ra một
phương thức hành động thích hợp với hoàn cảnh cá nhân mình.
Ý kiến của người đọc:
Ðây là một tác phẩm quan trọng chứa đựng
nhiều vấn đề mà người đọc khộng thể nào đi sâu vào chi tiết trong khuôn khổ
cùa một bài giớí thiệu sách, nên chỉ xin được tóm lược trong
những ý chính như sau:
Trước đây đã có những tác phẩm đề cập đề vấn đề này,
nhưng tác phẩm trình bày ở đây là một công trình đầu tiên
quy mô và nghiêm túc nhằm đối chiếu những thành tưụ khoa học
hiện đại với những luận điểm liên hệ theo Phật giáo. Qua 19
chương sách hai tác giả đã cho thấy một kiến thức uyên bác
về vấn đề chuyên môn và khả năng giải thích. Bằng một lối
văn trong sáng hai tác giả đã diễn đạt thành công những ý
niệm thật phức tạp, giúp cho độc giả không có kiến thức
chuyên môn có thể theo dõi được vấn đề. Phần chú thích thuật
ngữ Phật giáo và Khoa học giúp dễ
hiểu những ý niệm cơ bản. Phần trích dẫn
tài liệu có thể giúp người đọc có nguồn tài liệu tra cứu
thêm. Với hình thức thảo luận và đối chiếu làm cho vấn đề
sống động và sáng tỏ hơn.
Qua nội dung đề cập thì hai tác giả đưa ra nhiều điểm
tương đồng và bổ sung giữa Khoa học
và Phật giáo hơn là tương phản.
Ðể đi tìm một giới hạn đạo đức cho việc nghiên cứu khoa
học, đặt biệt là việc lai tạo vô tính đang được bàn cãi tại
các nươc tiền tiến và hiện vẫn chưa chấm dứt. Nếu việc
nghiên cứu này chỉ giới hạn trong phạm vi trị liệu y khoa
thì sẽ được dễ dàng chấp nhận hơn. Ðó cũng là ý kiến phù hợp
với quan điểm Phật giáo, khi công trình này nhằm làm vơi đi
nổi khổ của con người. Nhưng vấn đề ở đây không thuần túy
trị liệu mà phưc tạp hơn nhiều. Nỗi
đau khổ của con người là một ý niệm tôn giáo hơn là định
chuẩn khoa học (kể cả luật học). Do đó khó lòng thuyết phục
dùng nó làm một định hưóng cho tương lai.
Trị liệu và lạm dụng trị liệu vào mục tiêu khác là
một đề tài quen thuộc mà chưa ai giải quyết được. Về phía Phật giáo thì đến nay vẫn
chưa có một công trình nghiêm túc nào để soi sáng vấn đề
này.
Thực ra Einstein khộng cảm nhận luồng tư tưởng phật giáo
trực tiếp. Hai hai triết gia Schopenhauer và Spinoza đã ảnh
hưởng sâu đậm vào thế giới quan của Einstein. Tư tưởng phật
giáo bàng bạc trong các tác phẩm của Schopenhauer và đặc
biệt là Substanz theorie của Spinoza
là một một điều không thể phủ nhận và cũng khởi điểm suy tư
của Einstein. Một điều đáng tiếc là luận đề của Spinoza
khộng được đề ra thảo luận.
Nghi ngờ về về khả năng chính xác tuyệt đối của toán học
không phải là một khám phá cuả Gödel,
thật ra trước đó Georg Cantor (1845-1918)
với luận thuyết Mengenlehre đã đặt thành vấn đề gây nhiều
ảnh hưởng sâu xa cho hậu bán thế kỷ XIX. Sự tương phản trong
toán học tạo nên một cuộc khủng hoảng về nền tảng của ngành
này, khiến nhiều trường phái toán học
ra đời nhằm cố đưa ra những giái thich mớ tiêu chuẩn hoá cho
toán hoc. Ðó là các trường phái Logizismus (J. G. Frege, B.
Russel, A. N. Wheitehead), Institutionismus (L.E.J.
Brouwer) và Formalismus ( D. Hilbert, H. Weyl). Cho đến ngày
nay vấn đề cũng chưa được giải đáp
thỏa đáng.
Triết lý về tánh không và vấn đề phân
biệt chân lý tuyệt đối và tương đối là tư tường nền tảng của
Phật giáo đã có mặt trong suốt cuộc thảo luận. Ðộc giả tây phuơng với một
khả năng phân tích thuần lý sẽ khó khăn vì tính cách hư
ảo sắc không đươc diễn đạt qua những
ẩn dụ đầy thi vị và màu sắc của Á Ðông. Thiết tưởng trọng đề
này cần đặt lại trong đốí chiếu tương phản với chủ nghiã Hư
vô (Nihilismus) của Nietzsche và đặc biệt là Thuyết hiện
sinh vô thần (Existentialistische
Atheismus) của J. P. Sartre, thì sẽ đạt kết quả cao hơn.
Ngày nay nhu cầu tìm hiểu về Phật giáo càng ngày càng
tăng lên, đặt biệt là tại Âu châu. Tác phẩm giá trị này là
một đáp ứng kịp thời cho các độc giả, mà điển hình là nó
được liệt vào hạng thứ nhì trong loại sách bán chạy nhất
(best-seller) trong năm qua tại Pháp và hiện nay đã được
dịch ra 10 ngôn ngữ trên thế giới (2) Ứơc mong sao trong tương
lai một bản dịch Việt ngữ cũng sẽ ra
đời nhằm giúp độc giả người Việt có cơ hội theo dõi
vấn đề quan trọng này.
Ðỗ Kim Thêm
E-mail: kimthem_do@hotmail.com
Ðã đăng trên Tập San Viên Giác Tây Ðức Số 126 Xuân Nhâm Ngọ
2002
=============
(1) Những tác
phầm của Gs Trịnh Xuân Thuận: Giai
Ðiệu Bí ẩn (La mélodie secrète,
1991), Hỗn độn và Hài hòa (Le Chaos et l'Harmonie,
2000), Số mệnh của Vũ Trụ (Le
destin de l'Univers),
Tu sĩ và triết gia (Le
moine et le philosophe).
Nguồn gốc - Nhớ thuở đầu tiên (Origines - La nostalgie des
commencements, 2003). Trịnh Xuân Thuận, nhà vật lý thiên thể (Trinh xuan Thuan un astrophysicien). Viết chung với Matthieu Ricard: Vô tận
trong lòng bàn tay ( L'Infini dans la paume de la main, 2000),
L'arpenteur du cosmos viết chung với Edmond Blattchen
Hầu
hết mọi tác phẩm của Trịnh Xuân Thuận đều được Phạm Văn Thiều dịch ra tiếng Việt
(2) Hiện nay, năm 2004, sách
của ông đã dịch ra mười lăm thứ tiếng
Vietsciences chú thích |