90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [2]

Vietsciences- Tản Đà   2006
 

 < về trang chính >

 

TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HlẾU (1889-1939)

 

BẠCH CƯ DỊ 白 居 易 (772-846)

42. Sơn hạ túc  山 下 宿

獨 到 山 下 宿

Độc đáo sơn hạ túc.

靜 向 月 中 行

Tĩnh hướng nguyệt trung hành.

何 處 水 邊 碓

Hà xứ thủy biên đối,

夜 舂 雲 母 聲

Dạ thung vân mẫu thanh.

 

Ngủ trong núi

Một mình tới ngủ non xanh,

Lặng êm dưới bóng trăng thanh bước nhìn.

Suối đâu? Cối nước liền bên,

Chày đâm vân mẫu kìn kìn tiếng đêm.

 

43. Trì thượng  池 上

小 娃 撐 小 艇

Tiểu oa sanh tiểu đĩnh,

偷 採 白 蓮 迴

Thâu thái bạch liên hồi,

不 解 藏 蹤 跡

Bất giải tàng tung tích,

浮 萍 一 道 開

Phù bình nhất đạo khai.

Trên ao

Người xinh bơi chiếc thúng xinh,

Bông sen trắng nõn trắng tinh thó về.

Hớ hênh dấu vết không che,

Trên ao để một luồng chia mặt bèo.

Ngày Nay, số 82 (24-10-1937)

 

44. Chu trung vũ dạ  舟 中 雨 夜

江 雲 闇 悠 悠

Giang vân ám du du,

江 風 冷 修 修

Giang phong lãnh tu tu,

夜 雨 滴 船 背

Dạ vũ trích thuyền bối,

夜 浪 打 船 頭

Dạ lãng đả thuyền đầu.

船 中 有 病 客

Thuyền trung hữu bệnh khách.

左 降 向 江 川

Tả giáng hướng Giang Châu.

 

Trong thuyền đêm mưa

Mây sông kéo tới đùn đùn,

Gió sông thổi lạnh ghê hồn khách sông

Mưa đêm rỏ xuống mui bồng,

Sóng đêm dồn vỗ long bong mũi thuyền.

Trong thuyền có bác ốm rên,

Giáng quan thẳng lối ra miền Giang Châu.

Ngày Nay, số 107 (24-4-1938)

 

45. Hữu nhân dạ phỏng  友人夜訪

簷 間 清 風 簟

Thiềm gian thanh phong điệm.

松 下 明 月 盃

Tùng hạ minh nguyệt bôi.

幽 意 正 如 此

U ý chính như thử.

況 乃 故 人 來

Huống nãi cố nhân lai.

 

Người bạn đến thăm đêm

Thềm cao gió mát chiếu đan,

Chén soi bóng nguyệt bàng hoàng dưới thông.

Lòng riêng đương thú với lòng.

Lại đâu người cũ lạ lùng đến thăm.

 

46. Dạ vũ  夜 雨

 

早 蛩 啼 復 歇

Tảo cung đề phục yết.

殘 燈 滅 又 明

Tàn đăng diệt hựu minh.

隔 窗 知 夜 雨

Cách song tri dạ vũ.

芭 蕉 先 有 聲

Ba tiêu tiên hữu thanh.

 

Mưa đêm

Dế giun rên mỏi lại ngừng,

Đèn tàn muốn tắt lại bừng sáng ra.

Cách song, đêm biết mưa sa,

Tiếng nghe lộp bộp chăng là tàu tiêu.

Ngày Nay, số 130 (1-10-1938)

 

47. Thu trùng 秋 蟲

切 切 闇 窗 下

Thiết thiết ám song hạ,

喓 喓 深 草 裏

Yêu yêu thâm thảo lý.

秋 天 思 婦 心

Thu thiên tư phụ tâm,

雨 夜 愁 人 耳

Vũ dạ sầu nhân nhĩ.

 

Trùng mùa thu

Tiếng đâu dưới vách kêu ran?

Lại trong đám cỏ nghe càng nỉ con.

Trơi thu gái nhớ chồng son,

Mưa dầm đêm vắng, ai buồn lắng tai.

Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)

 

48. Vấn Hoài Thủy  問 淮 水

自 嗟 名 利 客

Tự ta danh lợi khách,

擾 擾 在 人 間

Nhiễu nhiễu tại nhân gian.

何 事 長 淮 水

Hà sự trường Hoài thủy,

東 流 亦 不 閒

Đông lưu diệc bất nhàn?

 

Hỏi nước sông Hoài

Trong vòng danh lợi thương ta,

Cái thân nhăng nhít cho qua với đời.

Việc chi, hỡi nước sông Hoài?

Cũng không thong thả, miệt mài về đông?

Ngày Nay, số 92 (2-1-1938)

 

49. Tảo thu độc dạ  早 秋 獨 夜

井 梧 涼 葉 動

Tỉnh ngô lương diệp động,

鄰 杵 秋 聲 發

Lân chử thu thanh phát.

獨 向 簷 下 眠

Độc hướng thiềm hạ miên.

覺 來 半 床 月

Giác lai bán sàng nguyệt.

 

Mùa thu sớm, đêm một mình

Giếng vàng lay động lá ngô,

Mỏ chày hàng xóm tiếng thu đã truyền...

Một mình ngủ dưới mái hiên,

Tỉnh ra trăng sáng một bên giường nằm.

Ngày Nay, số 126 (2-9-1938)

 

50. Thu mộ giao cư thư hoài  秋 暮 郊 居 書 懷

郊 居 人 事 少

Giao cư nhân sự thiểu,

晝 臥 對 林 巒

Trú ngọa đối lâm man.

窮 巷 厭 多 雨

Cùng hạng yếm đa vũ,

貧 家 愁 早 寒

Bần gia sầu tảo hàn.

葛 衣 秋 未 換

Cát y thu vị hoán,

書 卷 病 仍 看

Thư quyển bịnh nhưng khan.

若 問 生 涯 計

Nhược vấn sinh nhai kế,

前 溪 一 釣 竿

Tiền khê nhất điếu can.

 

Cuối thu, cảnh ở quê

Ở quê, thưa ít việc người,

Giữa trưa nằm khểnh, ngắm coi núi đèo.

Ngõ sâu ngán nỗi mưa nhiều,

Lạnh lùng chi sớm, cảnh nghèo thêm lo.

Áo lương còn mặc mùa thu,

Ốm đau, sách vẫn đôi pho chẳng rời.

Lấy chi qua sống ngày trời?

Một cần câu để bên ngòi ngồi câu.

Ngày Nay, số 135 (5-11-1938)

 

51. Thu giang tống khách  秋 江 送 客

秋 鴻 次 第 過

Thu hồng thứ đệ quá,

哀 猿 朝 夕 聞

Ai viên triêu tịch văn.

是 日 孤 舟 客

Thị nhật cô chu khách,

此 地 亦 離 群

Thử địa diệc ly quần.

濛 濛 潤 衣 雨

Mông mông nhuận y vũ,

漠 漠 冒 帆 雲

Mạc mạc mạo phàm vân,

不 醉 潯 陽 酒

Bất túy Tầm Dương tửu,

煙 波 愁 殺 人

Yên ba sầu sát nhân.

 

Sông thu tiễn khách

Nhàn thu lần lượt bay qua,

Thảm thương tiếng vượn hôm đà lại mai.

Ngày nay một chiếc thuyền ai,

Nước non này cũng chia phôi cách đàn.

Mưa đầm vạt áo như chan,

Buồm đi, man mác mây ngàn đón ngang.

Chẳng say chén rượu Tầm Dương,

Khỏi sao sóng, khói sầu thương chết người.

Ngày Nay, số 129 (24-9-1938)

 

52. Thảo 

離 離 原 上 草

Ly ly nguyên thượng thảo,

一 歲 一 枯 榮

Nhất tuế nhất khô vinh,

野 火 燒 不 盡

Dã hỏa thiêu bất tận,

春 風 吹 又 生

Xuân phong xuy hựu sinh.

遠 芳 侵 古 道

Viễn phương xâm cổ đạo,

晴 翠 接 荒 城

Tình thúy tiếp hoang thành

又 送 王 孫 去

Hựu tống Vương tôn khứ

萋 萋 滿 別 情

Thê thê mãn biệt tình.

 

Cỏ

Đồng cao cỏ mọc như chen,

Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn.

Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn,

Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi.

Xa xa thơm ngát dặm dài,

Thành hoang láng biếc khi trời tạnh mưa.

Vương, Tôn đi lại tiễn đưa,

Biết bao tình biệt đầm đìa lướt theo.

Ngày Nay, số 86 (21-11-1937)

 

53. Họa Đỗ lục sự đề hồng diệp  和 杜 錄 事 題 紅 葉

寒 山 十 月 旦

Hàn sơn thập nguyệt đán,

霜 葉 一 時 新

Sương diệp nhất thời tân.

似 燒 非 因 火

Tự thiêu phi nhân hỏa,

如 花 不 待 春

Như hoa bất đãi xuân.

連 行 排 降 葉

Liên hàng bài giáng diệp,

亂 落 剪 紅 巾

Loạn lạc tiễn hồng cân.

解 駐 籃 轝 看

Giải trụ lam dư khán,

風 前 唯 兩 人

Phong tiền duy lưỡng nhân.

