Ngủ
trong
núi
Một mình tới
ngủ non
xanh,
Lặng êm dưới
bóng trăng
thanh bước
nhìn.
Suối đâu?
Cối nước
liền bên,
Chày đâm vân
mẫu kìn kìn
tiếng đêm.
43. Trì
thượng
池 上
小 娃 撐 小 艇
Tiểu oa sanh
tiểu đĩnh,
偷 採 白 蓮 迴
Thâu thái
bạch liên
hồi,
不 解 藏 蹤 跡
Bất giải
tàng tung
tích,
浮 萍 一 道 開
Phù bình
nhất đạo
khai.
Trên
ao
Người xinh
bơi chiếc
thúng xinh,
Bông sen
trắng nõn
trắng tinh
thó về.
Hớ hênh dấu
vết không
che,
Trên ao để
một luồng
chia mặt
bèo.
Ngày Nay, số
82
(24-10-1937)
44. Chu
trung vũ dạ
舟 中 雨 夜
江 雲 闇 悠 悠
Giang vân ám
du du,
江 風 冷 修 修
Giang phong
lãnh tu tu,
夜 雨 滴 船 背
Dạ vũ trích
thuyền bối,
夜 浪 打 船 頭
Dạ lãng đả
thuyền đầu.
船 中 有 病 客
Thuyền trung
hữu bệnh
khách.
左 降 向 江 川
Tả giáng
hướng Giang
Châu.
Trong thuyền
đêm mưa
Mây sông kéo
tới đùn đùn,
Gió sông
thổi lạnh
ghê hồn
khách sông
Mưa đêm rỏ
xuống mui
bồng,
Sóng đêm dồn
vỗ long bong
mũi thuyền.
Trong thuyền
có bác ốm
rên,
Giáng quan
thẳng lối ra
miền Giang
Châu.
Ngày Nay, số
107
(24-4-1938)
45. Hữu nhân
dạ phỏng
友人夜訪
簷 間 清 風 簟
Thiềm gian
thanh phong
điệm.
松 下 明 月 盃
Tùng hạ minh
nguyệt bôi.
幽 意 正 如 此
U ý chính
như thử.
況 乃 故 人 來
Huống nãi cố
nhân lai.
Người bạn
đến thăm đêm
Thềm cao gió
mát chiếu
đan,
Chén soi
bóng nguyệt
bàng hoàng
dưới thông.
Lòng riêng
đương thú
với lòng.
Lại đâu
người cũ lạ
lùng đến
thăm.
46. Dạ vũ
夜 雨
早 蛩 啼 復 歇
Tảo cung đề
phục yết.
殘 燈 滅 又 明
Tàn đăng
diệt hựu
minh.
隔 窗 知 夜 雨
Cách song
tri dạ vũ.
芭 蕉 先 有 聲
Ba tiêu tiên
hữu thanh.
Mưa đêm
Dế giun rên
mỏi lại
ngừng,
Đèn tàn muốn
tắt lại bừng
sáng ra.
Cách song,
đêm biết mưa
sa,
Tiếng nghe
lộp bộp
chăng là tàu
tiêu.
Ngày Nay, số
130
(1-10-1938)
47. Thu
trùng
秋 蟲
切 切 闇 窗 下
Thiết thiết
ám song hạ,
喓 喓 深 草 裏
Yêu yêu thâm
thảo lý.
秋 天 思 婦 心
Thu thiên tư
phụ tâm,
雨 夜 愁 人 耳
Vũ dạ sầu
nhân nhĩ.
Trùng mùa
thu
Tiếng đâu
dưới vách
kêu ran?
Lại trong
đám cỏ nghe
càng nỉ con.
Trơi thu gái
nhớ chồng
son,
Mưa dầm đêm
vắng, ai
buồn lắng
tai.
Ngày Nay, số
124
(21-8-1938)
48. Vấn Hoài
Thủy
問 淮 水
自 嗟 名 利 客
Tự ta danh
lợi khách,
擾 擾 在 人 間
Nhiễu nhiễu
tại nhân
gian.
何 事 長 淮 水
Hà sự trường
Hoài thủy,
東 流 亦 不 閒
Đông lưu
diệc bất
nhàn?
Hỏi nước
sông Hoài
Trong vòng
danh lợi
thương ta,
Cái thân
nhăng nhít
cho qua với
đời.
Việc chi,
hỡi nước
sông Hoài?
Cũng không
thong thả,
miệt mài về
đông?
Ngày Nay, số
92
(2-1-1938)
49. Tảo thu
độc dạ
早 秋 獨 夜
井 梧 涼 葉 動
Tỉnh ngô
lương diệp
động,
鄰 杵 秋 聲 發
Lân chử thu
thanh phát.
獨 向 簷 下 眠
Độc hướng
thiềm hạ
miên.
覺 來 半 床 月
Giác lai bán
sàng nguyệt.
Mùa thu sớm,
đêm một mình
Giếng vàng
lay động lá
ngô,
Mỏ chày hàng
xóm tiếng
thu đã
truyền...
Một mình ngủ
dưới mái
hiên,
Tỉnh ra
trăng sáng
một bên
giường nằm.
Ngày Nay, số
126
(2-9-1938)
50. Thu mộ
giao cư thư
hoài
秋 暮 郊 居 書 懷
郊 居 人 事 少
Giao cư nhân
sự thiểu,
晝 臥 對 林 巒
Trú ngọa đối
lâm man.
窮 巷 厭 多 雨
Cùng hạng
yếm đa vũ,
貧 家 愁 早 寒
Bần gia sầu
tảo hàn.
葛 衣 秋 未 換
Cát y thu vị
hoán,
書 卷 病 仍 看
Thư quyển
bịnh nhưng
khan.
若 問 生 涯 計
Nhược vấn
sinh nhai
kế,
前 溪 一 釣 竿
Tiền khê
nhất điếu
can.
Cuối thu,
cảnh ở quê
Ở quê, thưa
ít việc
người,
Giữa trưa
nằm khểnh,
ngắm coi núi
đèo.
Ngõ sâu ngán
nỗi mưa
nhiều,
Lạnh lùng
chi sớm,
cảnh nghèo
thêm lo.
Áo lương còn
mặc mùa thu,
Ốm đau, sách
vẫn đôi pho
chẳng rời.
Lấy chi qua
sống ngày
trời?
Một cần câu
để bên ngòi
ngồi câu.
Ngày Nay, số
135
(5-11-1938)
51. Thu
giang tống
khách
秋 江 送 客
秋 鴻 次 第 過
Thu hồng thứ
đệ quá,
哀 猿 朝 夕 聞
Ai viên
triêu tịch
văn.
是 日 孤 舟 客
Thị nhật cô
chu khách,
此 地 亦 離 群
Thử địa diệc
ly quần.
