[...] Tháng
9 năm 1973, trong thời gian đến thăm Matxcơva,
tôi đã thảo luận về các lỗ đen với
hai chuyên gia hàng đầu của Liên Xô là
Yakov Zedovich và Alexander Starobinsky. Họ
khẳng định với tôi rằng, theo nguyên lý
bất động của cơ học lượng tử thì các
lỗ đen quay cần phải sinh và phát ra các
hạt. Tôi tin cơ sở vật lý trong lý lẽ
của họ, nhưng... [...]
Trước năm 1970, nghiên
cứu của tôi về thuyết tương đối
rộng chủ yếu tập trung vào vấn đề
có tồn tại hay không kỳ dị vụ nổ
lớn. Tuy nhiên, vào một buổi tối tháng
11 năm đó, ngay sau khi con gái tôi, cháu
Lucy, ra đời, tôi bắt đầu suy nghĩ
về những lỗ đen khi tôi trên đường
về phòng ngủ. Vì sự tàn tật của mình,
tôi di chuyển rất chậm, nên có đủ
thời gian để suy nghĩ. Vào thời đó còn
chưa có một định nghĩa chính xác cho
biết những điểm nào của không-thời
gian là nằm trong, và những điểm nào là
nằm ngoài lỗ đen. Tôi đã thảo luận
với Roger Penrose ý tưởng định nghĩa
lỗ đen như một tập hợp mà các sự
cố không thể thoát ra khỏi nó để đến
những khoảng cách lớn, và bây
 |
Hình 7.1: Chân trời
sự cố được tạo ra bởi đường
đi trong không-thời gian của các
tia sáng vừa chớm không thoát ra
được khỏi lỗ đen, và vĩnh
viễn chơi vơi ở mép của nó. |
giờ nó đã trở thành một định nghĩa
được mọi người chấp nhận. Điều này
có nghĩa là biên giới của lỗ đen, cũng
gọi là chân trời sự cố, được tạo
bởi đường đi trong không-thời gian
của các tia sáng vừa chớm không thoát
ra được khỏi lỗ đen, và vĩnh viễn
chơi vơi ở mép của nó (hình 7.1). Nó cũng
gần giống như trò chơi chạy trốn
cảnh sát, chỉ hơi vượt trước được
một bước nhưng còn chưa thể bứt ra
được.
Bất
chợt tôi nhận ra rằng đường đi của các
tia sáng ấy không bao giờ có thể tiến
tới gần nhau. Vì nếu không thế, cuối cùng
chúng cũng sẽ phải chập vào nhau.
Điều này cũng giống như đón
gặp một người bạn đang phải chạy
trốn cảnh sát ở phía ngược lại -
rốt cuộc cả hai sẽ đều bị bắt! (Hay
trong trường hợp của chúng ta cả hai tia
sáng sẽ đều bị rơi vào lỗ đen). Nhưng
nếu cả hai tia sáng đó đều bị nuốt
bởi lỗ đen, thì chúng không thể ở biên
giới của lỗ đen được. Như vậy đường
đi của các tia sáng trong chân trời sự
cố phải luôn luôn song song hoặc đi ra xa
nhau. Một cách khác để thấy điều này
là chân trời sự cố - biên giới của
lỗ đen - giống như mép của một cái bóng
- bóng của số phận treo lơ lửng. Nếu
bạn nhìn cái bóng tạo bởi một nguồn sáng
ở rất xa, chẳng hạn như mặt trời,
bạn sẽ thấy rằng các tia sáng ở mép
của nó không hề tiến tới gần nhau.
Nếu các tia sáng tạo nên
chân trời sự cố - biên giới của lỗ
đen - không bao giờ có thể tiến tới
gần nhau, thì diện tích của chân trời
sự cố có thể giữ nguyên không đổi
hoặc tăng theo thời gian chứ không bao
giờ giảm, vì nếu không, ít nhất sẽ
có một số tia sáng trên biên phải
tiến gần tới nhau. Thực tế thì diện
tích sẽ tăng bất cứ khi nào có vật
chất hoặc bức xạ rơi vào lỗ đen (hình7.2).
Hoặc nếu có hai lỗ
 |
- Hình 7.2 (trái):
Diện tích tăng khi vật chất rơi
vào lỗ đen.
- Hình 7.3 (phải): Diện tích của
chân trời sự cố của lỗ đen
mới tạo thành sẽ lớn hơn
hoặc bằng tổng diện tích của
hai hố đen riêng lẻ ban đầu. |
đen va chạm rồi xâm nhập vào nhau tạo
thành một lỗ đen duy nhất, thì diện tích
chân trời sự cố của lỗ đen tạo thành
sẽ lớn hơn hoặc bằng tổng diện tích
chân rời sự cố của hai lỗ đen riêng
lẻ ban đầu (hình 7.3). Tính không giảm
đó của diện tích chân trời sự cố
đã đặt một hạn chế quan trọng đối
với hành vi khả dĩ của các lỗ đen. Tôi
đã xúc động về phát minh của mình
tới mức đêm đó tôi không sao chợp
mắt được. Ngay hôm sau tôi gọi điện
cho Roger Penrose. Ông đã đồng ý với tôi.