 

Họa thơ ông Lục sự họ Đỗ vịnh lá đỏ

Lạnh lùng buổi sáng tháng mười,

Lá sương phơi núi cùng thời mới sao!

Như thiêu chẳng lửa mà thiêu,

Như hoa chẳng đợi xuân nào mới hoa.

Liền hàng, màn tía bày ra,

Rơi tung, xếp nếp khăn là đỏ ghê!

Muốn xem, dừng xuống kiệu tre,

Đứng chơi ngọn gió chỉ ta hai người.

Ngày Nay, số 139 (XII–1938)

 

54. Ký Vi Chi  寄 微 之

江 州 望 通 州

Giang Châu vọng Thông Châu,

天 涯 與 地 末

Thiên nhai dữ địa mạt.

有 山 萬 丈 高

Hữu sơn vạn trượng cao,

有 江 千 里 闊

Hữu giang thiên lý khoát.

間 之 以 雲 霧

Gián chi dĩ vân vụ,

飛 鳥 不 可 越

Phi điểu bất khả việt.

誰 知 千 古 險

Thùy tri thiên cổ hiểm,

為 我 二 人 設

Vị ngã nhị nhân thiết.

通 州 君 初 到

Thông Châu quân sơ đáo,

鬱 鬱 愁 如 結

Uất uất sầu như kết.

江 州 我 方 去

Giang châu ngã phương khứ,

迢 迢 行 未 歇

Thiều thiều hành vị yết.

道 路 日 乖 隔

Đạo lộ nhật quai cách.

音 信 日 斷 絕

Âm tín nhật đoạn tuyệt.

因 風 欲 寄 語

Nhân phong dục ký ngữ,

地 遠 聲 不 徹

Địa viễn thanh bất triệt.

生 當 復 相 逢

Sinh đương phục tương phùng.

死 當 從 此 別

Tử đương tòng thử biệt!

 

Gửi bạn Vi Chi

Châu Giang mà ngóng Châu Thông,

Chân trời cuối đất mênh mông thấy nào?

Núi đâu muôn trượng kìa cao,

Sông đâu ngàn dặm rộng sao rộng mà!

Mây che mù tỏa bao la,

Chim bay cũng chẳng vượt qua khỏi tầm.

Hiểm xưa còn đó ngàn năm,

Ai hay trời để chơi khăm đôi người.

Châu Thông bác mới tới nơi,

Mối sầu như thắt ngậm ngùi chiếc thân.

Châu Giang tôi mới đi dần,

Nẻo đi xa lắc chưa phần đã ngơi.

Quan hà ngày một chia khơi,

Tăm hơi ngày bẵng tăm hơi một ngày.

Gió đưa muốn gửi câu này,

Tiếng không suốt đến vì mày đất xa.

Sống còn gặp gỡ đôi ta,

Ví chăng chết mất thôi là biệt nhau.

 

55. Dĩ kính tặng biệt  以 鏡 贈 別

人 言 似 明 月

Nhân ngôn tự minh nguyệt,

我 道 勝 明 月

Ngã đạo thắng minh nguyệt.

明 月 非 不 明

Minh nguyệt phi bất minh,

一 年 十 二 缺

Nhất niên thập nhị khuyết.

豈 如 玉 匣 裡

Khởi như ngọc hạp lý,

如 水 常 澄 澈

Như thủy thường trừng triệt,

月 破 天 闇 時

Nguyệt phá thiên ám thời,

圓 明 獨 不 歇

Viên minh độc bất yết.

我 慚 貌 醜 老

Ngã tâm mạo xú lão,

繞 鬢 班 班 雪

Nhiễu mấn ban ban tuyết,

不 如 贈 少 年

Bất như tặng thiếu niên,

迴 照 青 絲 髮

Hồi chiếu thanh ty phát,

因 君 千 里 去

Nhân quân thiên lý khứ,

持 此 將 為 別

Trì thử tương vi biệt.

 

Lấy gương làm quà tặng biệt

Ai rằng: gương sáng như trăng,

Ta rằng: trăng sáng chưa bằng gương soi.

Trăng kia thật sáng vẹn mười,

Một năm lại khuyết mười hai bận đầy.

Sao bằng trong hộp ngọc này,

Trong như nước đứng ngày ngày năm năm.

Nào khi trăng khuyết trời âm.

Gương đầy tròn sáng như rằm trăng soi.

Buồn ta già xấu hơn người,

Đốm quanh mái tóc bời bời tuyết in.

Chẳng bằng cho bạn thanh niên,

Để soi tóc trẻ xanh rền sợi tơ.

Anh nay nghìn dặm đi xa,

Cầm gương ta để làm quà tiễn nhau.

Ngày Nay, số 114 (12.6.1938)

 

56. Tự Giang Lăng chi Từ Châu lộ thượng ký huynh đệ 

自 江 陵 之 徐 州 路 上 寄 兄 弟

岐 路 南 將 北

Kỳ lộ nam tương bắc,

離 憂 弟 與 兄

Ly ưu đệ dữ huynh.

關 河 千 里 別

Quan hà thiên lý biệt,

風 雪 一 身 行

Phong tuyết nhất thân hành.

夕 宿 勞 鄉 夢

Tịch túc lao hương mộng,

晨 裝 慘 旅 情

Thần trang thảm lữ tình.

家 貧 憂 後 事

Gia bần ưu hậu sự,

日 短 念 前 程

Nhật đoản niệm tiền trình.

煙 雁 翻 寒 渚

Yên nhạn phiên hàn chử,

霜 烏 聚 古 城

Sương ô tụ cổ thành.

誰 憐 陟 岡 者

Thùy liên trắc cương giả,

西 楚 望 南 荊

Tây Sở vọng Nam Kinh.

 

Từ Giang Lăng đi Từ Châu
trên đường gửi cho anh em

Đường kia sắp bắc từ nam,

Mối lo ly biệt anh em cùng sầu.

Quan hà ngàn dặm xa nhau,

Người đi gió tuyết dãi dầu một thân.

Hồn quê nhọc giấc đêm xuân,

Sắm sanh hành lý tần ngần sớm mai.

Nhà nghèo lo tính xa xôi,

Đường xa nghĩ nỗi ngày trời ngắn không.

Nhạn sa bến lạnh khói lồng

Thành xưa lũ quạ họp trong sương mờ.

Ai thương kẻ bước lên gò?

Sở Tây trông ngóng bây giờ Kinh Nam.

Ngày Nay, số 101 (13.3.1938)

 

57. Tùng thanh  松 聲

月 好 好 獨 坐

Nguyệt hảo, hảo độc tọa,

雙 松 在 前 軒

Song tùng tại tiền hiên.

西 南 微 風 來

Tây nam vi phong lai,

潛 入 枝 葉 間

Tiềm nhập chi diệp gian,

蕭 寥 發 為 聲

Tiêu liêu phát vi thanh,

半 夜 明 月 前

Bán dạ minh nguyệt tiền,

寒 山 颯 颯 雨

Hàn sơn táp táp vũ

秋 琴 冷 冷 絃

Thu cầm lãnh lãnh huyền.

一 聞 滌 炎 暑

Nhất văn địch viêm thử,

再 聽 破 昏 煩

Tái thính phá hôn phiền.

竟 夕 遂 不 寐

Cánh tịch toại bất mị,

心 體 俱 翛 然

Tâm thể câu diểu nhiên.

南 陌 車 馬 動

Nam mạch xa mã động,

西 鄰 歌 吹 繁

Tây lân ca xúy phồn,

誰 知 茲 簷 下

Thùy tri tư thiềm hạ,

滿 耳 不 為 喧

Mãn nhĩ bất vi huyên.

 

Tiếng thông reo

Trăng trong ngồi mát một mình,

Hai cây thông đứng hữu tình trước hiên

Nhẹ nhàng cơn gió đưa lên,

Luồn cành lá, đến tự miền tây nam.

Bóng trăng sáng nửa chừng đêm,

Lào rào nghe tiếng gió làm tuôn đưa.

Ào ào núi rét sa mưa,

Đờn cầm thu nảy dây tơ lạnh lùng.

Một nghe, rửa sạch cơn nồng,

Hai nghe bức bối trong lòng phá tan.

Thâu đêm thức mãi bàn hoàn,

Dạ khoan khoái dạ, mình khoan khoái mình.

Đường nam xe ngựa rình rình,

Xóm tây tiếng hát, tiếng sênh rộn ràng.

Ai hay này chỗ hành lang,

Đầy tai nghe vẫn êm thường như không

Ngày Nay, số 127 (11.9.1938)

 

58. Thu san  秋 山

久 病 曠 心 賞

Cửu bệnh khoáng tâm thưởng.

今 朝 一 登 山

Kim triêu nhất đăng san.

山 秋 雲 物 冷

San thu vân vật lãnh,

稱 我 清 羸 顏

Xứng ngã thanh luy nhan.

百 石 臥 可 枕

Bạch thạch ngọa khả trẩm,

青 蘿 行 可 攀

Thanh la hành khả phan.

意 中 如 有 得

Ý trung như hữu đắc,

盡 日 不 欲 還

Tận nhật bất dục hoàn.

人 生 無 幾 何

Nhân sinh vô kỷ hà,

如 寄 天 地 間

Như ký thiên địa gian.