濛 濛 潤 衣 雨
Mông mông
nhuận y vũ,
漠 漠 冒 帆 雲
Mạc mạc mạo
phàm vân,
不 醉 潯 陽 酒
Bất túy Tầm
Dương tửu,
煙 波 愁 殺 人
Yên ba sầu
sát nhân.
Sông thu
tiễn khách
Nhàn thu lần
lượt bay
qua,
Thảm thương
tiếng vượn
hôm đà lại
mai.
Ngày nay một
chiếc thuyền
ai,
Nước non này
cũng chia
phôi cách
đàn.
Mưa đầm vạt
áo như chan,
Buồm đi, man
mác mây ngàn
đón ngang.
Chẳng say
chén rượu
Tầm Dương,
Khỏi sao
sóng, khói
sầu thương
chết người.
Ngày Nay, số
129
(24-9-1938)
52. Thảo
草
離 離 原 上 草
Ly ly nguyên
thượng thảo,
一 歲 一 枯 榮
Nhất tuế
nhất khô
vinh,
野 火 燒 不 盡
Dã hỏa thiêu
bất tận,
春 風 吹 又 生
Xuân phong
xuy hựu
sinh.
遠 芳 侵 古 道
Viễn phương
xâm cổ đạo,
晴 翠 接 荒 城
Tình thúy
tiếp hoang
thành
又 送 王 孫 去
Hựu tống
Vương tôn
khứ
萋 萋 滿 別 情
Thê thê mãn
biệt tình.
Cỏ
Đồng cao cỏ
mọc như
chen,
Khô tươi
thay đổi hai
phen năm
tròn.
Lửa đồng
thiêu cháy
vẫn còn,
Gió xuân
thổi tới mầm
non lại
trồi.
Xa xa thơm
ngát dặm
dài,
Thành hoang
láng biếc
khi trời
tạnh mưa.
Vương, Tôn
đi lại tiễn
đưa,
Biết bao
tình biệt
đầm đìa lướt
theo.
Ngày Nay, số
86
(21-11-1937)
53. Họa Đỗ
lục sự đề
hồng diệp
和 杜 錄 事 題 紅
葉
寒 山 十 月 旦
Hàn sơn thập
nguyệt đán,
霜 葉 一 時 新
Sương diệp
nhất thời
tân.
似 燒 非 因 火
Tự thiêu phi
nhân hỏa,
如 花 不 待 春
Như hoa bất
đãi xuân.
連 行 排 降 葉
Liên hàng
bài giáng
diệp,
亂 落 剪 紅 巾
Loạn lạc
tiễn hồng
cân.
解 駐 籃 轝 看
Giải trụ lam
dư khán,
風 前 唯 兩 人
Phong tiền
duy lưỡng
nhân.
Họa thơ ông
Lục sự họ Đỗ
vịnh lá đỏ
Lạnh lùng
buổi sáng
tháng mười,
Lá sương
phơi núi
cùng thời
mới sao!
Như thiêu
chẳng lửa mà
thiêu,
Như hoa
chẳng đợi
xuân nào mới
hoa.
Liền hàng,
màn tía bày
ra,
Rơi tung,
xếp nếp khăn
là đỏ ghê!
Muốn xem,
dừng xuống
kiệu tre,
Đứng chơi
ngọn gió chỉ
ta hai
người.
Ngày Nay, số
139
(XII–1938)
54. Ký Vi
Chi
寄 微 之
江 州 望 通 州
Giang Châu
vọng Thông
Châu,
天 涯 與 地 末
Thiên nhai
dữ địa mạt.
有 山 萬 丈 高
Hữu sơn vạn
trượng cao,
有 江 千 里 闊
Hữu giang
thiên lý
khoát.
間 之 以 雲 霧
Gián chi dĩ
vân vụ,
飛 鳥 不 可 越
Phi điểu bất
khả việt.
誰 知 千 古 險
Thùy tri
thiên cổ
hiểm,
為 我 二 人 設
Vị ngã nhị
nhân thiết.
通 州 君 初 到
Thông Châu
quân sơ đáo,
鬱 鬱 愁 如 結
Uất uất sầu
như kết.
江 州 我 方 去
Giang châu
ngã phương
khứ,
迢 迢 行 未 歇
Thiều thiều
hành vị yết.
道 路 日 乖 隔
Đạo lộ nhật
quai cách.
音 信 日 斷 絕
Âm tín nhật
đoạn tuyệt.
因 風 欲 寄 語
Nhân phong
dục ký ngữ,
地 遠 聲 不 徹
Địa viễn
thanh bất
triệt.
生 當 復 相 逢
Sinh đương
phục tương
phùng.
死 當 從 此 別
Tử đương
tòng thử
biệt!
Gửi bạn Vi
Chi
Châu Giang
mà ngóng
Châu Thông,
Chân trời
cuối đất
mênh mông
thấy nào?
Núi đâu muôn
trượng kìa
cao,
Sông đâu
ngàn dặm
rộng sao
rộng mà!
Mây che mù
tỏa bao la,
Chim bay
cũng chẳng
vượt qua
khỏi tầm.
Hiểm xưa còn
đó ngàn năm,
Ai hay trời
để chơi khăm
đôi người.
Châu Thông
bác mới tới
nơi,
Mối sầu như
thắt ngậm
ngùi chiếc
thân.
Châu Giang
tôi mới đi
dần,
Nẻo đi xa
lắc chưa
phần đã
ngơi.
Quan hà ngày
một chia
khơi,
Tăm hơi ngày
bẵng tăm hơi
một ngày.
Gió đưa muốn
gửi câu này,
Tiếng không
suốt đến vì
mày đất xa.
Sống còn gặp
gỡ đôi ta,
Ví chăng
chết mất
thôi là biệt
nhau.
55. Dĩ kính
tặng biệt
以 鏡 贈 別
人 言 似 明 月
Nhân ngôn tự
minh nguyệt,
我 道 勝 明 月
Ngã đạo
thắng minh
nguyệt.
明 月 非 不 明
Minh nguyệt
phi bất
minh,
一 年 十 二 缺
Nhất niên
thập nhị
khuyết.
豈 如 玉 匣 裡
Khởi như
ngọc hạp lý,
如 水 常 澄 澈
Như thủy
thường trừng
triệt,
月 破 天 闇 時
Nguyệt phá
thiên ám
thời,
圓 明 獨 不 歇
Viên minh
độc bất yết.
我 慚 貌 醜 老
Ngã tâm mạo
xú lão,
繞 鬢 班 班 雪
Nhiễu mấn
ban ban
tuyết,
不 如 贈 少 年
Bất như tặng
thiếu niên,
迴 照 青 絲 髮
Hồi chiếu
thanh ty
phát,
因 君 千 里 去
Nhân quân
thiên lý
khứ,
持 此 將 為 別
Trì thử
tương vi
biệt.
Lấy gương
làm quà tặng
biệt
Ai rằng:
gương sáng
như trăng,
Ta rằng:
trăng sáng
chưa bằng
gương soi.