Thực tế, tôi nghĩ rằng chính ông cũng
đã ý thức được tính chất đó của
diện tích chân trời sự cố. Tuy nhiên,
ông đã dùng một định nghĩa hơi khác
của lỗ đen. Ông không thấy được
rằng biên giới của các lỗ đen theo
hai định nghĩa đó thực chất là như
nhau, và do đó, diện tích của chúng cũng
như nhau với điều kiện lỗ đen đã an
bài ở trạng thái không thay đổi theo
thời gian.
Tính
chất không giảm của diện tích lỗ đen
rất giống với tính chất của một đại
lượng vật lý có tên là entropy - đại lượng
là thước đo mức độ mất trật tự
của một hệ thống. Kinh
nghiệm hàng ngày cũng cho chúng ta biết
rằng nếu để các vật tự do thì mức
độ mất trật tự sẽ có xu hướng tăng.
(Chỉ cần ngừng sửa chữa xung quanh là
bạn sẽ thấy điều đó ngay!). Người ta
có thể tạo ra trật tự từ sự mất
trật tự (ví dụ như bạn có thể quét sơn
lại nhà), nhưng điều đó yêu cầu phải
tốn sức lực hoặc năng lượng, và như
vậy có nghĩa là sẽ làm giảm lượng năng
lượng của trật tự sẵn có.
Phát biểu chính xác ý tưởng
này chính là Định luật II của nhiệt động
học. Định luật đó phát biểu rằng:
entropy của một hệ cô lập luôn luôn tăng,
và rằng khi hai hệ hợp lại với nhau làm
một thì entropy của hệ hợp thành sẽ
lớn hơn tổng entropy của hai hệ riêng
rẽ. Ví dụ, xét một hệ phân tử khí đựng
trong một cái hộp. Có thể xem những phân
tử như những quả cầu billard nhỏ, liên
tục va chạm với nhau và với thành hộp.
Nhiệt độ của khí càng cao thì các phân
tử chuyển động càng nhanh, và chúng va
chạm càng thường xuyên và càng mạnh
với thành hộp, và áp suất chúng đè lên
thành hộp càng lớn. Giả sử rằng ban đầu
tất cả các phân tử bị giam ở nửa trái
của hộp bằng một vách ngăn. Nếu bỏ vách
ngăn đi, các phân tử sẽ có xu hướng tràn
ra chiếm cả hai nửa của hộp. Ở một
thời điểm nào đó sau đấy, do may rủi,
có thể tất cả các phân tử sẽ dồn
cả sang nửa phải hoặc trở lại nửa trái
của hộp, nhưng khả năng chắc chắn hơn
rất nhiều là chúng có số lượng gần
bằng nhau ở cả hai nửa hộp. Một
trạng thái kém trật tự hơn, hay nói cách
khác là mất trật tự hơn, trạng thái
ban đầu mà trong đó mọi phân tử chỉ
ở trong một nửa hộp. Do đó, người ta
nói rằng entropy của khí đã tăng lên. Tương
tự, giả sử rằng ta bắt đầu với hai
hộp, một hộp chứa các phân tử ôxy và
một hộp chứa các phân tử nitơ. Nếu người
ta ghép hai hộp với nhau và bỏ vách ngăn
đi thì các phân tử ôxy và nitơ sẽ bắt
đầu trộn lẫn vào nhau. Ở một thời điểm
nào đó sau đấy, trạng thái có xác
suất lớn nhất sẽ là sự trộn khá đều
các phân tử ôxy và nitơ trong cả hai
hộp. Trạng thái đó là kém trật tự hơn
trạng thái ban đầu của hai hộp riêng
rẽ.