心 有 千 載 憂

Tâm hữu thiên tải ưu,

身 無 一 日 閑

Thân vô nhất nhật nhàn.

何 時 解 塵 網

Hà thời giải trần võng,

此 地 來 掩 關

Thử địa lai yểm quan.

 

Núi mùa thu

Ốm lâu, nằm mãi buồn sao!

Sáng nay ta mới lên cao hỡi lòng.

Màu thu, mây núi lạnh lùng.

Thanh hao nét mặt, ưa cùng ta đây.

Nằm gối đá, đi vin dây,

Dây xanh đá trắng đẹp thay cảnh tình!

Thú vui trong dạ một mình,

Thâu ngày quên tưởng cái hình về đâu.

Người ta sống có bao lâu,

Ở trong trời đất cùng nhau tạm thời.

Mối lo mang lấy nghìn đời,

Một ngày chẳng được hơi rồi tấm thân.

Bao giờ giũ sạch lụy trần?

Lại đây đóng cửa vui phần núi non.

Ngày Nay, số 126 (4.9.1938)

 

59. Vọng giang lâu thượng tác 
望 江 樓 上 作

江 畔 百 尺 樓

Giang bạn bách xích lâu,

樓 前 千 里 道

Lâu tiền thiên lý đạo.

憑 高 望 平 遠

Bằng cao vọng bình viễn,

亦 足 舒 懷 抱

Diệc túc thư hoài bão.

驛 路 使 憧 憧

Dịch lộ sứ đồng đồng.

關 防 兵 草 草

Quan phòng binh thảo thảo.

及 茲 多 事 日

Cập tư đa sự nhật,

猶 覺 閒 人 好

Do giác nhàn nhân hảo.

我 年 過 不 惑

Ngã niên quá bất hoặc,

休 退 誠 非 早

Hưu thoái thành phi tảo.

從 此 拂 塵 衣

Tòng thử phất trần y.

歸 山 未 為 老

Qui sơn vị vi lão.

 

Trên lầu trông ra sông

Bờ sông trăm thước lầu cao,

Trước lầu nghìn dặm đi đâu con đường?

Tựa cao trông xuống dặm trường,

Mà trong bụng nghĩ như nhường khoan thư.

Đường quan rộn kẻ đưa thư,

Quân gia láo nháo ngẩn ngơ canh phòng.

Cuộc đời gặp lúc rối tung,

Riêng ai ở cảnh thong dong càng mầu.

Đã hơn bốn chục tuổi đầu,

Từ nay về nghỉ ngõ hầu phải thôi.

Từ nay giũ áo trần ai.

Non xanh tình thú vui chơi chửa già...

 

60. Tặng nội 贈 內

生 為 同 室 親

Sinh vi đồng thất thân,

死 為 同 穴 塵

Tử vi đồng huyệt trần.

他 人 尚 相 勉

Tha nhân thượng tương miễn,

而 況 我 與 君

Nhi huống ngã dữ quân.

黔 婁 固 窮 士

Kiềm Lâu cố cuồng sĩ,

妻 賢 忘 其 貧

Thê hiền vong kỳ bần.

冀 缺 一 農 夫

Ký Khuyết nhất nông phu,

妻 敬 儼 如 賓

Thê kính nghiễm như tân.

陶 潛 不 營 生

Đào Tiềm bất doanh sinh,

翟 氏 自 爨 薪

Địch thị tự thoán tân.

梁 鴻 不 旨 仕

Lương Hồng bất khẳng sĩ,

孟 光 甘 布 裙

Mạnh Quang cam bố quần.

君 雖 不 讀 書

Quân tuy bất độc thư,

此 事 耳 亦 聞

Thử sự nhĩ diệc văn.

至 此 千 載 後

Chí thử thiên tải hậu,

傳 是 何 如 人

Truyền thị hà như nhân?

人 生 未 死 間

Nhân sinh vị tử gian.

不 能 忘 其 身

Bất năng vong kỳ thân.

所 須 者 衣 食

Sở tu giả y thực,

不 過 飽 與 溫

Bất quá bão dữ ôn.

蔬 食 足 充 飢

Sơ tự túc sung cơ,

何 必 膏 梁 珍

Hà tất cao lương trân?

繒 絮 足 禦 寒

Tăng nhứ túc ngự hàn,

何 必 錦 繡 文

Hà tất cẩm tú văn?

君 家 有 貽 訓

Quân gia hữu di huấn,

清 白 遺 子 孫

Thanh bạch di tử tôn.

我 亦 貞 苦 士

Ngã diệc trinh khổ sĩ,

與 君 新 結 婚

Dữ quân tân kết hôn.

庶 保 貧 與 素

Thứ bảo bần dữ tố,

偕 老 同 欣 欣

Giai lão đồng hân hân.

 

Thơ đưa vợ

Tình lúc sống một nhà cùng ở,

Chết ra tro, một hố cùng chung.

Khuyên nhau thiên hạ cũng cùng.

Nữa chi mình vợ, ta chồng cùng nhau?

Kìa như gã Kiềm Lâu cùng sĩ,

Cảnh nhà nghèo vợ nghĩ như không.

Nông phu Ký Khuyết cày đồng,

Vợ chàng quý trọng coi chồng khách sang.

Đào Tiềm chẳng lòng toan sinh lý,

Củi nấu ăn, Địch thị kiếm dần.

Lương Hồng quan chẳng chịu mần,

Mạnh Quang chỉ vải may quần cũng ưa,

Mình dẫu đọc sách xưa không mấy,

Các truyện kia hẳn thấy quen tai.

Nghìn năm còn lại ở đời,

Đến nay cùng nói là người như sao?

Người chưa chết lúc nào còn sống,

Chẳng ai mà quên bỗng được thân,

Cái ăn cái mặc là cần.

Cũng sao no ấm qua lần là xong.

Cơm rau đủ no lòng lúc đói.

Có cần chi thức tối cao lương,

Lụa the, rét đủ mặc thường,

Cần chi áo gấm xông hương vẽ vời?

Nhà mình có để đời câu dạy:

Lấy “sạch trong” cho lại cháu con.

Ta đây cũng một lòng son.

Cùng nàng buổi mới vuông tròn thất gia,

Giữ sao nghèo sạch nếp nhà,

Cùng nhau cho đến tuổi già cùng vui.

Ngày Nay, số 108 (1.5.1938)

 

61. Khinh phì  輕 肥

意 氣 驕 滿 路

Ý khí kiêu mãn lộ,

鞍 馬 光 照 塵

Yên mã quang chiếu trần

借 問 何 為 者

Tá vấn hà vi giả,

人 稱 是 內 臣

Nhân xưng thị nội thần.

朱 紱 皆 大 夫

Chu phất giai đại phu

紫 綬 或 將 軍

Tử thụ hoặc tương quân

誇 赴 軍 中 宴

Khoa phó quân trung yến.

走 馬 去 如 雲

Tẩu mã khứ như vân.

樽 罍 溢 九 醞

Tôn lôi dật cửu uấn,

水 陸 羅 八 珍

Thủy lục la bát trân.

果 擘 洞 庭 橘

Quả phách Đỗng Đình quất,

膾 切 天 池 鱗

Khoái thiết Thiên Trì lân.

食 飽 心 自 苦

Thực bão tâm tự nhược,

酒 酣 氣 益 振

Tửu hàm khí ích chân.

是 歲 江 南 旱

Thị tuế Giang Nam hạn,

衢 州 人 食 人

Cù Châu nhân thực nhân.

 

Nhẹ béo

Đầy đường dáng bộ con cưng,

Ngựa yên bóng nhoáng sáng trưng bụi hồng.

Hỏi: Làm chi đó những ông?

Người ta rằng lũ quan trong đó mà.

Dải điều đều Đại phu ta,

Mà đeo dải tía hoặc là Tướng quân

Khuênh khoang đi chén trong quân,

Rộn ràng vó ngựa chạy vần như mây.

Vò, ang chín thứ rượu đầy,

Hải sơn tám bát cỗ bày linh tinh.

Quả dâng quít hái Động Đình,

Cá Thiên Trì thái, đơm thành gỏi ngon.

Ăn no khoan khoái tâm hồn,

Rượu say, ý khí hùng hồn càng thêm.

Năm nay hạn hán Giang Nam,

Cù Châu người mổ người làm thức ăn.

Ngày Nay, số 102 (27-3-1938)

 

62. Văn khốc giả  聞 哭 者

昨 日 南 鄰 哭

Tạc nhật nam lân khốc,

哭 聲 一 何 苦

Khốc thanh nhất hà khổ?

云 是 妻 哭 夫

Vân thi thê khốc phu.

夫 年 二 十 五

Phu niên nhị thập ngũ,

今 朝 北 里 哭

Kim triêu bắc lý khốc,

哭 聲 又 何 切

Khốc thanh hựu hà thiết!

云 是 母 哭 兒

Vân thị mẫu khốc nhi,

兒 年 十 七 八

Nhi niên thập thất bát.

四 鄰 尚 如 此

Tứ lân thượng như thử,

天 下 多 夭 折

Thiên hạ đa yểu chiết.

乃 知 浮 世 人

Nãi tri phù thế nhân.

少 得 垂 白 髮

Thiểu đắc thùy bạch phát?

余 今 過 四 十

Dư kim quá tứ thập,

念 彼 聊 自 悅

Niệm bỉ, liêu tự duyệt.