Trăng kia
thật sáng
vẹn mười,
Một năm lại
khuyết mười
hai bận đầy.
Sao bằng
trong hộp
ngọc này,
Trong như
nước đứng
ngày ngày
năm năm.
Nào khi
trăng khuyết
trời âm.
Gương đầy
tròn sáng
như rằm
trăng soi.
Buồn ta già
xấu hơn
người,
Đốm quanh
mái tóc bời
bời tuyết
in.
Chẳng bằng
cho bạn
thanh niên,
Để soi tóc
trẻ xanh rền
sợi tơ.
Anh nay
nghìn dặm đi
xa,
Cầm gương ta
để làm quà
tiễn nhau.
Ngày Nay, số
114
(12.6.1938)
56. Tự Giang
Lăng chi Từ
Châu
lộ thượng ký
huynh đệ
自 江 陵 之 徐 州
路 上 寄 兄 弟
岐 路 南 將 北
Kỳ lộ nam
tương bắc,
離 憂 弟 與 兄
Ly ưu đệ dữ
huynh.
關 河 千 里 別
Quan hà
thiên lý
biệt,
風 雪 一 身 行
Phong tuyết
nhất thân
hành.
夕 宿 勞 鄉 夢
Tịch túc lao
hương mộng,
晨 裝 慘 旅 情
Thần trang
thảm lữ
tình.
家 貧 憂 後 事
Gia bần ưu
hậu sự,
日 短 念 前 程
Nhật đoản
niệm tiền
trình.
煙 雁 翻 寒 渚
Yên nhạn
phiên hàn
chử,
霜 烏 聚 古 城
Sương ô tụ
cổ thành.
誰 憐 陟 岡 者
Thùy liên
trắc cương
giả,
西 楚 望 南 荊
Tây Sở vọng
Nam Kinh.
Từ Giang
Lăng đi Từ
Châu
trên đường
gửi cho anh
em
Đường kia
sắp bắc từ
nam,
Mối lo ly
biệt anh em
cùng sầu.
Quan hà ngàn
dặm xa nhau,
Người đi gió
tuyết dãi
dầu một
thân.
Hồn quê nhọc
giấc đêm
xuân,
Sắm sanh
hành lý tần
ngần sớm
mai.
Nhà nghèo lo
tính xa xôi,
Đường xa
nghĩ nỗi
ngày trời
ngắn không.
Nhạn sa bến
lạnh khói
lồng
Thành xưa lũ
quạ họp
trong sương
mờ.
Ai thương kẻ
bước lên gò?
Sở Tây trông
ngóng bây
giờ Kinh
Nam.
Ngày Nay, số
101
(13.3.1938)
57. Tùng
thanh
松 聲
月 好 好 獨 坐
Nguyệt hảo,
hảo độc tọa,
雙 松 在 前 軒
Song tùng
tại tiền
hiên.
西 南 微 風 來
Tây nam vi
phong lai,
潛 入 枝 葉 間
Tiềm nhập
chi diệp
gian,
蕭 寥 發 為 聲
Tiêu liêu
phát vi
thanh,
半 夜 明 月 前
Bán dạ minh
nguyệt tiền,
寒 山 颯 颯 雨
Hàn sơn táp
táp vũ
秋 琴 冷 冷 絃
Thu cầm lãnh
lãnh huyền.
一 聞 滌 炎 暑
Nhất văn
địch viêm
thử,
再 聽 破 昏 煩
Tái thính
phá hôn
phiền.
竟 夕 遂 不 寐
Cánh tịch
toại bất mị,
心 體 俱 翛 然
Tâm thể câu
diểu nhiên.
南 陌 車 馬 動
Nam mạch xa
mã động,
西 鄰 歌 吹 繁
Tây lân ca
xúy phồn,
誰 知 茲 簷 下
Thùy tri tư
thiềm hạ,
滿 耳 不 為 喧
Mãn nhĩ bất
vi huyên.
Tiếng thông
reo
Trăng trong
ngồi mát một
mình,
Hai cây
thông đứng
hữu tình
trước hiên
Nhẹ nhàng
cơn gió đưa
lên,
Luồn cành
lá, đến tự
miền tây
nam.
Bóng trăng
sáng nửa
chừng đêm,
Lào rào nghe
tiếng gió
làm tuôn
đưa.
Ào ào núi
rét sa mưa,
Đờn cầm thu
nảy dây tơ
lạnh lùng.
Một nghe,
rửa sạch cơn
nồng,
Hai nghe bức
bối trong
lòng phá
tan.
Thâu đêm
thức mãi bàn
hoàn,
Dạ khoan
khoái dạ,
mình khoan
khoái mình.
Đường nam xe
ngựa rình
rình,
Xóm tây
tiếng hát,
tiếng sênh
rộn ràng.
Ai hay này
chỗ hành
lang,
Đầy tai nghe
vẫn êm
thường như
không
Ngày Nay, số
127
(11.9.1938)
58. Thu san
秋 山
久 病 曠 心 賞
Cửu bệnh
khoáng tâm
thưởng.
今 朝 一 登 山
Kim triêu
nhất đăng
san.
山 秋 雲 物 冷
San thu vân
vật lãnh,
稱 我 清 羸 顏
Xứng ngã
thanh luy
nhan.
百 石 臥 可 枕
Bạch thạch
ngọa khả
trẩm,
青 蘿 行 可 攀
Thanh la
hành khả
phan.
意 中 如 有 得
Ý trung như
hữu đắc,
盡 日 不 欲 還
Tận nhật bất
dục hoàn.
人 生 無 幾 何
Nhân sinh vô
kỷ hà,
如 寄 天 地 間
Như ký thiên
địa gian.
心 有 千 載 憂
Tâm hữu
thiên tải
ưu,
身 無 一 日 閑
Thân vô nhất
nhật nhàn.
何 時 解 塵 網
Hà thời giải
trần võng,
此 地 來 掩 關
Thử địa lai
yểm quan.
Núi mùa thu
Ốm lâu, nằm
mãi buồn
sao!
Sáng nay ta
mới lên cao
hỡi lòng.
Màu thu, mây
núi lạnh
lùng.
Thanh hao
nét mặt, ưa
cùng ta đây.
Nằm gối đá,
đi vin dây,
Dây xanh đá
trắng đẹp
thay cảnh
tình!
Thú vui
trong dạ một
mình,
Thâu ngày
quên tưởng
cái hình về
đâu.
Người ta
sống có bao
lâu,
Ở trong trời
đất cùng
nhau tạm
thời.
Mối lo mang
lấy nghìn
đời,
Một ngày
chẳng được
hơi rồi tấm
thân.
Bao giờ giũ
sạch lụy
trần?
Lại đây đóng
cửa vui phần
núi non.
Ngày Nay, số
126
(4.9.1938)
59. Vọng
giang lâu
thượng tác
望 江 樓 上 作
江 畔 百 尺 樓
Giang bạn
bách xích
lâu,
樓 前 千 里 道
Lâu tiền
thiên lý
đạo.