Định luật thứ hai của
nhiệt dộng học có vị trí hơi khác so
với các định luật khoa học khác,
chẳng hạn như định luật hấp dẫn
của Newton, bởi vì nó không phải luôn luôn
đúng, mà chỉ đúng trong đại đa số các
trường hợp mà thôi. Xác suất để tất
cả các phân tử trong hộp đầu tiên
của chúng ta dồn cả về một nửa của
hộp ở thời điểm sau khi bỏ vách ngăn
chỉ bằng một phần nhiều triệu triệu,
nhưng nó vẫn có thể xảy ra. Tuy nhiên,
nếu có một lỗ đen ở cạnh thì định
luật đó dường như sẽ bị vi phạm khá
dễ dàng: chỉ cần ném một số vật
chất có lượng entropy lớn, như một
hộp khí chẳng hạn, vào lỗ đen. Khi đó
tổng số entropy của vật chất ở ngoài
lỗ đen sẽ giảm. Tất nhiên, người ta
vẫn còn có thể viện lý rằng entropy
tổng cộng, kể cả entropy trong lỗ đen
sẽ không giảm, nhưng vì không có cách gì
để nhìn vào lỗ đen, nên chúng ta không
thể thấy được vật chất trong đó
chứa bao nhiêu entropy. Khi này sẽ thật là
tuyệt vời nếu có một đặc tính nào đó
của lỗ đen, mà qua nó, người quan sát
ở bên ngoài có thể biết về entropy
của lỗ đen, và đặc tính này lại tăng
bất cứ khi nào có một lượng vật
chất mang entropy rơi vào lỗ đen. Sự phát
hiện vừa mô tả ở trên cho thấy rằng
diện tích của chân trời sự cố sẽ tăng
bất cứ khi nào có một lượng vật
chất rơi vào lỗ đen. Một nghiên cứu
sinh ở Princeton tên là Jacod Bekenstein đã
đưa ra giả thuyết rằng diện tích của
chân trời sự cố chính là thước đo
entropy của lỗ đen. Khi vật chất mang
entropy rơi vào lỗ đen, diện tích của chân
trời sự cố tăng, nên tổng entropy của
vật chất ngoài lỗ đen và diện tích chân
trời sự cố sẽ không khi nào giảm.
Giả thuyết này dường như
đã tránh cho định luật thứ hai nhiệt
động học không bị vi phạm trong hầu
hết mọi tình huống. Tuy nhiên, vẫn còn
một khe hở tai hại. Nếu lỗ đen có
entropy thì nó cũng sẽ phải có nhiệt độ.
Nhưng một vật có nhiệt độ thì sẽ
phải phát xạ với tốc độ nào đó.
Kinh nghiệm hàng ngày cũng cho thấy rằng
nếu người ta nung nóng một que cời trong
lửa thì nó sẽ nóng đỏ và bức xạ, nhưng
những vật ở nhiệt độ thấp cũng bức
xạ, chỉ có điều lượng bức xạ khá
nhỏ nên người ta thường không nhìn
thấy mà thôi. Bức xạ này đòi hỏi
phải có để tránh cho định luật thứ
hai khỏi bị vi phạm. Như vậy, các lỗ
đen cũng cần phải bức xạ. Nhưng theo chính
định nghĩa của nó thì lỗ đen là vật
được xem là không phát ra gì hết. Và do
đó, dường như diện tích của chân
trời sự cố không thể xem như entropy
của lỗ đen. Năm 1972 cùng với Bradon
Carte và một đồng nghiệp Mỹ Jim Bardeen,
tôi đã viết một bài báo trong đó chỉ
ra rằng mặc dù có nhiều điểm tương
tự giữa diện tích của chân trời sự
cố và entropy nhưng vẫn còn khó khăn đầy
tai hại đó. Tôi cũng phải thú nhận
rằng khi viết bài báo đó tôi đã bị thúc
đẩy một phần bởi sự bực tức đối
với Bekenstein, người mà tôi cảm thấy
đã lạm dụng phát hiện của tôi về
diện tích của chân trời sự cố. Tuy nhiên,
cuối cùng hóa ra anh ta về căn bản lại
là đúng, mặc dù ở một mức độ mà chính
anh ta cũng không ngờ.
Tháng 9 năm 1973, trong thời
gian đến thăm Matxcơva, tôi đã thảo
luận về các lỗ đen với hai chuyên gia hàng
đầu của Liên Xô là Yakov Zedovich và
Alexander Starobinsky.
Họ khẳng định với tôi rằng theo nguyên
lý bất động của cơ học lượng tử thì
các lỗ đen quay cần phải sinh và phát ra
các hạt.
Tôi tin cơ sở vật lý trong
lý lẽ của họ, nhưng tôi không thích phương
pháp toán học mà họ sử dụng để tính
toán sự phát xạ hạt. Do đó, tôi đã
bắt tay vào tìm tòi một cách xử lý toán
học tốt hơn mà tôi đã trình bày tại
seminar thông báo ở Oxford vào cuối tháng
11 năm 1973. Vào thời gian đó, tôi còn chưa
tiến hành tính toán để tìm ra sự phát
xạ là bao nhiêu. Tôi chờ đợi người ta
sẽ phát hiện được chính bức xạ từ
các lỗ đen quay mà Zedovich và Starobinsky
đã tiên đoán. Tuy nhiên, khi tính song tôi
vô cùng ngạc nhiên và băn khoăn thấy
rằng thậm chí cả các lỗ đen không quay
dường như cũng sinh và phát ra các hạt
với tốc độ đều. Thoạt tiên, tôi nghĩ
rằng đó là dấu hiệu cho biết một
trong những phép gần đúng mà tôi sử
dụng là không thỏa đáng. Tôi ngại
rằng nếu Bekenstein phát hiện ra điều đó,
anh ta sẽ dùng nó như một lý lẽ nữa để
củng cố ý tưởng của anh ta về entropy
của các lỗ đen, điều mà tôi vẫn còn
không thích. Tuy nhiên, càng suy nghĩ tôi càng
thấy những phép gần đúng đó thực sự
là đúng đắn. Nhưng điều đã thuyết
phục hẳn được tôi rằng sự phát xạ
là có thực là: phổ của các hạt bức
xạ giống hệt như phổ phát xạ của
vật nóng, và các lỗ đen phát ra các
hạt với tốc độ chính xác để không
vi phạm định luật thứ hai. Sau đó,
những tính toán đã được lặp đi lặp
lại dưới nhiều dạng khác nhau và bởi
những người khác. Tất cả họ đều
khẳng định rằng lỗ đen cần phải phát
ra các hạt và bức xạ hệt như nó là
một vật nóng với nhiệt độ chỉ phụ
thuộc vào khối lượng của nó: khối lượng
càng lớn thì nhiệt độ càng thấp.