從 此 明 鏡 中

Tùng thử minh kính trung

不 嫌 頭 似 雪

Bất hiềm đầu tự tuyết.

 

Nghe người khóc

Mới hôm nọ, xóm nam người khóc,

Tiếng khóc sao đau độc nỗi lòng?

Rằng: Đâu là vợ khóc chồng,

Chồng hai nhăm tuổi, khuất vòng nhân gian,

Sớm nay lại khóc than xóm bắc,

Tiếng khóc sao ruột thắt từng cơn?

Rằng: Đâu là mẹ khóc con,

Con mười bảy, tám, chết còn tuổi xanh.

Bốn hàng xóm chung quanh như thế.

Khắp thế gian chết trẻ còn nhiều.

Mới hay người thế bao nhiêu,

Trắng phơ mái tóc dễ nào mấy ai?

Ta nay tuổi có ngoài bốn chục,

Nghĩ ai kia, thôi cũng vui lòng.

Từ nay trong bức gương trong,

Đầu ta ngỡ tuyết, ta không quản gì.

Ngày Nay, số 105 (10-4-1938)

 

63. Tam niên biệt  三 年 別

悠 悠 一 別 已 三 年

Du du nhất biệt dĩ tam niên,

相 望 相 思 明 月 天

Tương vọng tương tư minh nguyệt thiên,

腸 斷 青 天 望 明 月

Trường đoạn thanh thiên vọng minh nguyệt,

別 來 三 十 六 回 園

Biệt lai tam thập lục hồi viên.

 

Xa nhau ba năm

Xa nhau một chuyến ba năm,

Ngóng nhau chung bóng trăng rằm nhớ nhau.

Trời xanh, trăng sáng, lòng đau,

Ba mươi sáu độ trước sau trăng tròn!

 

64. Thính biên hồng 聽 邊 鴻

驚 風 吹 起 塞 鴻 群

Kính phong xuy khởi tái hồng quần,

半 入 平 沙 半 入 雲

Bán nhập bình sa bán nhập vân.

為 問 昭 君 月 下 聽

Vị vấn Chiêu Quân nguyệt hạ thính,

何 如 蘇 武 雪 中 聞

Hà như Tô Vũ tuyết trung văn?

 

Nghe chim hồng ngoài biên ải

Đàn hồng rợn gió ngoài biên,

Nửa sa cát bể, nửa lên mây trời.

Chiêu Quân, Tô Vũ nghe chơi,

Dưới trưng, trong tuyết đôi nơi thế nào?

Ngày Nay, số 118 (10-7-1938)

 

65. Tự khuyến  自 勸

憶 昔 饑 貧 應 舉 年

Ức tích cơ bần ứng cử niên,

脫 衣 典 酒 曲 江 邊

Thoát y điển tửu Khúc Giang biên.

十 千 一 斗 猶 奢 飲

Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm,

何 況 官 供 不 值 錢

Hà huống quan cung bất trị tiền.

 

Tự khuyên mình

Nhớ xưa nghèo túng lúc khoa thi.

Bến Khúc thèm men, cố áo đi.

Đấu rượu muôn đồng quen uống đắt.

Nữa chi lộc nước mất tiền chi!

 

66. Lâm Giang tống Hạ Chiêm  臨 江 送 夏 瞻

悲 君 老 別 淚 沾 巾

Bi quân lão biệt lệ chiêm cân,

七 十 無 家 萬 里 身

Thất thập vô gia vạn lý thân.

愁 見 舟 行 風 又 起

Sầu kiến chu hành phong hựu khởi,

白 頭 浪 裡 白 頭 人

Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.

 

Tới sông tiễn Hạ Chiêm

Muôn dặm thương anh, lệ biệt sầu,

Bảy mươi tuổi tác cửa nhà đâu?

Buồn trông trận gió theo thuyền nổi,

Sóng bạc đầu quanh khách bạc đầu.

Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)

 

67. Đại Lâm tự đào hoa  大 林 寺 桃 花

人 間 四 月 芳 菲 盡

Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận,

山 寺 桃 花 始 盛 開

Sơn tự đào hoa thủy thịnh khai.

長 恨 春 歸 無 覓 處

Trường hận xuân qui vô mịch xứ,

不 知 轉 入 此 中 來

Bất tri chuyển nhập thử trung lai.

 

Hoa đào chùa Đại Lâm

Tháng tư hoa đã hết mùa,

Hoa đào rực rỡ cảnh chùa mới nay.

Xuân về kín chốn ai hay,

Biết đâu lẩn khuất trong này núi non.

Ngày Nay, số 112 (29-5-1938)

 

68. Giang thượng địch  江上笛

江 上 何 人 夜 吹 笛

Giang thượng hà nhân dạ xuy địch,

聲 聲 似 憶 故 園 春

Thanh thanh tự ức cố viên xuân,

此 時 聞 者 堪 頭 白

Thử thời văn giả kham đầu bạch,

況 是 多 愁 少 睡 人

Huống thị đa sầu thiểu thụy nhân.

 

Sáo trên sông

Đêm, ai thổi sáo trên sông,

Vườn xuân tiếng tiếng gửi lòng ai đâu?

Ai nghe, luống những bạc đầu,

Nữa chi ít ngủ, nhiều sầu như ai?

Ngày Nay, số 123 (14-8-1938)

 

69. Vương Chiêu Quân  王昭君

滿 面 朝 沙 滿 鬢 風

Mãn diện Hồ sa mãn mấn phong,

眉 銷 殘 黛 臉 銷 紅

Mi tiêu tàn đại kiểm tiêu hồng,

愁 苦 辛 勤 憔 悴 盡

Sầu khổ tân cần tiều tụy tận.

如 今 卻 似 畫 圖 中

Như kim khước tự họa đồ trung.

 

Vương Chiêu Quân

Cát Hồ đầy mặt, gió đầy tai,

Mực nhạt mày xanh, má đỏ phai.

Khổ sở lo buồn tiều tụy thế,

Mới là tranh vẽ giống như ai.

Ngày Nay, số 99 (27-2-1938)

 

70. Đại mại tân nữ tặng chư kỹ 代 賣 薪 女 贈 諸 妓

亂 蓬 為 鬢 布 為 巾

Loạn bồng vi mấn, bố vi cân,

曉 蹋 寒 山 自 負 薪

Hiểu đạp hàn sơn tự phụ tân,

一 種 錢 塘 江 畔 女

Nhất chung Tiền Đường giang bạn nữ,

著 紅 騎 馬 是 何 人

Trước hồng kỵ mã thị hà nhân?

 

Thay lời chị bán củi tặng các kỹ nữ

Đầu bù khăn vải trùm tai,

Trèo non gánh củi sương mai lạnh lùng,

Tiền Đường cũng gái bên sông.

Mà đâu yên ngựa quần hồng là ai?

 

71. Túc chương đình dịch  宿樟亭驛

夜 半 樟 亭 驛

Dạ bán Chương Đình dịch,

愁 人 起 望 鄉

Sầu nhân khỉ vọng hương.

明 月 何 所 見

Nguyệt minh hà sở kiến,

潮 水 白 茫 茫

Trào thủy bạch mang mang.

 

Ngủ nhà trạm Chương Đình

Nửa đêm ở trạm Chương Đình,

Người buồn trở dậy nặng tình hương quan

Dưới trăng trông ngóng lan man,

Nước trào trắng xóa một làn trăng soi.

Ngày Nay, số 148 (1939)

 

72. Đông chí túc Dương Mai quán 冬 至 宿 楊 梅 館

十 一 月 中 長 至 夜

Thập nhất nguyệt trung trường chí dạ,

三 千 里 外 遠 行 人

Tam thiên lý ngoại viễn hành nhân

若 為 獨 宿 楊 梅 館

Nhược vi độc túc Dương Mai quán,

冷 枕 單 床 一 病 身

Lãnh chẩm đan sàng nhất bệnh thân.

 

Hôm đông chí ngủ ở quán Dương Mai

Dài nhất một đêm trong tháng một,

Ngoài ba nghìn dặm kẻ đi xa

Dương Mai quán khách mình ai ngủ,

Gối lạnh giường đơn ốm thế mà.

Ngày Nay, số 148 (1939)

 

73. Khuê oán từ  閨 怨 詞

朝 憎 鶯 百 囀

Triêu tăng oanh bách chuyển,

夜 妒 燕 雙 棲

Dạ đố yến song thê

不 慣 經 春 別

Bất quán kinh xuân biệt,

唯 知 到 曉 啼

Duy tri đáo hiểu đề.

 

Lời oán của buồng the

Ríu rít tan sương ghét cái oanh,

Đêm ghen cặp én đỗ chung cành

Chẳng quen ly biệt xuân qua trải,

Chỉ biết kêu hoài lúc sang banh.

Ngày Nay, số 153 (1939)

 

74. Hí đề tân tài tường vi  戲 題 新 栽 薔 薇

移 根 易 地 莫 憔 悴

Di căn dịch địa mạc tiều tụy,

野 外 庭 前 一 種 春

Dã ngoại đình tiền nhất chủng xuân

少 府 無 妻 春 寂 寞

Thiếu phủ vô thê xuân tịch mịch,

花 開 相 爾 當 夫 人

Hoa khai tương nhĩ đáng phu nhân.