憑 高 望 平 遠
Bằng cao
vọng bình
viễn,
亦 足 舒 懷 抱
Diệc túc thư
hoài bão.
驛 路 使 憧 憧
Dịch lộ sứ
đồng đồng.
關 防 兵 草 草
Quan phòng
binh thảo
thảo.
及 茲 多 事 日
Cập tư đa sự
nhật,
猶 覺 閒 人 好
Do giác nhàn
nhân hảo.
我 年 過 不 惑
Ngã niên quá
bất hoặc,
休 退 誠 非 早
Hưu thoái
thành phi
tảo.
從 此 拂 塵 衣
Tòng thử
phất trần y.
歸 山 未 為 老
Qui sơn vị
vi lão.
Trên lầu
trông ra
sông
Bờ sông trăm
thước lầu
cao,
Trước lầu
nghìn dặm đi
đâu con
đường?
Tựa cao
trông xuống
dặm trường,
Mà trong
bụng nghĩ
như nhường
khoan thư.
Đường quan
rộn kẻ đưa
thư,
Quân gia láo
nháo ngẩn
ngơ canh
phòng.
Cuộc đời gặp
lúc rối
tung,
Riêng ai ở
cảnh thong
dong càng
mầu.
Đã hơn bốn
chục tuổi
đầu,
Từ nay về
nghỉ ngõ hầu
phải thôi.
Từ nay giũ
áo trần ai.
Non xanh
tình thú vui
chơi chửa
già...
60. Tặng nội
贈 內
生 為 同 室 親
Sinh vi đồng
thất thân,
死 為 同 穴 塵
Tử vi đồng
huyệt trần.
他 人 尚 相 勉
Tha nhân
thượng tương
miễn,
而 況 我 與 君
Nhi huống
ngã dữ quân.
黔 婁 固 窮 士
Kiềm Lâu cố
cuồng sĩ,
妻 賢 忘 其 貧
Thê hiền
vong kỳ bần.
冀 缺 一 農 夫
Ký Khuyết
nhất nông
phu,
妻 敬 儼 如 賓
Thê kính
nghiễm như
tân.
陶 潛 不 營 生
Đào Tiềm bất
doanh sinh,
翟 氏 自 爨 薪
Địch thị tự
thoán tân.
梁 鴻 不 旨 仕
Lương Hồng
bất khẳng
sĩ,
孟 光 甘 布 裙
Mạnh Quang
cam bố quần.
君 雖 不 讀 書
Quân tuy bất
độc thư,
此 事 耳 亦 聞
Thử sự nhĩ
diệc văn.
至 此 千 載 後
Chí thử
thiên tải
hậu,
傳 是 何 如 人
Truyền thị
hà như nhân?
人 生 未 死 間
Nhân sinh vị
tử gian.
不 能 忘 其 身
Bất năng
vong kỳ
thân.
所 須 者 衣 食
Sở tu giả y
thực,
不 過 飽 與 溫
Bất quá bão
dữ ôn.
蔬 食 足 充 飢
Sơ tự túc
sung cơ,
何 必 膏 梁 珍
Hà tất cao
lương trân?
繒 絮 足 禦 寒
Tăng nhứ túc
ngự hàn,
何 必 錦 繡 文
Hà tất cẩm
tú văn?
君 家 有 貽 訓
Quân gia hữu
di huấn,
清 白 遺 子 孫
Thanh bạch
di tử tôn.
我 亦 貞 苦 士
Ngã diệc
trinh khổ
sĩ,
與 君 新 結 婚
Dữ quân tân
kết hôn.
庶 保 貧 與 素
Thứ bảo bần
dữ tố,
偕 老 同 欣 欣
Giai lão
đồng hân
hân.
Thơ đưa vợ
Tình lúc
sống một nhà
cùng ở,
Chết ra tro,
một hố cùng
chung.
Khuyên nhau
thiên hạ
cũng cùng.
Nữa chi mình
vợ, ta chồng
cùng nhau?
Kìa như gã
Kiềm Lâu
cùng sĩ,
Cảnh nhà
nghèo vợ
nghĩ như
không.
Nông phu Ký
Khuyết cày
đồng,
Vợ chàng quý
trọng coi
chồng khách
sang.
Đào Tiềm
chẳng lòng
toan sinh
lý,
Củi nấu ăn,
Địch thị
kiếm dần.
Lương Hồng
quan chẳng
chịu mần,
Mạnh Quang
chỉ vải may
quần cũng
ưa,
Mình dẫu đọc
sách xưa
không mấy,
Các truyện
kia hẳn thấy
quen tai.
Nghìn năm
còn lại ở
đời,
Đến nay cùng
nói là người
như sao?
Người chưa
chết lúc nào
còn sống,
Chẳng ai mà
quên bỗng
được thân,
Cái ăn cái
mặc là cần.
Cũng sao no
ấm qua lần
là xong.
Cơm rau đủ
no lòng lúc
đói.
Có cần chi
thức tối cao
lương,
Lụa the, rét
đủ mặc
thường,
Cần chi áo
gấm xông
hương vẽ
vời?
Nhà mình có
để đời câu
dạy:
Lấy “sạch
trong” cho
lại cháu
con.
Ta đây cũng
một lòng
son.
Cùng nàng
buổi mới
vuông tròn
thất gia,
Giữ sao
nghèo sạch
nếp nhà,
Cùng nhau
cho đến tuổi
già cùng
vui.
Ngày Nay, số
108
(1.5.1938)
61. Khinh
phì
輕 肥
意 氣 驕 滿 路
Ý khí kiêu
mãn lộ,
鞍 馬 光 照 塵
Yên mã quang
chiếu trần
借 問 何 為 者
Tá vấn hà vi
giả,
人 稱 是 內 臣
Nhân xưng
thị nội
thần.
朱 紱 皆 大 夫
Chu phất
giai đại phu
紫 綬 或 將 軍
Tử thụ hoặc
tương quân
誇 赴 軍 中 宴
Khoa phó
quân trung
yến.
走 馬 去 如 雲
Tẩu mã khứ
như vân.
樽 罍 溢 九 醞
Tôn lôi dật
cửu uấn,
水 陸 羅 八 珍
Thủy lục la
bát trân.
果 擘 洞 庭 橘
Quả phách
Đỗng Đình
quất,
膾 切 天 池 鱗
Khoái thiết
Thiên Trì
lân.
食 飽 心 自 苦
Thực bão tâm
tự nhược,
酒 酣 氣 益 振
Tửu hàm khí
ích chân.
是 歲 江 南 旱
Thị tuế
Giang Nam
hạn,
衢 州 人 食 人
Cù Châu nhân
thực nhân.
Nhẹ béo
Đầy đường
dáng bộ con
cưng,
Ngựa yên
bóng nhoáng
sáng trưng
bụi hồng.
