|
 |
|
 |
|
Greene, Brian
greene@phys.columbia.edu
Telephone:
(212)854-3349 (212)854-4347
Room 910 (Pupin Hall)
Ph.D. Date: 1987
University: Oxford
University
Area of study: String
Theory, Quantum Gravity
|
|
Brian Greene đã kể cho chúng ta một
cách rất sinh động và tài tình về sự ra đời và phát triển của lý
thuyết siêu dây. Với một văn phong sáng sủa và truyền cảm, ông đã
chỉ cho chúng ta thấy lý thuyết này đã mở đường để dung hoà cơ lượng
tử với thuyết tương đối như thế nào. |
|
|
|
Lời giới thiệu
Hai lý thuyết vĩ đại tạo nên những
trụ cột của vật lý hiện đại là cơ học lượng tử và thuyết tương đối
đã ra đời gần như đồng thời vào đầu thế kỷ XX.
Cơ
học lượng tử, lý
thuyết về những cái vô cùng bé, đã được xây dựng trong những năm
1910-1930 bởi một nhúm
những con người lãng mạn như Max Planck, Niels Bohr, Werner
Heisenberg, Edwin Schrödinger, Wolfgang Pauli
và Louis de Broglie, đã giải thích được một cách tuyệt vời hành
trạng của các hạt sơ cấp và các nguyên tử cũng như các tương tác của
chúng với ánh sáng.
Chính nhờ cơ học lượng tử mà chúng
ta có được những công cụ kỳ diệu như máy thu thanh, TV, các bộ dàn
stereo, điện thoại, máy fax, máy tính và Internet, những công cụ làm
cho cuộc sống của chúng ta trở nên thú vị hơn và liên kết chúng ta
với nhau.
Thuyết tương đối là lý thuyết của
những cái vô cùng lớn: nó được sinh ra từ trực giác thiên tài của
một “chuyên viên kỹ thuật hạng ba” chẳng mấy ai biết tới có tên là
Albert Einstein thuộc phòng đăng ký sáng chế phát minh ở Bern (Thuỵ
Sĩ) và lý thuyết này đã đưa ông lên tột đỉnh vinh quang.
Với thuyết tương đối hẹp được công
bố năm 1905, Einstein đã thống nhất được thời gian và không gian nhờ
xem xét lại tính phổ quát của chúng: thời gian của một nhà du hành
với vận tốc không đổi gần vận tốc ánh sáng sẽ bị giãn ra trong khi
đó không gian lại bị co lại so với thời gian và không gian của một
người nào đó đứng yên. Đồng thời, Einstein cũng thiết lập được sự
tương đương giữa khối lượng và năng lượng, do đó cho phép ta giải
thích được lò lửa của các ngôi sao: chúng đã biến một phần khối
lượng của chúng thành năng lượng và, than ôi, nó cũng dẫn tới những
quả bom nguyên tử đã gây ra chết chóc và tàn phá hai thành phố Nhật
Bản Hiroshima và Nagasaki. Với thuyết tương đối rộng được công bố
năm 1915, Einstein đã chứng minh được rằng một trường hấp dẫn mạnh,
như trường ở gần một lỗ đen (lỗ thành, chẳng hạn bởi sự co lại của
một ngôi sao đã dùng hết năng lượng dự trữ của nó) không chỉ làm cho
thời gian giãn ra mà còn làm cong cả không gian nữa. Đồng thời, các
phương trình của thuyết tương đối rộng cũng nói rằng Vũ trụ hoặc là
đang giãn nở hoặc là đang co lại, chứ không thể là tĩnh tại, cũng
hệt như một quả bóng được tung lên không hoặc là bay lên cao hoặc là
rơi xuống chứ không thể treo lơ lửng trong không khí được. Vì ở thời
đó người ta nghĩ rằng Vũ trụ là tĩnh, nên Einstein đã buộc phải đưa
vào một lực phản hấp dẫn để bù trừ cho lực hấp dẫn hút của Vũ trụ
nhằm làm cho nó trở nên dừng. Sau này, vào năm 1929, khi nhà thiên
văn Mỹ Edwin Hubble phát hiện ra Vũ trụ đang giãn nở, Einstein đã
phải tuyên bố rằng “đó là sai lầm lớn nhất của cuộc đời ông”.