 

Đề bỡn cây tường vi mới trồng

Chớ chi dời đổi mang sầu,

Trước sân ngoài ruộng chung màu một xuân

Quan đây không vợ, buồn xuân,

Tường vi hoa nở phu nhân là mày.

Ngày Nay, số 153 (1939)

 

75. Ký Tương Linh  寄 湘 靈

淚 眼 凌 寒 凍 不 流

Lệ nhãn lăng hàn đống bất lưu,

每 經 高 處 即 回 頭

Mỗi kinh cao xứ tức hồi đầu.

遙 知 別 後 西 樓 上

Dao tri biệt hậu tây lâu thượng,

應 憑 欄 杆 獨 自 愁

Ưng nhẫm lan can độc tự sầu.

 

Gửi cho Tương Linh

Lạnh rơi nước mắt cóng không trôi,

Ngoảnh lại đòi khi bước núi đồi

Xa biết lầu tây sau lúc biệt,

Lan can buồn tựa một mình ai!

Ngày Nay, số 150 (1939)

 

76. Giang lâu vãn thiếu cảnh vật tiên kỳ ngâm ngoạn thành thiên
ký Thủy bộ Trương Tịch viên ngoại

江 樓 晚 眺 景 物 鮮 奇 吟

翫 成 篇 寄 水 部 張 籍 員 外

 

澹 煙 疏 雨 間 斜 陽

Đạm yên sơ vũ gián tà dương,

江 色 鮮 明 海 氣 涼

Giang sắc tiên minh hải khí lương.

蜃 散 雲 收 破 樓 閣

Thẩn tán vân thu phá lâu các,

虹 殘 水 照 斷 橋 梁

Hồng tàn thủy chiếu đoạn kiều lương.

風 翻 白 浪 花 千 片

Phong phiên bạch lãng hoa thiên phiến.

雁 點 青 天 字 一 行

Nhạn điểm thanh thiên tự nhất hàng.

好 著 丹 青 圖 畫 取

Hảo trước đan thanh đồ họa thủ,

題 詩 寄 與 水 曹 郎

Đề thi ký dữ Thủy tào lang.

 

Lầu bên sông, chiều đứng trông
gửi quan Viên ngoại họ Trương ở bộ Thủy

Nhạt thưa mưa khói, lẫn tà dương.

Sông biển xinh thay! mát lạ nhường.

Lầu thẩn tan hình mây vén lại,

Cầu vồng đứt bóng nước soi ngang.

Gió bay sóng trắng hoa nghìn phiến,

Nhạn chấm trời xanh chữ một hàng.

Xanh đỏ muốn đem mà vẽ lấy,

Đề thơ gửi bác Thủy tào lang.

Ngày Nay, số 123 (14-8-1939)

 

77. Phong vũ vãn bạc  風 雨 晚 泊

苦 竹 林 邊 蘆 葦 叢

Khổ trúc lâm biên lô vĩ tùng,

停 舟 一 望 思 無 窮

Đình chu nhất vọng tứ vô cùng.

青 苔 撲 地 連 春 雨

Thanh đài phác địa liên xuân vũ,

白 浪 掀 天 盡 日 風

Bạch lãng hân thiên tận nhật phong.

忽 忽 一 年 行 欲 半

Hốt hốt bách niên hành dục bán,

茫 茫 萬 事 坐 成 空

Mang mang vạn sự tọa thành không.

此 生 飄 蕩 何 時 定

Thử sinh phiêu đãng hà thời định,

一 縷 鴻 毛 天 地 中

Nhất lũ hồng mao thiên địa trung.

 

Trải mưa gió, chiều hôm đỗ thuyền

Rừng tre khóm sậy thú bên sông,

Đỗ lại con thuyền bát ngát trông.

Mưa cữ, rêu xuân xanh đất giải.

Ngày thâu, sóng gió bạc trời tung.

Trăm năm phút chốc toàn non nửa,

Muôn việc trần gian có hóa không.

Xiêu giạt bao giờ yên chốn nhỉ?

Sống trong trời đất một lông hồng

Ngày Nay, số 99 (27-2-1938)

 

78. Khúc giang túy hậu tặng chư thân cố 

郭 東 丘 墓 何 年 客

Quách đông khâu mộ hà niên khách,

江 畔 風 光 幾 日 春

Giang bạn phong quang kỷ nhật xuân.

只 合 殷 勤 逐 杯 酒

Chỉ hợp ân cần trục bôi tửu,

不 須 疏 索 向 交 親

Bất tu sơ sách hướng giao thân.

中 天 或 有 長 生 藥

Trung thiên hoặc hữu trường sinh dược,

下 界 應 無 不 死 人

Hạ giới ưng vô bất tử nhân.

除 卻 醉 來 開 口 笑

Trừ khước túy lai khai khẩu tiếu,

世 間 何 事 更 關 身

Thế gian hà sự cánh quan thân.

 

Sông Khúc, sau lúc say, đưa cho các người thân

Đồng kia, mả đó, người đâu?

Bên sông xuân sắc cùng nhau mấy ngày?

Thú chi hơn chén rượu đầy,

Bạn thân ta hỡi, sum vầy chớ xa.

Thuốc tiên sống mãi họa là,

Cõi trần cái chết dễ mà tha ai!

Khi say ta mở miệng cười,

Ngoài ra, bao ná việc đời vướng chi!

Ngày Nay, số 118 (10-7-1938)

 

79. Trung thu nguyệt  中 秋 月

萬 里 清 光 不 可 思

Vạn lý thanh quang bất khả tư,

添 愁 益 恨 繞 天 涯

Thiêm sầu ích hận nhiễu thiên nhai.

誰 人 隴 外 久 征 戍

Thuỳ nhân lũng ngoại cửu chinh thú,

何 處 庭 前 新 別 離

Hà xứ đình tiền tân biệt ly.

失 寵 故 姬 歸 院 夜

Thất sủng cố cơ qui viện dạ,

沒 番 老 將 上 樓 時

Một phiên lão tướng thượng lâu thì.

照 他 幾 許 人 腸 斷

Chiếu tha kỷ hử nhân trường đoạn,

玉 兔 銀 蟾 遠 不 知

Ngọc thố ngân thiềm viễn bất tri.

 

Trăng giữa thu

Bóng đâu? Trong sáng vô ngần!

Sầu thêm, giận đắm cõi trần khắp nơi.

Đóng lâu đồn thú kia ai,

Biệt ly buổi mới đâu người trước sân?

Canh khuya, ai đó phi tần,

Vua không yêu nữa tần ngần về cung.

Biên thành thế giữ không xong,

Bạc đầu, ông tướng thong dong lên chòi.

Soi cho đứt ruột bao người,

Thiềm thừ, ngọc thỏ trên trời biết chi!

Ngày Nay, số 131 (8-10-1938)

 

80. Xuân giang  春 江

炎 涼 昏 曉 苦 推 遷

Viêm lương hôn hiểu khổ suy thiên

不 覺 忠 州 已 二 年

Bất giác Trung châu dĩ nhị niên,

閉 閣 只 聽 朝 暮 鼓

Bế các chỉ thinh triêu mộ cổ,

上 樓 空 望 往 來 船

Thượng lâu không vọng vãng lai thuyền.

鶯 聲 誘 引 來 花 下

Oanh thanh dụ dẫn lai hoa hạ.

草 色 勾 留 坐 水 邊

Thảo sắc câu lưu tọa thủy biên.

唯 有 春 江 看 未 厭

Duy hữu xuân giang khan vị yếm,

鶯 砂 繞 石 綠 潺 湲

Oanh sa nhiễu thạch lục sàn viên.

 

Sông xuân

Lần thâu nóng lạnh hôm mai,

Trung châu nào biết đã hai năm tròn

Sớm hôm bên gác trống dồn,

Trước lầu qua lại coi buồn thuyền xa.

Tiếng oanh rủ lại dưới hoa,

Cỏ non bến nước cho ta mải ngồi.

Sông xuân xem mãi chưa rồi,

Quẩn quanh sỏi đá cuốn trôi theo dòng.

Ngày Nay, số 104 (3-4-1939)

 

81. Lý bạch mộ 李 白 墓

采 石 江 邊 李 白 墳

Thái thạch giang biên Lý bạch phần,

遶 田 無 限 草 連 雲

Nhiễu điền vô hạn thảo liên vân.

可 憐 荒 壟 窮 泉 骨

Khả liên hoang lũng cùng tuyền cốt,

曾 有 驚 天 動 地 文

Tằng hữu kinh thiên động địa văn.

但 是 詩 人 多 薄 命

Đản thị thi nhân đa bạc mệnh,

就 中 淪 落 不 過 君

Tựu trung luân lạc bất qua quân.

 

Mộ ông Lý Bạch

Bên sông Thái Thạch mồ ai?

Vùng quanh man mác chân trời cỏ non

Gò hoang, suối thẳm, xương mòn.

Long trời lở đất hãy còn văn chương.

Làng thơ mệnh bạc thế thường,

Mà trong lẫn đẫn anh nhường ai hơn.

Ngày Nay, số 92 (2-1-1938)

 

82. Văn dạ châm  聞 夜 砧

誰 家 思 婦 秋 擣 帛

Thùy gia tư phụ thu đảo bạch,

月 苦 風 淒 砧 杵 悲

Nguyệt khổ phong thê châm chử bi.