Hỏi: Làm chi
đó những
ông?
Người ta
rằng lũ quan
trong đó mà.
Dải điều đều
Đại phu ta,
Mà đeo dải
tía hoặc là
Tướng quân
Khuênh
khoang đi
chén trong
quân,
Rộn ràng vó
ngựa chạy
vần như mây.
Vò, ang chín
thứ rượu
đầy,
Hải sơn tám
bát cỗ bày
linh tinh.
Quả dâng
quít hái
Động Đình,
Cá Thiên Trì
thái, đơm
thành gỏi
ngon.
Ăn no khoan
khoái tâm
hồn,
Rượu say, ý
khí hùng hồn
càng thêm.
Năm nay hạn
hán Giang
Nam,
Cù Châu
người mổ
người làm
thức ăn.
Ngày Nay, số
102
(27-3-1938)
62. Văn khốc
giả
聞 哭 者
昨 日 南 鄰 哭
Tạc nhật nam
lân khốc,
哭 聲 一 何 苦
Khốc thanh
nhất hà khổ?
云 是 妻 哭 夫
Vân thi thê
khốc phu.
夫 年 二 十 五
Phu niên nhị
thập ngũ,
今 朝 北 里 哭
Kim triêu
bắc lý khốc,
哭 聲 又 何 切
Khốc thanh
hựu hà
thiết!
云 是 母 哭 兒
Vân thị mẫu
khốc nhi,
兒 年 十 七 八
Nhi niên
thập thất
bát.
四 鄰 尚 如 此
Tứ lân
thượng như
thử,
天 下 多 夭 折
Thiên hạ đa
yểu chiết.
乃 知 浮 世 人
Nãi tri phù
thế nhân.
少 得 垂 白 髮
Thiểu đắc
thùy bạch
phát?
余 今 過 四 十
Dư kim quá
tứ thập,
念 彼 聊 自 悅
Niệm bỉ,
liêu tự
duyệt.
從 此 明 鏡 中
Tùng thử
minh kính
trung
不 嫌 頭 似 雪
Bất hiềm đầu
tự tuyết.
Nghe người
khóc
Mới hôm nọ,
xóm nam
người khóc,
Tiếng khóc
sao đau độc
nỗi lòng?
Rằng: Đâu là
vợ khóc
chồng,
Chồng hai
nhăm tuổi,
khuất vòng
nhân gian,
Sớm nay lại
khóc than
xóm bắc,
Tiếng khóc
sao ruột
thắt từng
cơn?
Rằng: Đâu là
mẹ khóc con,
Con mười
bảy, tám,
chết còn
tuổi xanh.
Bốn hàng xóm
chung quanh
như thế.
Khắp thế
gian chết
trẻ còn
nhiều.
Mới hay
người thế
bao nhiêu,
Trắng phơ
mái tóc dễ
nào mấy ai?
Ta nay tuổi
có ngoài bốn
chục,
Nghĩ ai kia,
thôi cũng
vui lòng.
Từ nay trong
bức gương
trong,
Đầu ta ngỡ
tuyết, ta
không quản
gì.
Ngày Nay, số
105
(10-4-1938)
63. Tam niên
biệt
三 年 別
悠 悠 一 別 已 三
年
Du du nhất
biệt dĩ tam
niên,
相 望 相 思 明 月
天
Tương vọng
tương tư
minh nguyệt
thiên,
腸 斷 青 天 望 明
月
Trường đoạn
thanh thiên
vọng minh
nguyệt,
別 來 三 十 六 回
園
Biệt lai tam
thập lục hồi
viên.
Xa nhau ba
năm
Xa nhau một
chuyến ba
năm,
Ngóng nhau
chung bóng
trăng rằm
nhớ nhau.
Trời xanh,
trăng sáng,
lòng đau,
Ba mươi sáu
độ trước sau
trăng tròn!
64. Thính
biên hồng
聽 邊 鴻
驚 風 吹 起 塞 鴻
群
Kính phong
xuy khởi tái
hồng quần,
半 入 平 沙 半 入
雲
Bán nhập
bình sa bán
nhập vân.
為 問 昭 君 月 下
聽
Vị vấn Chiêu
Quân nguyệt
hạ thính,
何 如 蘇 武 雪 中
聞
Hà như Tô Vũ
tuyết trung
văn?
Nghe chim
hồng ngoài
biên ải
Đàn hồng rợn
gió ngoài
biên,
Nửa sa cát
bể, nửa lên
mây trời.
Chiêu Quân,
Tô Vũ nghe
chơi,
Dưới trưng,
trong tuyết
đôi nơi thế
nào?
Ngày Nay, số
118
(10-7-1938)
65. Tự
khuyến
自 勸
憶 昔 饑 貧 應 舉
年
Ức tích cơ
bần ứng cử
niên,
脫 衣 典 酒 曲 江
邊
Thoát y điển
tửu Khúc
Giang biên.
十 千 一 斗 猶 奢
飲
Thập thiên
nhất đẩu do
xa ẩm,
何 況 官 供 不 值
錢
Hà huống
quan cung
bất trị
tiền.
Tự khuyên
mình
Nhớ xưa
nghèo túng
lúc khoa
thi.
Bến Khúc
thèm men, cố
áo đi.
Đấu rượu
muôn đồng
quen uống
đắt.
Nữa chi lộc
nước mất
tiền chi!
66. Lâm
Giang tống
Hạ Chiêm
臨 江 送 夏 瞻
悲 君 老 別 淚 沾
巾
Bi quân lão
biệt lệ
chiêm cân,
七 十 無 家 萬 里
身
Thất thập vô
gia vạn lý
thân.
愁 見 舟 行 風 又
起
Sầu kiến chu
hành phong
hựu khởi,
白 頭 浪 裡 白 頭
人
Bạch đầu
lãng lý bạch
đầu nhân.
Tới sông
tiễn Hạ
Chiêm
Muôn dặm
thương anh,
lệ biệt sầu,
Bảy mươi
tuổi tác cửa
nhà đâu?
Buồn trông
trận gió
theo thuyền
nổi,
Sóng bạc đầu
quanh khách
bạc đầu.
Ngày Nay, số
124
(21-8-1938)
67. Đại Lâm
tự đào hoa
大 林 寺 桃 花
人 間 四 月 芳 菲
盡
Nhân gian tứ
nguyệt
phương phi
tận,
山 寺 桃 花 始 盛
開
Sơn tự đào
hoa thủy
thịnh khai.
長 恨 春 歸 無 覓
處
Trường hận
xuân qui vô
mịch xứ,
不 知 轉 入 此 中
來
Bất tri
chuyển nhập
thử trung
lai.
Hoa đào chùa
Đại Lâm
Tháng tư hoa
đã hết mùa,
Hoa đào rực
rỡ cảnh chùa
mới nay.
Xuân về kín
chốn ai hay,
Biết đâu lẩn
khuất trong
này núi non.