Nhưng
làm sao các lỗ đen lại có thể phát ra các
hạt trong khi chúng ta biết được rằng
không có vật gì từ phía trong có thể
thoát ra khỏi chân trời sự cố?
Câu trả lời mà cơ học lượng tử nói
với chúng ta là: các hạt không phát ra
từ bên trong lỗ đen mà là từ không gian
“trống rỗng” ở ngay bên ngoài chân
trời sự cố của lỗ đen! Chúng ta có
thể hiểu điều này như sau: cái mà chúng
ta quen nghĩ là không gian “trống rỗng”
lại không thể hoàn toàn là trống rỗng,
bởi vì điều đó có nghĩa là tất cả các
trường như trường hấp dẫn và trường
điện từ sẽ cần phải chính xác bằng
0. Tuy nhiên, giá trị của trường và
tốc độ thay đổi của nó theo thời gian
cũng giống như vị trí và vận tốc của
hạt: nguyên lý bất định buộc rằng
nếu người ta biết một trong hai đại lượng
đó càng chính xác thì có thể biết về
đại lượng kia càng kém chính xác! Vì
vậy trong không gian trống rỗng, trường
không cố định ở giá trị chính xác
bằng 0, bởi vì nếu trái lại thì trường
sẽ có cả giá trị chính xác (bằng 0) và
tốc độ thay đổi cũng trị chính xác
(bằng 0). Cần phải có một lượng bất
định tối thiểu nào đó, hay người ta nói
rằng, có những thăng giáng lượng tử
trong giá trị của trường. Người ta có
thể xem những thăng giáng đó như một
cặp hạt ánh sáng hoặc hấp dẫn cùng
xuất hiện ở một thời điểm nào đó,
đi ra xa nhau rồi lại gặp lại và hủy
nhau. Những hạt này là những hạt ảo
giống như các hạt mang lực hấp dẫn
của mặt trời: không giống các hạt
thực, chúng không thể quan sát được
một cách trực tiếp bằng máy dò hạt.
Tuy nhiên, những hiệu ứng gián tiếp
của chúng, chẳng hạn những thay đổi
nhỏ về năng lượng của các quỹ đạo
electron trong nguyên tử, đều có thể đo
được và phù hợp với những tính toán
lý thuyết với một mức độ chính xác
rất cao. Nguyên lý bất định cũng tiên
đoán rằng, có cả những cặp hạt vật
chất như electron hoặc quark là ảo. Tuy
nhiên, trong trường hợp này một thành viên
của cặp là hạt, còn thành viên kia là
phản hạt (các phản hạt của ánh sáng và
hấp dẫn giống hệt như hạt).
Vì năng lượng không
thể sinh ra từ hư vô, nên một trong các
thành viên của cặp hạt/phản hạt sẽ
có năng lượng dương và thành viên kia
sẽ có năng lượng âm. Thành viên có năng
lượng âm buộc phải là hạt ảo có
thời gian sống ngắn, vì các hạt thực
luôn luôn có năng lượng dương trong các
tình huống thông thường. Do đó hạt
ảo này phải đi tìm thành viên cùng
cặp để hủy cùng với nó. Tuy nhiên,
một hạt thực ở gần một vật nặng
sẽ có năng lượng nhỏ hơn so với khi
nó ở xa, bởi vì khi đưa nó ra xa cần
phải tốn năng lượng để chống lại
lực hút hấp dẫn của vật đó. Thường
thường, năng lượng của hạt vẫn còn
là dương, nhưng trường hợp hấp dẫn
trong lỗ đen mạnh tới mức thậm chí
một hạt thực ở đó cũng có năng lượng
âm. Do đó, khi có
mặt lỗ đen, hạt ảo với năng lượng
âm khi rơi vào lỗ đen cũng có thể
trở thành hạt thực hoặc phản hạt
thực. Trong trường hợp đó, nó
không còn cần phải hủy với bạn cùng
cặp của nó nữa. Người bạn bị bỏ
rơi
 |
Hình 7.4: Hạt
ảo cũng có thể rơi vào
lỗ đen như một hạt thực hoặc
phản hạt thực. |
này cũng có thể rơi vào lỗ đen, hoặc
khi có năng lượng dương, nó cũng có
thể thoát ra ngoài vùng lân cận của
lỗ đen như một hạt thực hoặc phản
hạt thực (hình 7.4). Đối với người
quan sát ở xa thì dường như nó được
phát ra từ lỗ đen. Lỗ đen càng nhỏ
thì khoảng cách mà hạt có năng lượng
âm cần phải đi trước khi trở thành
hạt thực sẽ càng ngắn và vì vậy
tốc độ phát xạ và nhiệt độ biểu
kiến của lỗ đen càng lớn.