八 月 九 月 正 長 夜

Bát nguyệt cửu nguyệt chính trường dạ,

千 聲 萬 聲 無 了 時

Thiên thanh vạn thanh vô liễu thi.

應 到 天 明 頭 盡 白

Ưng đáo thiên minh đầu tận bạch.

一 聲 添 得 一 莖 絲

Nhất thanh thiêm đắc nhất hành ti.

 

Nghe tiếng đập áo đêm

Nhà ai, cô gái nhớ chồng,

Đêm thu đập lụa, lạnh lùng gió trăng?

Chày giơ nện đá phăng phăng

Tháng tám, tháng chín, đêm hằng dài thay.

Luôn luôn nghìn vạn tiếng chày,

Chày thêm một tiếng, thêm đầy sợi tơ,

Sáng ra đầu đã trắng phơ.

Ngày Nay, số 134 (29-10-1938)

 

83. Sinh ly biệt  生 離 別

食 檗 不 易 食 梅 難

Thực bá bất dị thực mai nan,

檗 能 苦 兮 梅 能 酸

Bá năng khổ hề mai năng toan.

未 如 生 別 之 為 難

Vị như sinh biệt chi vi nan.

苦 在 心 兮 酸 在 肝

Khổ tại tâm hề toan tại can.

晨 雞 再 鳴 殘 月 沒

Thần kê tái minh tàn nguyệt một.

征 馬 連 嘶 行 人 出

Chinh mã liên tê hành nhân xuất.

回 看 骨 肉 哭 一 聲

Hồi khan cốt nhục khốc nhất thanh.

梅 酸 檗 苦 甘 如 蜜

Mai toan bá khổ cam như mật.

黃 河 水 白 黃 雲 秋

Hoàng hà thủy bạch hoàng vân thâu,

行 人 河 邊 相 對 愁

Hành nhân hà biên tương đối sầu.

天 寒 野 曠 何 處 宿

Thiên hàn dã khoáng hà xứ túc,

棠 梨 葉 戰 風 颼 颼

Đường lê diệp chiến phong sưu sưu.

生 離 別 生 離 別

Sinh ly biệt. Sinh ly biệt

憂 從 中 來 無 斷 絕

Ưu tùng trung lai vô đoạn tuyệt,

憂 極 心 勞 血 氣 衰

Ưu cực tâm lao huyết khí suy.

未 年 三 十 生 白 髮

Vị niên tam thập sinh bạch phát.

 

Biệt ly trong lúc sống

Sung, mơ ăn khó, ai ơi!

Sung ăn thời chát, mơ thời chua sao!

Chưa bằng sống biệt ly nhau,

Ruột gan chua chát lại đau bội phần.

Lần trăng gà gáy hai lần,

Hét luôn tiếng ngựa giục dần khách ra.

Trông nhau một tiếng khóc òa,

Mơ chua, sung chát như là mật ngon.

Nước sông trắng, mây vàng tuôn,

Kẻ đi người ở cơn buồn bên sông.

Ngủ đâu? Trời lạnh đồng không !

Đìu hiu ngọn gió loạn rung lá đường!

Biệt ly lúc ấy lạ nhường!

Mối lo chẳng dứt từ phương hướng nào?

Quá lo, huyết khí tiêu hao,

Chưa ba mươi tuổi tóc sao trắng rồi...

Ngày Nay, số 153 (19-11-1939)

 

84. Trường hận ca 長 恨 歌

漢 皇 重 色 思 傾 國

Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc.

御 宇 多 年 求 不 得

Ngự vũ đa niên cầu bất đắc.

楊 家 有 女 初 長 成

Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành,

養 在 深 閨 人 未 識

Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức.

天 生 麗 質 難 自 棄

5. Thiên sinh lệ chất nan tự khí,

一 朝 選 在 君 王 側

Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc.

回 眸 一 笑 百 媚 生

Hồi mâu nhất tiếu bách mị sinh,

六 宮 粉 黛 無 顏 色

Lục cung phấn đại vô nhan sắc.

春 寒 賜 浴 華 清 池

Xuân hàn tứ dục Hoa Thanh trì.

溫 泉 水 滑 洗 凝 脂

10. Ôn tuyền thủy hoạt tẩy ngưng chi.

侍 兒 扶 起 嬌 無 力

Thị nhi phù khởi kiều vô lực,

始 是 新 承 恩 澤 時

Thủy thị tân thừa ân trạch thì.

雲 鬢 花 顏 金 步 搖

Vân mấn hoa nhan kim bộ dao,

芙 蓉 帳 暖 度 春 宵

Phù dung trướng noãn độ xuân tiêu.

春 宵 苦 短 日 高 起

15. Xuân tiêu khổ đoản nhật cao khởi,

從 此 君 王 不 早 朝

Tòng thử quân vương bất tảo triều.

承 歡 侍 宴 無 閒 暇

Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ,

春 從 春 遊 夜 專 夜

Xuân tòng xuân du dạ chuyển dạ.

漢 宮 佳 麗 三 千 人

Hán cung giai lệ tam thiên nhân,

三 千 寵 愛 在 一 身

20. Tam thiên sủng ái tại nhất thân.

金 屋 妝 成 嬌 侍 夜

Kim ốc trang thành kiều thị dạ.

玉 樓 宴 罷 醉 和 春

Ngọc lâu yến bãi túy hòa xuân.

姊 妹 弟 兄 皆 列 士

Tỷ muội đệ huynh giai liệt thổ,

可 憐 光 彩 生 門 戶

Khả liên quang thái sinh môn hộ.

遂 令 天 下 父 母 心

25. Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm,

不 重 生 男 重 生 女

Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ.

驪 宮 高 處 入 青 雲

Ly cung cao xứ nhập thanh vân,

仙 樂 風 飄 處 處 聞

Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn.

緩 歌 慢 舞 凝 絲 竹

Hoãn ca mạn vũ ngưng ty trúc.

盡 日 君 王 看 不 足

30. Tận nhật quân vương khan bất túc.

漁 陽 鼙 鼓 動 地 來

Ngư Dương bề cổ động địa lai.

驚 破 霓 裳 羽 衣 曲

Kinh phá Nghê thường vũ y khúc.

九 重 城 闕 煙 塵 生

Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh,

千 乘 萬 騎 西 南 行

Thiên thặng vạn kỵ tây nam hành,

翠 華 搖 搖 行 復 止

35. Thúy hoa dao dao hành phục chỉ,

西 出 都 門 百 餘 里

Tây xuất đô môn bách dư lý.

六 軍 不 發 無 奈 何

Lục quân bất phát vô nại hà,

宛 轉 蛾 眉 馬 前 死

Uyển chuyển nga mi mã tiền tử.

花 鈿 委 地 無 人 收

Hoa điền ủy địa vô nhân thu.

翠 翹 金 雀 玉 搔 頭

40. Thúy kiều, kim tước ngọc tao đầu.

君 王 掩 面 救 不 得

Quân vương yểm diện cứu bất đắc,

回 看 血 淚 相 和 流

Hồi khan huyết lệ tương hòa lưu.

黃 埃 散 漫 風 蕭 索

Hoàng ai tản mạn phong tiêu tác,

雲 棧 縈 紆 登 劍 閣

Vân sạn oanh vu đăng Kiếm Các.

峨 嵋 山 下 少 人 行

45. Nga My sơn hạ thiểu nhân hành.

旌 旗 無 光 日 色 薄

Tinh kỳ vô quang nhật sắc bạc.

蜀 江 水 碧 蜀 山 青

Thục giang thủy bích Thục Sơn thanh.

聖 主 朝 朝 暮 暮 情

Thánh chủ triêu triêu mộ mộ tình,

行 宮 見 月 傷 心 色

Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc.

夜 雨 聞 鈴 腸 斷 聲

50. Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh,

天 旋 地 轉 迴 龍 馭

Thiên tuyền địa chuyển hồi long ngự.

到 此 躊 躇 不 能 去

Đáo thử trù trừ bất năng khứ.

馬 嵬 坡 下 泥 土 中

Mã Ngôi pha hạ nê thổ trung.

不 見 玉 顏 空 死 處

Bất kiến ngọc nhan không tử xứ

君 臣 相 顧 盡 霑 衣

55. Quân thần tương cố tận triêm y,

東 望 都 門 信 馬 歸

Đông vọng đô môn tín mã quy.

歸 來 池 苑 皆 依 舊

Quy lai trì uyển giai y cựu,

太 液 芙 蓉 未 央 柳

Thái Dịch phù dung Vị Ương liễu.

芙 蓉 如 面 柳 如 眉

Phù dung như diện liễu như mi

對 此 如 何 不 淚 垂

60. Đối thử như hà bất lệ thùy!

春 風 桃 李 花 開 日

Xuân phong đào lý hoa khai nhật,

秋 雨 梧 桐 葉 落 時

Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì.

西 宮 南 內 多 秋 草

Tây cung nam nội đa thu thảo,

落 葉 滿 階 紅 不 掃

Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo.

梨 園 子 弟 白 髮 新

65. Lê viên đệ tử bạch phát tân,

椒 房 阿 監 青 娥 老

Tiêu phòng a giám thanh nga lão.

夕 殿 螢 飛 思 悄 然

Tịch điện huỳnh phi tứ tiễu nhiên,

孤 燈 挑 盡 未 成 眠

Cô đăng khiêu tận vị thành miên.