Hai lý thuyết vĩ đại đó đã được
nhiều lần kiểm chứng qua các phép đo và quan sát, đồng thời chúng
hoạt động rất tốt chừng nào chúng ở tách rời và giới hạn trong địa
hạt riêng của mình. Cơ học lượng tử mô tả chính xác hành trạng của
các nguyên tử và ánh sáng khi mà hai lực hạt nhân mạnh và yếu cùng
với lực điện từ dẫn dắt vũ điệu còn lực hấp dẫn thì nhỏ không đáng
kể. Thuyết tương đối giải thích rất tốt những chất của hấp dẫn ở
thang cực lớn của Vũ trụ, của các thiên hà, các ngôi sao và các hành
tinh, khi mà lực này chiếm ưu thế và các lực hạt nhân cũng như lực
điện từ không còn đóng vai trò hàng đầu nữa. Nhưng vật lý học đã
biết lại hụt hơi và mất hết phương tiện khi lực hấp dẫn, vốn nhỏ
không đáng kể ở thang hội nguyên tử, lại trở nên đáng kể như ba lực
kia. Mà điều này lại chính xác là cái đã xảy ra ở những khoảnh khắc
đầu tiên của Vũ trụ.
Ngày hôm nay, người ta
nghĩ rằng khoảng 15 tỷ năm trước, một vụ nổ cực mạnh – tức Big Bang
- đã sinh ra Vũ trụ, không gian và thời gian. Từ đó, đã diễn ra một
quá trình thăng tiến, không một phút nào ngơi, trên con đường phức
tạp hóa. Xuất phát từ một chân không nội nguyên tử, Vũ trụ đang giãn
nở đã không ngừng phình to và nở ra. Các quark và electron,
các proton và neutron, các nguyên tử, các
ngôi sao và các thiên hà kế tiếp nhau được tạo thành. Vậy là một tấm
thảm vũ trụ bao la đã được dệt nên, bao gồm tới hàng trăm tỷ thiên
hà, mỗi thiên hà lại bao gồm hàng trăm tỷ ngôi sao. Trong vùng biên
của một trong số những thiên hà đó và có tên là Ngân Hà, trên một
hành tinh ở gần ngôi sao có tên là Mặt Trời, xuất hiện con người có
khả năng biết kinh ngạc trước vẻ đẹp và sự hài hòa của Vũ trụ, có ý
thức và có trí tuệ cho phép nó có thể đặt ra những câu hỏi về Vũ trụ
đã sinh ra nó. Như vậy là cái vô cùng bé đã sinh nở ra cái vô cùng
lớn. Để hiểu được nguồn gốc của Vũ trụ và do đó cả nguồn gốc
của riêng chúng ta nữa, chúng ta cần có một lý thuyết vật lý có khả
năng thống nhất cơ học lượng tử với thuyết tương đối và mô tả được
tình huống trong đó cả bốn lực cơ bản đều bình đẳng với nhau.
Nhưng nhiệm vụ thống nhất đó không
phải dễ dàng gì, bởi lẽ có sự không tương thích cơ bản giữa cơ học
lượng tử và thuyết tương đối rộng trong vấn đề liên quan tới hình
học của không gian, điều mà Brian Greene đã mô tả rất hay. Theo
thuyết tương đối, không gian ở thang rất lớn, nơi triển khai các
thiên hà và các ngôi sao, là trơn và hoàn toàn không có những chỗ
sần sùi và gai góc. Trái lại, không gian ở thang nội nguyên tử của
cơ học lượng tử lại không trơn tru mà trở thành một loại mút xốp
không có hình hạng xác định, đầy rẫy những lượn sóng và những điểm
kỳ dị, xuất hiện rồi lại biến mất trong những khoảng thời gian vô
cùng nhỏ, luôn luôn chuyển động và luôn luôn thay đổi. Độ cong và
tôpô của thứ mút lượng tử này là hỗn độn và chỉ có thể mô tả được
thông qua xác suất. Một bức tranh thuộc trường phái họa điểm của
Seurat, khi mà ta xem gần, sẽ thấy nó được phân tách thành hàng ngàn
những điểm màu sặc sỡ, tương tự như vậy, ở thang nội nguyên tử,
không gian được phân hóa thành các thăng giáng và trở nên có tính
chất ngẫu nhiên. Sự không tương thích giữa hai lý thuyết này khiến
cho chúng ta không thể ngoại suy những định luật của thuyết tương
đối tới tận điểm “thời gian zero” của Vũ trụ, tức là thời điểm sáng
tạo ra không gian và thời gian. Những định luật của thuyết tương đối
sẽ hoàn toàn mất chỗ đứng ở thời điểm vô cùng bé 10-41 giây sau Big
Bang, còn được gọi là “thời gian Planck”. Ở thời điểm đó, Vũ trụ chỉ
có đường kính bằng 10-33cm (được gọi là “chiều dài Planck”), tức là
nhỏ hơn một nguyên tử cả 10 triệu tỷ tỷ lần. Như vậy là bức tường
Planck đã được dựng lên để chắn ngang con đường tiến tới sự nhận
thức nguồn gốc của Vũ trụ.