Năng lượng dương của
bức xạ đi ra sẽ được cân bằng bởi
dòng hạt năng lượng âm đi vào lỗ đen.
Theo phương trình Einstein E = mc2 (ở đây E
là năng lượng, m là khối lượng và c là
vận tốc độ sáng), năng lượng tỷ lệ
với khối lượng. Do đó, dòng năng lượng
âm đi vào lỗ đen sẽ giảm giảm khối lượng
của nó. Vì lỗ đen mất khối lượng nên
diện tích chân trời sự cố sẽ nhỏ đi,
nhưng sự giảm đó của entropy được bù
lại còn nhiều hơn bởi entropy của bức
xạ phát ra, vì vậy định luật thứ hai
sẽ không khi nào bị vi phạm.
Hơn nữa, khối lượng
của lỗ đen càng nhỏ thì nhiệt độ
của nó càng cao. Như vậy, vì lỗ đen
mất khối lượng nên nhiệt độ và tốc
độ bức xạ của nó tăng, dẫn tới nó
mất khối lượng còn nhanh hơn nữa. Điều
gì sẽ xảy ra khi khối lượng của lỗ
đen cuối cùng cũng trở nên cực kỳ
nhỏ hiện vẫn còn chưa rõ, nhưng sẽ
rất có lý khi chúng ta phỏng đoán rằng
nó sẽ hoàn toàn biến mất trong sự bùng
nổ bức xạ khổng lồ cuối cùng, tương
đương với sự bùng nổ của hàng triệu
quả bom H.
Phần II
[...] Ý
tưởng về bức xạ phát từ các lỗ đen
là một ví dụ đầu tiên về sự tiên đoán
phụ thuộc một cách căn bản vào cả hai
lý thuyết lớn của thế kỷ chúng ta:
thuyết tương đối rộng và cơ học lượng
tử. Nó đã gặp nhiều ý kiến phản đối
lúc đầu vì nó đảo lộn quan điểm
hiện thời “làm sao lỗ đen lại phát ra
cái gì đó?" [...]
Lỗ đen có khối lượng
lớn hơn khối lượng của mặt trời
một ít lần sẽ có nhiệt độ chỉ
khoảng một phần mười triệu độ trên
không độ tuyệt đối. Nó nhỏ hơn
nhiều so với nhiệt độ của các bức
xạ sóng cực ngắn choán đầy vũ trụ
(khoảng 2,7 K), vì thế những lỗ đen này
phát xạ thậm chí còn ít hơn hấp thụ.
Nếu vũ trụ được an bài là sẽ giãn
nở mãi mãi, thì nhiệt độ của các
bức xạ sóng cực ngắn cuối cùng sẽ
giảm tới mức nhỏ hơn nhiệt độ của
lỗ đen và lỗ đen khi đó sẽ bắt đầu
mất khối lượng. Nhưng ngay cả khi đó
thì nhiệt độ của nó vẫn thấp đến
mức cần khoảng 1 triệu triệu triệu
triệu triệu triệu triệu triệu triệu
triệu triệu (1 với sáu mươi sáu số không
đứng sau) năm để lỗ đen bay hơi hoàn
toàn. Con số đó lớn hơn nhiều tuổi
của vũ trụ bằng 1 hoặc 2 và 10 con số
không đứng sau (tức khoảng 10 hoặc 20 ngàn
triệu năm).
Mặt khác như đã nói ở
Chương 6 có thể những lỗ đen nguyên
thủy được tạo thành bởi sự co lại
của những bất thường trong giai đoạn
rất sớm của vũ trụ. Những lỗ đen
nguyên thủy với khối lượng ban đầu
cỡ ngàn triệu tấn sẽ có thời gian
sống xấp xỉ tuổi của vũ trụ. Những
lỗ đen nguyên thủy với khối lượng
nhỏ hơn con số đó chắc là đã bốc hơi
hoàn toàn, nhưng những lỗ đen với khối
lượng hơi lớn hơn sẽ vẫn còn đang
tiếp tục phát xạ dưới dạng tia X
hoặc tia gamma. Các tia X và tia gamma này
giống như ánh sáng chỉ có điều bước
sóng của chúng ngắn hơn nhiều. Những
lỗ như thế khó mà gán cho cái nhãn là
đen: chúng thực sự nóng trắng và phát năng
lượng với tốc độ khoảng mười ngàn
mega oat.