遲 遲 鐘 鼓 初 長 夜

Trì trì chung cổ sơ trường dạ,

耿 耿 星 河 欲 曙 天

70. Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên.

鴛 鴦 瓦 冷 霜 華 重

Uyên ương ngõa lãnh sương hoa trọng

翡 翠 衾 寒 誰 與 共

Phỉ thúy khâm hàn thùy dữ cộng?

悠 悠 生 死 別 經 年

Du du sinh tử biệt kinh niên,

魂 魄 不 曾 來 入 夢

Hồn phách bất tằng lai nhập mộng.

臨 邛 道 士 鴻 都 客

75. Lâm Cùng đạo sĩ Hồng Đô khách,

能 以 精 誠 致 魂 魄

Năng dĩ tinh thành trí hồn phách.

為 感 君 王 展 轉 思

Vị cảm quân vương triển chuyển tư,

遂 教 方 士 殷 勤 覓

Toại giao phương sĩ ân cần mịch.

排 空 馭 氣 奔 如 電

Bài không ngự khí bôn như điện.

升 天 入 地 求 之 遍

80. Thăng thiên nhập địa cầu chi biến.

上 窮 碧 落 下 黃 泉

Thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền,

兩 處 茫 茫 皆 不 見

Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến.

忽 聞 海 上 有 仙 山

Hốt văn hải thượng hữu tiên sơn.

山 在 虛 無 縹 緲 間

Sơn tại hư vô phiêu diểu gian.

樓 閣 玲 瓏 五 雲 起

85. Lâu các linh lung ngũ vân khởi.

其 中 綽 約 多 仙 子

Kỳ trung xước ước đa tiên tử

中 有 一 人 字 太 真

Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân.

雪 膚 花 貌 參 差 是

Tuyết phu hoa mạo sâm si thị

金 闕 西 廂 叩 玉 扃

Kim khuyết tây sương khấu ngọc quynh.

轉 教 小 玉 報 雙 成

90. Chuyển giao Tiểu Ngọc báo Song Thành.

聞 道 漢 家 天 子 使

Văn đạo Hán gia thiên tử sứ

九 華 帳 裏 夢 魂 驚

Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh

攬 衣 推 枕 起 徘 徊

Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi

珠 箔 銀 屏 迤 邐 開

Châu bạc ngân bình dĩ lị khai

雲 髻 半 偏 新 睡 覺

95. Vân kết bán thiên tân thụy giác.

花 冠 不 整 下 堂 來

Hoa quan bất chinh há đường lai

風 吹 仙 袂 飄 飄 舉

Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử

猶 似 霓 裳 羽 衣 舞

Do tự nghê thường vũ y vũ

玉 容 寂 寞 淚 攔 干

Ngọc dung tịch mịch lệ lan can

梨 花 一 枝 春 帶 雨

100. Lê hoa nhất chi xuân đới vũ

含 情 凝 睇 謝 君 王

Hàm tình ngưng thế tạ quân vương,

一 別 音 容 兩 緲 茫

«Nhất biệt âm dung lưỡng diểu mang

昭 陽 殿 裏 恩 愛 絕

Chiêu Dương điện lý ân ái tuyệt,

蓬 萊 宮 中 日 月 長

Bồng Lai cung trung nhật nguyệt trường.

回 頭 下 望 塵 寰 處

105. Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ

不 見 長 安 見 塵 霧

Bất kiến Trường An kiến trần vụ

唯 將 舊 物 表 深 情

Duy tương cựu vật biểu thâm tình

鈿 合 金 釵 寄 將 去

Điến hap kim thoa ký tương khứ.

釵 留 一 股 合 一 扇

Thoa lưu nhất cổ, hạp nhất phiến

釵 擘 黃 金 合 分 鈿

110.Thoa phách hoàng kim hạp phân điến

但 教 心 似 金 鈿 堅

Đãn giao tâm tự kim điến kiên

天 上 人 間 會 相 見

Thiên thượng nhân gian hội tương kiến»

臨 別 殷 勤 重 寄 詞

Lâm biệt ân cần trung ký từ

詞 中 有 誓 兩 心 知

Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri:

七 月 七 日 長 生 殿

115. Thất nguyệt thất nhật Trường Sinh điện

夜 半 無 人 私 語 時

Dạ bán vô nhân tư ngữ thì

在 天 願 作 比 翼 鳥

«Tại thiên nguyện tác tị dực điểu,

在 地 願 為 連 理 枝

Tại địa nguyện vi liên lý chi»

天 長 地 久 有 時 盡

Thiên trường địa cửu hữu thì tận

此 恨 綿 綿 無 絕 期

120. Thử hận miên miên vô tận kỳ.

 

Trường hận ca

Đức vua Hán mến người khuynh quốc,

Trải bao năm tìm chuốc công tai.

Nhà Dương có gái mới choai,

Buồng xuân khóa kín chưa ai bạn cùng.

5. Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc,

Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên.

Một cười trăm vẻ thiên nhiên,

Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son.

Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm,

10. Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa.

Vua yêu bận ấy mới là,

Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay!

Vàng nhẹ bước lung lay tóc mái,

Màn phù dung ân ái đêm xuân.

15. Đêm xuân vắn vủn có ngần,

Ngai rồng từ đấy chậm phần vua ra.

Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi,

Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm.

Ba nghìn xinh đẹp chị em,

20. Ba nghìn yêu quý chất nêm một mình.

Nhà vàng đúc đêm thanh ôm ấp,

Lầu ngọc cao, say ắp bầu xuân

Anh em sướng đủ mọi phần,

Mà cho thiên hạ có lần rẻ trai.

25. Vẳng tiên nhạc khắp nơi nghe biết,

Làn gió đưa cao tít Ly cung.

Suốt ngày múa hát thung dung,

Tiếng tơ, tiếng trúc say lòng quân vương.

Ầm tiếng trống Ngư Dương kéo đến,

30. Khúc Nghê thường tan biến như không.

Chín lần thành khuyết bụi tung,

Nghìn xe muôn ngựa qua vùng tây nam.

Đi lại đứng hơn trăm dặm đất,

Cờ thúy hoa bóng phất lung lay.

35. Sáu quân dùng dắng làm rầy,

Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi!

Ai người nhặt thoa rơi bỏ đất,

Ôi! Thúy kiều ngọc nát vàng phai.

Quân vương bưng mặt cho rồi,

40. Quay đầu trông lại, máu trôi lệ giàn.

Gió tung bụi mê man tản mác,

Đường thang mây Kiếm Các lần đi,

Vắng tanh dưới núi Nga My,

Mặt trời nhạt thếch, tinh kỳ buồn tênh.

45. Đất Ba Thục non xanh nước biếc,

Lòng vua cha thương tiếc hôm mai.

Thấy trăng luống những đau người.

Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông.

Phút trời đất quay cuồng vận số,

50. Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa.

Đất bùn chỗ chết còn trơ,

Thấy đâu mặt ngọc? bây giờ Mã Ngôi!

Đầm vạt áo, vua tôi giọt lệ,

Gióng dây cương ngựa tế về đông.

55. Cảnh xưa dương liễu, phù dung,

Vị Ương, Thái Dịch hồ cung vẹn mười.

Phù dung đó! Mặt ai đâu tá?

Mày liễu đâu? Cho lá còn như!

Càng trông hoa liễu năm xưa,

60. Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm.

Xuân đòa lý gió êm hoa nở,

Thu khi mưa rụng lá ngô đồng.

Kìa Nam uyển, nọ Tây cung.

Đầy thềm ai quét lá hồng sương rơi?

65.Vườn lê cũ những ai con hát,

Mái tóc coi trắng phớt lạ lùng.

Những ai coi giữ tiêu phòng?

Mày xanh thuở ấy nay cùng già nhăn.

Trước cung điện nhìn sân đêm tối,

70. Đom đóm bay gợi mối u sầu.

Ngọn đèn khêu đã cạn dầu.

Khó thay, giấc ngủ dễ hầu ngủ xong!

Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống,

Năm canh dài chẳng giống đêm xưa.

75. Sông Ngân lấp lánh sao thưa.

Trời như muốn sáng, sao chưa sáng trời?

Trên mái ngói, sương rơi ướt lạnh,

Trong chăn nằm, bên cạnh nào ai?

Cách năm sống thác đôi nơi,

80. Thấy đâu hồn phách vãng lai giấc nồng?

Khách đạo sĩ Lâm Cùng có gã,

Chơi Hồng Đô phép lạ thần thông.

Xót vì vua chúa nhớ nhung,

Mới sai phương sĩ hết lòng ra tay.

85. Cưỡi luồng gió như bay như biến,

Trên trời xanh dưới đến đất đen.

Hai nơi bích lạc, hoàng tuyền,

Dưới trên tìm khắp, mơ huyền thấy chi!

Sực nghe nói, tìm đi mé bể,

90. Có non tiên ngoài phía hư không.

Rỡ ràng cung điện linh lung,

Xa trông năm sắc mây lồng đẹp sao!

Trong tha thướt biết bao tiên tử,

Một nàng tiên tên chữ Thái Chân.

95. Mặt hoa da tuyết trắng ngần,

Dáng như người ấy có phần phải chăng?