Được đặt trước sự thách thức, các
nhà vật lý đã lao tâm khổ tứ nhằm vượt qua bức tường chắn đó. Họ đã
nỗ lực phi thường để tìm kiếm cái mà người ta gọi một cách hơi đại
ngôn là “lý thuyết về tất cả”, một lý thuyết thống nhất bốn lực của
tự nhiên thành một “siêu lực” duy nhất. Năm 1967, nhà vật lý người
Mỹ Steven Weinberg và nhà vật lý người Pakistan Abdus
Salam đã thống nhất được lực điện từ và lực hạt nhân yếu thành
một lực điện-yếu. Các lý thuyết “thống nhất lớn” dường như đã có thể
thống nhất được lực hạt nhân mạnh và lực điện-yếu. Trong một thời
gian rất dài, lực hấp dẫn vẫn ương bướng từ chối mọi sự hợp nhất với
các lực khác. Cho tới khi xuất hiện lý thuyết dây, “nữ nhân
vật” của cuốn sách này.
Theo
lý thuyết dây, các hạt không còn là
những phần tử cơ bản nữa mà chỉ là những dao động của một dây vô
cùng nhỏ có chiều dài cỡ 10-33cm, tức chiều dài
Planck. Các hạt của vật chất và ánh sáng chuyển
tải các lực (chẳng hạn như photon là hạt truyền lực điện từ) liên
kết các phần tử của thế giới với nhau và làm cho nó biến đổi. Tất cả
những điều đó chỉ là các biểu hiện khác nhau của các dây. Nhưng một
điều kỳ diệu là, hạt graviton – hạt truyền lực hấp dẫn – cũng
ở trong số những biểu hiện đó. Như vậy, sự thống nhất giữa lực hấp
dẫn và ba lực còn lại đã tỏ ra là có thể thực hiện được. Hoàn toàn
giống như sự dao động của các dây đàn violon tạo ra những âm thanh
khác nhau cùng với các họa âm của chúng, âm thanh và các họa âm của
các siêu dây cũng được thể hiện trong tự nhiên và đối với các dụng
cụ đo của chúng ta, dưới dạng các hạt photon, proton, nơton,
electron, graviton v.v... Những siêu dây rung động ở khắp nơi xung
quanh chúng ta và thế giới chỉ là một bản giao hưởng bát ngát. Theo
một phương án của lý thuyết, các siêu dây dao động trong một vũ trụ
có chín chiều không gian. Trong một phương án khác, chúng dao động
trong một vũ trụ hai mươi lăm chiều. Vì chúng ta chỉ cảm nhận được
ba chiều không gian, nên cần phải giả thiết rằng những chiều bổ sung
đó được cuộn lại cho đến khi nhỏ tới mức chúng ta không còn cảm nhận
được nữa.
Brian Greene đã kể cho
chúng ta một cách rất sinh động và tài năng về sự ra đời và phát
triển của lý thuyết siêu dây. Với một văn phong sáng sủa và truyền
cảm, ông đã chỉ cho chúng ta thấy lý thuyết này đã mở đường để dung
hoà cơ lượng tử với thuyết tương đối như thế nào. Ông cũng
đã mô tả cho chúng ta thấy không chỉ những cuộc cách mạng về khái
niệm đã làm nảy sinh ra lý thuyết này mà còn cả những con đường sai
lầm và những ngõ cụt, nghĩa là cho chúng ta thấy con đường phát
triển quanh co của khoa học. Vốn là người trực tiếp tham gia phát
triển lý thuyết dây, Brian Greene xứng đáng là người hướng dẫn lý
tưởng để dẫn dắt chúng ta lần theo những con đường khúc khuỷu của đề
tài này. Mặc dù, hết sức nhiệt thành với lý thuyết dây, nhưng Greene
cũng không hề che dấu những đám mây đen làm u ám phong cảnh. Lý
thuyết dây còn lâu mới có thể hoàn chỉnh và con đường cần phải đi để
tới được đích cuối cùng sẽ còn rất dài và cực kỳ gian khó. Mặt khác,
nó còn được bao bọc trong một bức màn toán học dầy đặc và trừu tượng
tới mức thách thức những nhà vật lý tài năng nhất hiện thời. Cuối
cùng, lý thuyết này còn chưa bao giờ được kiểm chứng bằng thực
nghiệm, bởi vì những hiện tượng mà nó tiên đoán diễn ra ở những năng
lượng vượt quá xa năng lượng mà những máy gia tốc hạt hiện nay có
thể đạt được. Vậy là bản giao hưởng của các dây vẫn còn dang dở.
Liệu nó mãi mãi dang dở như thế hay không? Brian Greene trả lời là
không. Nhưng chỉ có tương lai mới nói được điều đó với chúng ta.
Trịnh Xuân Thuận
Paris, tháng 6 năm 2000.
|