Một lỗ đen như vậy có
thể cung cấp đủ năng lượng cho mười
nhà máy điện lớn, nếu chúng ta biết cách
khai thác nó. Tuy nhiên việc này chẳng
phải dễ dàng gì: lỗ đen đó có khối lượng
bằng cả một quả núi bị nén lại tới
kích thước nhỏ hơn một phần triệu
triệu của inch, nghĩa là cỡ kích thước
của hạt nhân nguyên tử! Nếu
bạn có một lỗ đen như thế trên mặt
đất, bạn sẽ không có cách nào giữ cho
nó khỏi rơi xuyên qua sàn nhà xuống tới
tâm trái đất. Nó sẽ dao động xuyên qua
trái đất cho tới khi cuối cùng đậu
lại ở tâm. Như vậy chỗ duy
nhất đặt được một lỗ đen như vậy
để có thể khai thác năng lượng do nó
bức xạ ra là ở trên một quỹ đạo
quay xung quanh trái đất và cách duy nhất
có thể đưa nó lên quỹ đạo ấy là hút
nó tới đó bằng cách kéo một khối lượng
lớn phía trước nó hệt như dùng củ cà
rốt nhử con lừa. Điều này xem ra không
phải là một đề nghị thực tế lắm,
ít nhất cũng là trong tương lai gần.
Nhưng thậm chí nếu chúng
ta không thể khai thác được sự phát
xạ từ các lỗ đen nguyên thủy thì
liệu chúng ta có cơ may quan sát được
chúng không? Chúng ta có thể tìm kiếm các
tia gamma mà các lỗ đen nguyên thủy phát
ra trong hầu hết thời gian sống của chúng.
Mặc dù phát xạ từ phần lớn các lỗ
đen đều mờ nhạt vì chúng ở quá xa,
nhưng tổng số của chúng thì có thể
phát hiện được. Chúng ta hãy quan sát
kỹ một nền tia gamma như vậy:
 |
Hình 7.5: Đường
chấm chấm cho thấy cường độ
phải biến thiên thế nào theo
tần số đối với các tia gamma
do lỗ đen nguyên thủy gây ra
nếu trung bình có 300 lỗ đen như
thế trong một năm - ánh sáng
khối. |
Hình 7.5 cho thấy cường độ quan sát
được khác nhau ở những tần số khác
nhau. Tuy nhiên, nền tia gamma này có thể
và chắc là được sinh ra bởi những quá
trình khác hơn là bởi các lỗ đen nguyên
thủy. Đường chấm chấm trên Hình 7.5
cho thấy cường độ phải biến thiên
thế nào theo tần số đối với các tia
gamma do lỗ đen nguyên thủy gây ra nếu
trung bình có 300 lỗ đen như thế trong
một năm - ánh sáng khối. Do đó người
ta có thể nói rằng những quan sát nền
tia gamma không cho một bằng chứng
khẳng định nào về các lỗ đen nguyên
thủy, nhưng chúng cho chúng ta biết trong
vũ trụ về trung bình không thể có hơn
300 lỗ đen như thế trong một năm - ánh
sáng khối. Giới hạn đó có nghĩa là các
lỗ đen nguyên thủy có thể tạo nên
nhiều nhất là một phần triệu số
vật chất của vũ trụ.
Với các lỗ đen nguyên
thủy phân bố thưa thớt như vậy khó mà
có khả năng một lỗ đen như thế ở đủ
gần chúng ta để có thể quan sát nó như
một nguồn tia gamma riêng rẽ. Nhưng vì
lực hấp dẫn sẽ kéo lỗ đen nguyên
thủy tới gần vật chất nên chúng sẽ
thường gặp nhiều hơn ở trong hay gần các
thiên hà. Như vậy, mặc dù nền tia gamma
cho chúng ta biết rằng trung bình không
thể có hơn 300 lỗ đen như thế trong
một năm - ánh sáng khối nhưng nó lại
chẳng cho chúng ta biết gì về tần suất
gặp chúng trong thiên hà của chúng ta.