Mái tây gõ cửa vàng then ngọc,

Cậy đưa tin Tiểu Ngọc, Song Thành.

Nghe tin sứ giả Hán đình,

100. Cửu hoa trong trướng giật mình giấc mơ.

Cầm áo dậy, thẩn thơ buồn bực.

Mở rèm châu bình bạc lần ra.

Bâng khuâng nửa mái mây tà,

Thềm cao xuống chiếc mũ hoa lệch đầu.

105. Phới tay áo bay màu trước gió,

Giống Nghê thường khúc múa năm xưa.

Lệ giàn mặt ngọc lưa thưa,

Cành lê hoa chíu hạt mưa xuân đầm.

Ngừng nước mắt âm thầm buồn bã.

110. Đội ơn lòng, xin tạ quân vương.

Từ ngày cách trở đôi phương,

Vắng tanh tăm tiếng, mơ màng hình dong.

Nơi đế điện dứt vòng ân ái,

Chốn tiên cung thư thái tháng ngày.

115. Cõi trần ngoảnh lại mà hay,

Tràng An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ!

Lấy chi tỏ tình xưa thâm thú?

Gửi cành thoa vật cũ cầm xuôi.

Thoa vàng hộp khảm phân đôi.

120. Nửa xin để lại, nửa thời đem đi.

Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc.

Tựa thoa vàng bền chặt không phai.

Thời cho cách trở đôi nơi,

Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau.

125. Ân cần dặn mấy câu lâm biệt.

Lời thề xưa lòng biết với lòng.

Nửa đêm Trùng thất trăng trong

Trường Sinh sân điện vắng không bóng người.

Xin kết nguyện chim trời liền cánh,

130. Xin làm cây cành nhánh liền nhau.

Thấm chi trời đất dài lâu.

Giận này dằng dặc dễ hầu có nguôi...

*

Tiểu thuyết thứ bảy, số 31 (29.12.1934) & số 33 (12.1.1935)

 

LÔ ĐỒNG 盧仝 (790-835)

85. Hữu sở tư  有 所 思

當 時 我 醉 美 人 家

Đương thì ngã túy mỹ nhân gia,

美 人 顏 色 嬌 如 花

Mỹ nhân nhan sắc kiều như hoa.

今 日 美 人 棄 我 去

Kim nhật mỹ nhân khí ngã khứ

青 樓 珠 箔 天 之 涯

Thanh lâu châu bạc thiên chi nha.

娟 娟 姮 蛾 月

Quyên quyên Hằng Nga nguyệt,

三 五 二 八 盈 又 缺

Tam ngũ nhị bát doanh hựu khuyết.

翠 眉 蟬 髮 生 別 離

Thúy mi thiền phát sinh biệt ly,

一 望 不 見 心 斷 絕

Nhất vọng bất kiến tâm đoạn tuyệt.

心 斷 絕 幾 千 里

Tâm đoạn tuyệt kỷ thiên lý,

夢 中 醉 臥 巫 山 雲

Mộng trung túy ngọa Vu sơn vân.

覺 來 淚 滴 湘 江 水

Giác lai lệ trích Tương giang thủy.

湘 江 兩 岸 花 木 深

Tương giang lưỡng ngạn hoa mộc thâm.

美 人 不 見 愁 人 心

Mỹ nhân bất kiến sầu nhân tâm.

含 愁 更 奏 綠 綺 琴

Hàm sầu cánh tấu lục ỷ cầm

調 高 絃 絕 無 知 音

Điệu cao huyền tuyệt vô tri âm.

美 人 兮 美 人

Mỹ nhân hề! mỹ nhân!

不 知 為 暮 雨 兮 為 朝 雲

Bất tri vi mộ vũ hề, vi triêu vân?

相 思 一 夜 梅 花 發

Tương tư nhất dạ mai hoa phát,

忽 到 窗 前 疑 是 君

Hốt đáo song tiền, nghi thị quân?

 

Có nhớ ai ?

Hôm ta say ở nhà ai,

Mặt ai xinh đẹp, vẻ người như hoa.

Bây giờ người đẹp bỏ ta,

Lầu son rèm ngọc cách xa chân trời.

Trăng Hằng trong trẻo gương soi,

Ba năm, hai tám đầy vơi lạ gì.

Tóc vo, mày thúy chia lìa,

Đứt tươm khúc ruột chẳng vì khuất nhau.

Khuất nhau cách mấy ngàn dâu,

Để ai ruột đứt lòng đau lúc này.

Non Vu say giấc nằm mây,

Tính ra nước mắt tuôn đầy mạch Tương.

Sông Tương cây cối chen hàng,

Ngóng ai chẳng thấy, sầu thương dạ người.

Ngậm sầu gảy khúc đàn chơi,

Đàn hay dây đứt không người biết nhau.

Hỡi ơi! Người đẹp ta đâu?

Mưa chiều mây sớm, ai hầu biết ai?

Nhớ nhau suốt một đêm dài,

Trước song trắng toát hoa mai lúc nào!

Ngỡ mình chẳng phải mình sao?

Ngày Nay, số 149 (1939)

 

GIẢ ĐẢO 賈島 (779-843)

86. Tầm ẩn giả bất ngộ 尋隱者不遇

松 下 問 童 子

Tùng hạ vấn đồng tử

言 師 採 藥 去

Ngôn sư thái dược khứ.

只 在 此 山 中

Chỉ tại thử sơn trung,

雲 深 不 知 處

Vân thâm bất tri xứ.

 

Tìm nhà ẩn dật không gặp

Gốc thông hỏi chú học trò,

Rằng: «Thầy hái thuốc lò mò đi xa.

Chỉ trong dãy núi đây mà,

Mây che mù mịt biết là nơi nao?»

Ngày Nay, số 84 (7-11-1937)

 

87. Độ Tang Kiền 渡 桑 乾

客 舍 并 州 已 十 霜

Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương,

歸 心 日 夜 憶 咸 陽

Quy tâm nhật dạ ức Hàm Dương.

無 端 更 渡 桑 乾 水

Vô đoan cánh độ Tang Kiền thủy,

卻 望 并 州 是 故 鄉

Khước vọng Tinh Châu thị cố hương.

 

Qua bến Tang Kiền

Châu Tinh đất khách trải mười hè,

Hôm sớm Hàm Dương bụng nhớ về.

Qua bến Tang Kiền vô tích nữa,

Tinh Châu ngoảnh lại đã thành quê.

Ngày Nay, số 79 (3-10-1937)

 

TRIỆU HỖ 趙嘏 (810-856)

88. Giang lâu thư hoài 江 樓 書 懷

獨 上 江 樓 思 悄 然

Độc thướng giang lâu tứ tiễu nhiên,

月 光 如 水 水 如 天

Nguyệt quang như thủy, thủy như thiên.

同 來 玩 月 人 何 在

Đồng lai ngoạn nguyệt nhân hà tại,

風 景 依 稀 似 去 年

Phong cảnh y hi tự khứ niên.

 

Lầu bên sông tả hoài

Lên gác bên sông một ngậm ngùi,

Sáng trăng như nước, nước như trời.

Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?

Trăng nước như xưa chín với mười.

Ngày Nay, số 111 (22-5-1938)

 

TRỊNH CỐC 鄭 谷

89. Độc Lý Bạch thi tập  讀李白詩集

何 事 文 星 與 酒 星

Hà sự Văn tinh dữ Tửu tinh,

一 時 鐘 在 李 先 生

Nhất thời chung tại Lý tiên sinh.

高 吟 大 醉 三 千 首

Cao ngâm đại túy tam thiên thủ,

留 著 人 間 伴 月 明

Lưu trước nhân gian bạn nguyệt minh.

 

Đọc tập thơ Lý Bạch

Cớ chi sao Rượu sao Văn,

Đúc nên một Lý tiên sinh ở đời?

Ba nghìn say đọc nên bài,

Nghìn thu bạn với trăng trời sáng soi.

 

TÀO ĐƯỜNG 曹 唐

90. Lưu Nguyễn du Thiên Thai  劉 阮 遊 天 台

樹 入 天 台 石 路 新

Thụ nhập Thiên Thai thạch lộ tân,

雲 和 草 靜 迥 無 塵

Vân hòa thảo tĩnh, quýnh vô trần.

煙 霞 不 省 生 前 事

Yên hà bất tỉnh sinh tiền sự,

水 木 空 疑 夢 後 身

Thủy mộc không nghi mộng hậu thân.

往 往 雞 鳴 岩 下 月

Vãng vãng kê minh nham hạ nguyệt,

時 時 犬 吠 洞 中 春

Thời thời khuyển phệ động trung xuân.

不 知 此 地 歸 何 處

Bất tri thử địa qui hà xứ,

須 就 桃 源 問 主 人

Tu tựu Đào nguyên vấn chủ nhân.

 

Thiên Thai

Khe cây lối đá nhận đường vào,

Hoa cỏ không vương mảy bụi nào

Nhìn bóng dáng mây quên việc trước,

Trông chiều cây nước ngỡ chiêm bao

Sườn non trăng dãi gà đua gáy,

Cửa động xuân qua chó đón chào.

Muốn biết về đâu non nước ấy,

Hỏi thăm nên tới suối Hoa đào.

 

 < về trang chính > < xem phần 1 >

           © http://vietsciences.free.fr  http://vietsciences.org Lê Anh Minh