Ngày Nay, số
112
(29-5-1938)
68. Giang
thượng địch
江上笛
江 上 何 人 夜 吹
笛
Giang thượng
hà nhân dạ
xuy địch,
聲 聲 似 憶 故 園
春
Thanh thanh
tự ức cố
viên xuân,
此 時 聞 者 堪 頭
白
Thử thời văn
giả kham đầu
bạch,
況 是 多 愁 少 睡
人
Huống thị đa
sầu thiểu
thụy nhân.
Sáo trên
sông
Đêm, ai thổi
sáo trên
sông,
Vườn xuân
tiếng tiếng
gửi lòng ai
đâu?
Ai nghe,
luống những
bạc đầu,
Nữa chi ít
ngủ, nhiều
sầu như ai?
Ngày Nay, số
123
(14-8-1938)
69. Vương
Chiêu Quân
王昭君
滿 面 朝 沙 滿 鬢
風
Mãn diện Hồ
sa mãn mấn
phong,
眉 銷 殘 黛 臉 銷
紅
Mi tiêu tàn
đại kiểm
tiêu hồng,
愁 苦 辛 勤 憔 悴
盡
Sầu khổ tân
cần tiều tụy
tận.
如 今 卻 似 畫 圖
中
Như kim
khước tự họa
đồ trung.
Vương Chiêu
Quân
Cát Hồ đầy
mặt, gió đầy
tai,
Mực nhạt mày
xanh, má đỏ
phai.
Khổ sở lo
buồn tiều
tụy thế,
Mới là tranh
vẽ giống như
ai.
Ngày Nay, số
99
(27-2-1938)
70. Đại mại
tân nữ tặng
chư kỹ
代 賣 薪 女 贈 諸
妓
亂 蓬 為 鬢 布 為
巾
Loạn bồng vi
mấn, bố vi
cân,
曉 蹋 寒 山 自 負
薪
Hiểu đạp hàn
sơn tự phụ
tân,
一 種 錢 塘 江 畔
女
Nhất chung
Tiền Đường
giang bạn
nữ,
著 紅 騎 馬 是 何
人
Trước hồng
kỵ mã thị hà
nhân?
Thay lời chị
bán củi tặng
các kỹ nữ
Đầu bù khăn
vải trùm
tai,
Trèo non
gánh củi
sương mai
lạnh lùng,
Tiền Đường
cũng gái bên
sông.
Mà đâu yên
ngựa quần
hồng là ai?
71. Túc
chương đình
dịch
宿樟亭驛
夜 半 樟 亭 驛
Dạ bán
Chương Đình
dịch,
愁 人 起 望 鄉
Sầu nhân khỉ
vọng hương.
明 月 何 所 見
Nguyệt minh
hà sở kiến,
潮 水 白 茫 茫
Trào thủy
bạch mang
mang.
Ngủ nhà trạm
Chương Đình
Nửa đêm ở
trạm Chương
Đình,
Người buồn
trở dậy nặng
tình hương
quan
Dưới trăng
trông ngóng
lan man,
Nước trào
trắng xóa
một làn
trăng soi.
Ngày Nay, số
148 (1939)
72. Đông chí
túc Dương
Mai quán
冬 至 宿 楊 梅 館
十 一 月 中 長 至
夜
Thập nhất
nguyệt trung
trường chí
dạ,
三 千 里 外 遠 行
人
Tam thiên lý
ngoại viễn
hành nhân
若 為 獨 宿 楊 梅
館
Nhược vi độc
túc Dương
Mai quán,
冷 枕 單 床 一 病
身
Lãnh chẩm
đan sàng
nhất bệnh
thân.
Hôm đông chí
ngủ ở quán
Dương Mai
Dài nhất một
đêm trong
tháng một,
Ngoài ba
nghìn dặm kẻ
đi xa
Dương Mai
quán khách
mình ai ngủ,
Gối lạnh
giường đơn
ốm thế mà.
Ngày Nay, số
148 (1939)
73. Khuê oán
từ
閨 怨 詞
朝 憎 鶯 百 囀
Triêu tăng
oanh bách
chuyển,
夜 妒 燕 雙 棲
Dạ đố yến
song thê
不 慣 經 春 別
Bất quán
kinh xuân
biệt,
唯 知 到 曉 啼
Duy tri đáo
hiểu đề.
Lời oán của
buồng the
Ríu rít tan
sương ghét
cái oanh,
Đêm ghen cặp
én đỗ chung
cành
Chẳng quen
ly biệt xuân
qua trải,
Chỉ biết kêu
hoài lúc
sang banh.
Ngày Nay, số
153 (1939)
74. Hí đề
tân tài
tường vi
戲 題 新 栽 薔 薇
移 根 易 地 莫 憔
悴
Di căn dịch
địa mạc tiều
tụy,
野 外 庭 前 一 種
春
Dã ngoại
đình tiền
nhất chủng
xuân
少 府 無 妻 春 寂
寞
Thiếu phủ vô
thê xuân
tịch mịch,
花 開 相 爾 當 夫
人
Hoa khai
tương nhĩ
đáng phu
nhân.
Đề bỡn cây
tường vi mới
trồng
Chớ chi dời
đổi mang
sầu,
Trước sân
ngoài ruộng
chung màu
một xuân
Quan đây
không vợ,
buồn xuân,
Tường vi hoa
nở phu nhân
là mày.
Ngày Nay, số
153 (1939)
75. Ký Tương
Linh
寄 湘 靈
淚 眼 凌 寒
凍 不 流
Lệ nhãn lăng
hàn đống bất
lưu,
每 經 高 處 即 回
頭
Mỗi kinh cao
xứ tức hồi
đầu.
遙 知 別 後 西 樓
上
Dao tri biệt
hậu tây lâu
thượng,
應 憑 欄 杆 獨 自
愁
Ưng nhẫm lan
can độc tự
sầu.
Gửi cho
Tương Linh
Lạnh rơi
nước mắt
cóng không
trôi,
Ngoảnh lại
đòi khi bước
núi đồi
Xa biết lầu
tây sau lúc
biệt,
Lan can buồn
tựa một mình
ai!
Ngày Nay, số
150 (1939)
76. Giang
lâu vãn
thiếu cảnh
vật tiên kỳ
ngâm ngoạn
thành thiên
ký Thủy bộ
Trương Tịch
viên ngoại
江 樓 晚 眺 景 物
鮮 奇 吟
翫 成 篇 寄 水 部
張 籍 員 外
澹 煙 疏 雨 間 斜
陽
Đạm yên sơ
vũ gián tà
dương,
江 色 鮮 明 海 氣
涼
Giang sắc
tiên minh
hải khí
lương.
蜃 散 雲 收 破 樓
閣
Thẩn tán vân
thu phá lâu
các,
虹 殘 水 照 斷 橋
梁
Hồng tàn
thủy chiếu
đoạn kiều
lương.