Chẳng hạn nếu như chúng một triệu
lần thường gặp hơn con số trung bình thì
lỗ đen gần chúng ta nhất chắc cũng
phải cách chúng ta chừng một ngàn triệu
km, tức là xa như sao Diêm vương, hành
tinh xa nhất mà chúng ta biết. Ở khoảng
cách đó vẫn còn rất khó phát hiện
bức xạ đều của một lỗ đen ngay cả
khi nó là mười ngàn mega oát. Để quan sát
được một lỗ đen nguyên thủy người
ta phải phát hiện được một vài lượng
tử gamma tới từ chính hướng đó trong
một khoảng thời gian hợp lý, chẳng
hạn như một tuần lễ. Nếu không, chúng
chỉ là một phần của phông. Nhưng nguyên
lý lượng tử của Planck cho chúng ta
biết rằng mỗi một lượng tử gamma có
năng lượng rất cao, vì tia gamma có tần
số rất cao, nếu thậm chí nó có phát
xạ với công suất 10 ngàn mega oát thì cũng
không phải có nhiều lượng tử. Và để
quan sát được một số lượng tử, lại
tới từ khoảng cách rất xa như sao Diêm
vương, đòi hỏi phải có một máy dò
lớn hơn bất cứ máy dò nào đã được
chế tạo cho tới nay. Hơn nữa máy dò này
lại phải đặt trong không gian vũ trụ vì
các tia gamma không thể thâm nhập qua bầu
khí quyển.
Tất
nhiên nếu một lỗ đen ở cách xa như sao
Diêm vương đã đến ngày tận số và bùng
nổ thì sẽ dễ dàng phát hiện được
sự bùng nổ bức xạ của nó. Nhưng nếu
lỗ đen đó liên tục bức xạ trong
khoảng 10 hoặc 20 ngàn triệu năm trở
lại đây thì xác suất để nó tận số
trong vòng ít năm tới thực sự là rất
nhỏ! Vì vậy, để có một cơ
may hợp lý nhìn thấy vụ nổ của lỗ đen
trước khi tiền trợ cấp nghiên cứu
của bạn tiêu hết thì bạn phải tìm cách
phát hiện những vụ nổ ở trong khoảng
cách một năm ánh sáng. Bạn vẫn phải
giải quyết vấn đề có một máy dò tia
gamma lớn có thể phát hiện được một
vài lượng tử gamma tới từ vụ nổ đó.
Tuy nhiên, trong trường hợp này sẽ không
cần phải xác định rằng tất cả các lượng
tử tới cùng một hướng: chỉ cần quan
sát thấy tất cả chúng đều tới trong
một khoảng thời gian ngắn là có thể
tin được rằng chúng tới từ cùng một
vụ bùng nổ.
Một máy dò tia gamma có
khả năng phát hiện ra các lỗ đen nguyên
thủy chính là toàn bộ bầu khí quyển
của trái đất. (Trong mọi trường hợp
chúng ta không thể chế tạo được một
máy dò lớn hơn). Khi một lượng tử
gamma năng lượng cao đập vào các nguyên
tử trong khí quyển, nó sẽ tạo ra cặp
electron và positron (tức là phản -
electron). Khi các hạt này đập vào các
nguyên tử khác, đến lượt mình, chúng
sẽ tạo ra các cặp electron và positron
nữa, và như vậy người ta sẽ thu được
cái gọi là mưa electron. Kết quả là
một dạng ánh sáng có tên là bức xạ
Cherenkov. Do đó, người ta có thể phát
hiện ra sự bùng nổ tia gamma bằng cách tìm
các chớp sáng trong bầu trời đêm. Tất
nhiên có nhiều hiện tương khác như
chớp hoặc sự phản xạ ánh sáng từ các
vệ tinh rơi xuống hoặc các mảnh vỡ trên
quỹ đạo cũng có thể tạo ra các chớp
sáng trên bầu trời. Người ta có thể phân
biệt sự bùng nổ tia gamma với các hiện
tượng đó bằng cách quan sát các chớp sáng
đồng thời ở hai hoặc nhiều vị trí
ở cách rất xa nhau. Một thí nghiệm như
thế đã được hai nhà khoa học ở Dublin
là Neil Porter và Trevor Wecks thực hiện khi
dùng các kính thiên văn ở Arizona. Họ đã
tìm thấy nhiều chớp sáng nhưng không có
cái nào có thể gán một cách chắc chắn
cho sự bùng nổ tia gamma từ các lỗ đen
nguyên thủy.
Ngay cả khi nếu việc tìm
kiếm các lỗ đen nguyên thủy không có
kết quả, vì điều này vẫn có thể
xảy ra, thì nó vẫn cho chúng ta những thông
tin quan trọng về những giai đoạn rất
sớm của vũ trụ. Nếu vũ trụ ở giai đoạn
rất sớm là hỗn loạn và bất thường
hoặc nếu áp suất vật chất là thấp thì
người ta có thể nghĩ rằng nó đã tạo
ra nhiều lỗ đen nguyên thủy hơn là
giới hạn đã được xác lập dựa trên
những quan sát về phông tia gamma. Chỉ
nếu ở giai đoạn rất sớm, vũ trụ là
rất trơn tru và đều đặn với áp suất
cao thì người ta mới có thể giải thích
được tại sao lại không có nhiều lỗ
đen nguyên thủy.
Ý tưởng
về bức xạ phát từ các lỗ đen là
một ví dụ đầu tiên về sự tiên đoán
phụ thuộc một cách căn bản vào cả hai
lý thuyết lớn của thế kỷ chúng ta:
thuyết tương đối rộng và cơ học lượng
tử. Nó đã gặp nhiều ý kiến phản đối
lúc đầu vì nó đảo lộn quan điểm
hiện thời “làm sao lỗ đen lại phát ra
cái gì đó?”. Khi lần đầu tiên
tôi công bố các kết quả tính toán của
tôi tại một hội nghị ở Phòng thì
nghiệm Rurtherford - Appleton gần Oxford, tôi
đã được chào đón bằng sự hoài nghi
của hầu hết mọi người. Vào lúc kết
thúc bản báo cáo của tôi, vị chủ tọa
phiên họp, ông John Taylor của trường
Kings College, London đã đứng dậy tuyên
bố rằng tất cả những thứ đó là vô
nghĩa. Thậm chí ông còn viết một bài báo
về vấn đề này. Tuy nhiên, rồi cuối cùng,
hầu hết mọi người, kể cả ông John
Taylo cũng đã đi đến kết luận rằng các
lỗ đen cần phải phát bức xạ như các
vật nóng, nếu những quan niệm khác của
chúng ta về thuyết tương đối rộng và
cơ học lượng tử là đúng đắn. Như
vậy, mặc dù ngay cả khi chúng ta còn chưa
tìm thấy một lỗ đen nguyên thủy nào
vẫn có một sự khá nhất trí cho rằng
nếu chúng ta phát hiện ra lỗ đen đó thì
nó sẽ phải phát ra một lượng lớn tia
X và tia gamma.
Sự tồn tại của bức
xạ phát ra từ lỗ đen cũng còn ngụ ý
rằng sự co lại do hấp dẫn không phải
là chấm hết và không thể đảo ngược
được như một thời chúng ta đã nghĩ.
Nếu một nhà du hành rơi vào một lỗ đen
thì khối lượng của nó sẽ tăng, nhưng
cuối cùng năng lượng tương đương với
khối lượng gia tăng đó sẽ được trả
lại cho vũ trụ dưới dạng bức xạ. Như
vậy theo một ý nghĩa nào đó nhà du hành
vũ trụ của chúng ta đã được luân
hồi. Tuy nhiên, đó là một số phận
bất tử đáng thương, và quan niệm cá nhân
về thời gian của nhà du hành chắc cũng
sẽ chấm hết khi anh ta bị xé ra từng
mảnh trong lỗ đen! Ngay cả các
loại hạt cuối cùng được phát ra từ
lỗ đen nói chung cũng sẽ khác với
những hạt đã tạo nên nhà du hành: đặc
điểm duy nhất còn lại của anh ta chỉ là
khối lượng và năng lượng.
Những phép gần đúng mà tôi
sử dụng để tính ra sự phát xạ từ
lỗ đen vẫn còn hiệu lực tốt khi lỗ
đen có khối lượng chỉ lớn hơn một
phần của gam. Tuy nhiên chúng sẽ không còn
dùng được nữa ở điểm cuối đời
của lỗ đen, khi mà khối lượng của nó
trở nên cực nhỏ. Kết cục có nhiều
khả năng nhất là lỗ đen sẽ biến
mất, ít nhất là khỏi vùng vũ trụ của
chúng ta mang theo cả nhà du hành và kỳ
dị có thể có ở bên trong nó. Đây là
chỉ dẫn đầu tiên cho thấy cơ học lượng
tử có thể khử các kỳ dị đã được
tiên đoán bởi thuyết tương đối rộng.
Tuy nhiên các phương pháp mà tôi và
những người khác sử dụng vào năm 1974
chưa thể trả lời được cho những câu
hỏi, ví dụ như liệu những kỳ dị đó
có xuất hiện trong lý thuyết lượng tử
hấp dẫn hay không? Do đó từ năm 1975
trở đi tôi đã bắt đầu phát triển
một cách tiếp cận mạnh hơn đối với
hấp dẫn lượng tử dựa trên ý tưởng
của Richard Feynman về phép lấy tổng theo
những lịch sử. Câu trả lời mà cách
tiếp cận này đưa ra cho nguồn gốc và
số phận của vũ trụ và những thứ
chứa bên trong nó, chẳng hạn như nhà du
hành, sẽ được mô tả ở hai chương
sau. Chúng ta sẽ thấy rằng mặc dù nguyên
lý bất định đặt những hạn chế về
độ chính xác cho tất cả các tiên đoán
của chúng ta, nhưng đồng thời nó lại
loại bỏ được tính không thể tiên đoán
- một tính chất rất cơ bản xảy ra ở
điểm kỳ dị của không - thời gian.
|