風 翻 白 浪 花 千
片
Phong phiên
bạch lãng
hoa thiên
phiến.
雁 點 青 天 字 一
行
Nhạn điểm
thanh thiên
tự nhất
hàng.
好 著 丹 青 圖 畫
取
Hảo trước
đan thanh đồ
họa thủ,
題 詩 寄 與 水 曹
郎
Đề thi ký dữ
Thủy tào
lang.
Lầu bên
sông, chiều
đứng trông
gửi quan
Viên ngoại
họ Trương ở
bộ Thủy
Nhạt thưa
mưa khói,
lẫn tà
dương.
Sông biển
xinh thay!
mát lạ
nhường.
Lầu thẩn tan
hình mây vén
lại,
Cầu vồng đứt
bóng nước
soi ngang.
Gió bay sóng
trắng hoa
nghìn phiến,
Nhạn chấm
trời xanh
chữ một
hàng.
Xanh đỏ muốn
đem mà vẽ
lấy,
Đề thơ gửi
bác Thủy tào
lang.
Ngày Nay, số
123
(14-8-1939)
77. Phong vũ
vãn bạc
風 雨 晚 泊
苦 竹 林 邊 蘆 葦
叢
Khổ trúc lâm
biên lô vĩ
tùng,
停 舟 一 望 思 無
窮
Đình chu
nhất vọng tứ
vô cùng.
青 苔 撲 地 連 春
雨
Thanh đài
phác địa
liên xuân
vũ,
白 浪 掀 天 盡 日
風
Bạch lãng
hân thiên
tận nhật
phong.
忽 忽 一 年 行 欲
半
Hốt hốt bách
niên hành
dục bán,
茫 茫 萬 事 坐 成
空
Mang mang
vạn sự tọa
thành không.
此 生 飄 蕩 何 時
定
Thử sinh
phiêu đãng
hà thời
định,
一 縷 鴻 毛 天 地
中
Nhất lũ hồng
mao thiên
địa trung.
Trải mưa
gió, chiều
hôm đỗ
thuyền
Rừng tre
khóm sậy thú
bên sông,
Đỗ lại con
thuyền bát
ngát trông.
Mưa cữ, rêu
xuân xanh
đất giải.
Ngày thâu,
sóng gió bạc
trời tung.
Trăm năm
phút chốc
toàn non
nửa,
Muôn việc
trần gian có
hóa không.
Xiêu giạt
bao giờ yên
chốn nhỉ?
Sống trong
trời đất một
lông hồng
Ngày Nay, số
99
(27-2-1938)
78. Khúc
giang túy
hậu tặng chư
thân cố
曲
江
醉
後
贈
諸
親
故
郭 東 丘 墓 何 年
客
Quách đông
khâu mộ hà
niên khách,
江 畔 風 光 幾 日
春
Giang bạn
phong quang
kỷ nhật
xuân.
只 合 殷 勤 逐 杯
酒
Chỉ hợp ân
cần trục bôi
tửu,
不 須 疏 索 向 交
親
Bất tu sơ
sách hướng
giao thân.
中 天 或 有 長 生
藥
Trung thiên
hoặc hữu
trường sinh
dược,
下 界 應 無 不 死
人
Hạ giới ưng
vô bất tử
nhân.
除 卻 醉 來 開 口
笑
Trừ khước
túy lai khai
khẩu tiếu,
世 間 何 事 更 關
身
Thế gian hà
sự cánh quan
thân.
Sông Khúc,
sau lúc say,
đưa cho các
người thân
Đồng kia, mả
đó, người
đâu?
Bên sông
xuân sắc
cùng nhau
mấy ngày?
Thú chi hơn
chén rượu
đầy,
Bạn thân ta
hỡi, sum vầy
chớ xa.
Thuốc tiên
sống mãi họa
là,
Cõi trần cái
chết dễ mà
tha ai!
Khi say ta
mở miệng
cười,
Ngoài ra,
bao ná việc
đời vướng
chi!
Ngày Nay, số
118
(10-7-1938)
79. Trung
thu nguyệt
中 秋 月
萬 里 清 光 不 可
思
Vạn lý thanh
quang bất
khả tư,
添 愁 益 恨 繞 天
涯
Thiêm sầu
ích hận
nhiễu thiên
nhai.
誰 人 隴 外 久 征
戍
Thuỳ nhân
lũng ngoại
cửu chinh
thú,
何 處 庭 前 新 別
離
Hà xứ đình
tiền tân
biệt ly.
失 寵 故 姬 歸 院
夜
Thất sủng cố
cơ qui viện
dạ,
沒 番 老 將 上 樓
時
Một phiên
lão tướng
thượng lâu
thì.
照 他 幾 許 人 腸
斷
Chiếu tha kỷ
hử nhân
trường đoạn,
玉 兔 銀 蟾 遠 不
知
Ngọc thố
ngân thiềm
viễn bất
tri.
Trăng giữa
thu
Bóng đâu?
Trong sáng
vô ngần!
Sầu thêm,
giận đắm cõi
trần khắp
nơi.
Đóng lâu đồn
thú kia ai,
Biệt ly buổi
mới đâu
người trước
sân?
Canh khuya,
ai đó phi
tần,
Vua không
yêu nữa tần
ngần về
cung.
Biên thành
thế giữ
không xong,
Bạc đầu, ông
tướng thong
dong lên
chòi.
Soi cho đứt
ruột bao
người,
Thiềm thừ,
ngọc thỏ
trên trời
biết chi!
Ngày Nay, số
131
(8-10-1938)
80. Xuân
giang
春 江
炎 涼 昏 曉 苦 推
遷
Viêm lương
hôn hiểu khổ
suy thiên
不 覺 忠 州 已 二
年
Bất giác
Trung châu
dĩ nhị niên,
閉 閣 只 聽 朝 暮
鼓
Bế các chỉ
thinh triêu
mộ cổ,
上 樓 空 望 往 來
船
Thượng lâu
không vọng
vãng lai
thuyền.
鶯 聲 誘 引 來 花
下
Oanh thanh
dụ dẫn lai
hoa hạ.
草 色 勾 留 坐 水
邊
Thảo sắc câu
lưu tọa thủy
biên.
唯 有 春 江 看 未
厭
Duy hữu xuân
giang khan
vị yếm,
鶯 砂 繞 石 綠 潺
湲
Oanh sa
nhiễu thạch
lục sàn
viên.
Sông xuân
Lần thâu
nóng lạnh
hôm mai,
Trung châu
nào biết đã
hai năm tròn
Sớm hôm bên
gác trống
dồn,
Trước lầu
qua lại coi
buồn thuyền
xa.
Tiếng oanh
rủ lại dưới
hoa,
Cỏ non bến
nước cho ta
mải ngồi.
Sông xuân
xem mãi chưa
rồi,
Quẩn quanh
sỏi đá cuốn
trôi theo
dòng.
Ngày Nay, số
104
(3-4-1939)
81. Lý bạch
mộ
李 白 墓
采 石 江 邊 李 白
墳
Thái thạch
giang biên
Lý bạch
phần,
遶 田 無 限 草 連
雲
Nhiễu điền
vô hạn thảo
liên vân.
可 憐 荒 壟 窮 泉
骨
Khả liên
hoang lũng
cùng tuyền
cốt,
曾 有 驚 天 動 地
文
Tằng hữu
kinh thiên
động địa
văn.
但 是 詩 人 多 薄
命
Đản thị thi
nhân đa bạc
mệnh,
就 中 淪 落 不 過
君
Tựu trung
luân lạc bất
qua quân.
Mộ ông Lý
Bạch
Bên sông
Thái Thạch
mồ ai?
Vùng quanh
man mác chân
trời cỏ non
Gò hoang,
suối thẳm,
xương mòn.
Long trời lở
đất hãy còn
văn chương.
Làng thơ
mệnh bạc thế
thường,
Mà trong lẫn
đẫn anh
nhường ai
hơn.
Ngày Nay, số
92
(2-1-1938)
82. Văn dạ
châm
聞 夜 砧
誰 家 思 婦 秋 擣
帛
Thùy gia tư
phụ thu đảo
bạch,
月 苦 風 淒 砧 杵
悲
Nguyệt khổ
phong thê
châm chử bi.
八 月 九 月 正 長
夜
Bát nguyệt
cửu nguyệt
chính trường
dạ,
千 聲 萬 聲 無 了
時
Thiên thanh
vạn thanh vô
liễu thi.
應 到 天 明 頭 盡
白
Ưng đáo
thiên minh
đầu tận
bạch.
一 聲 添 得 一 莖
絲
Nhất thanh
thiêm đắc
nhất hành ti.
Nghe tiếng
đập áo đêm
Nhà ai, cô
gái nhớ
chồng,
Đêm thu đập
lụa, lạnh
lùng gió
trăng?
Chày giơ nện
đá phăng
phăng
Tháng tám,
tháng chín,
đêm hằng dài
thay.
Luôn luôn
nghìn vạn
tiếng chày,
Chày thêm
một tiếng,
thêm đầy sợi
tơ,
Sáng ra đầu
đã trắng
phơ.
Ngày Nay, số
134
(29-10-1938)
83. Sinh ly
biệt
生 離 別
食 檗 不 易 食 梅
難
Thực bá bất
dị thực mai
nan,
檗 能 苦 兮 梅 能
酸
Bá năng khổ
hề mai năng
toan.
未 如 生 別 之 為
難
Vị như sinh
biệt chi vi
nan.
苦 在 心 兮 酸 在
肝
Khổ tại tâm
hề toan tại
can.
晨 雞 再 鳴 殘 月
沒
Thần kê tái
minh tàn
nguyệt một.
征 馬 連 嘶 行 人
出
Chinh mã
liên tê hành
nhân xuất.
回 看 骨 肉 哭 一
聲
Hồi khan cốt
nhục khốc
nhất thanh.
梅 酸 檗 苦 甘 如
蜜
Mai toan bá
khổ cam như
mật.
黃 河 水 白 黃 雲
秋
Hoàng hà
thủy bạch
hoàng vân
thâu,
行 人 河 邊 相 對
愁
Hành nhân hà
biên tương
đối sầu.
天 寒 野 曠 何 處
宿
Thiên hàn dã
khoáng hà xứ
túc,
棠 梨 葉 戰 風 颼
颼
Đường lê
diệp chiến
phong sưu
sưu.
生 離 別 生 離 別
Sinh ly
biệt. Sinh
ly biệt
憂 從 中 來 無 斷
絕
Ưu tùng
trung lai vô
đoạn tuyệt,
憂 極 心 勞 血 氣
衰
Ưu cực tâm
lao huyết
khí suy.
未 年 三 十 生 白
髮
Vị niên tam
thập sinh
bạch phát.
Biệt ly
trong lúc
sống
Sung, mơ ăn
khó, ai ơi!
Sung ăn thời
chát, mơ
thời chua
sao!
Chưa bằng
sống biệt ly
nhau,
Ruột gan
chua chát
lại đau bội
phần.
Lần trăng gà
gáy hai lần,
Hét luôn
tiếng ngựa
giục dần
khách ra.
Trông nhau
một tiếng
khóc òa,
Mơ chua,
sung chát
như là mật
ngon.
Nước sông
trắng, mây
vàng tuôn,
Kẻ đi người
ở cơn buồn
bên sông.
Ngủ đâu?
Trời lạnh
đồng không !
Đìu hiu ngọn
gió loạn
rung lá
đường!
Biệt ly lúc
ấy lạ
nhường!
Mối lo chẳng
dứt từ
phương hướng
nào?
Quá lo,
huyết khí
tiêu hao,
Chưa ba mươi
tuổi tóc sao
trắng rồi...
Ngày Nay, số
153
(19-11-1939)
84. Trường
hận ca
長 恨 歌
漢 皇 重 色 思 傾
國
Hán
hoàng trọng
sắc tư
khuynh quốc.
御 宇 多 年 求 不
得
Ngự vũ đa
niên cầu bất
đắc.
楊 家 有 女 初 長
成
Dương gia
hữu nữ sơ
trưởng
thành,
養 在 深 閨 人 未
識
Dưỡng tại
thâm khuê
nhân vị
thức.
天 生 麗 質 難 自
棄
5. Thiên
sinh lệ chất
nan tự khí,
一 朝 選 在 君 王
側
Nhất triêu
tuyển tại
quân vương
trắc.
回 眸 一 笑 百 媚
生
Hồi mâu nhất
tiếu bách mị
sinh,
六 宮 粉 黛 無 顏
色
Lục cung
phấn đại vô
nhan sắc.
春 寒 賜 浴 華 清
池
Xuân hàn tứ
dục Hoa
Thanh trì.
溫 泉 水 滑 洗 凝
脂
10. Ôn tuyền
thủy hoạt
tẩy ngưng
chi.
侍 兒 扶 起 嬌 無
力
Thị nhi phù
khởi kiều vô
lực,
始 是 新 承 恩 澤
時
Thủy thị tân
thừa ân
trạch thì.
雲 鬢 花 顏 金 步
搖
Vân mấn hoa
nhan kim bộ
dao,
芙 蓉 帳 暖 度 春
宵
Phù dung
trướng noãn
độ xuân
tiêu.
春 宵 苦 短 日 高
起
15. Xuân
tiêu khổ
đoản nhật
cao khởi,
從 此 君 王 不 早
朝
Tòng thử
quân vương
bất tảo
triều.
承 歡 侍 宴 無 閒
暇
Thừa hoan
thị yến vô
nhàn hạ,
春 從 春 遊 夜 專
夜
Xuân tòng
xuân du dạ
chuyển dạ.
漢 宮 佳 麗 三 千
人
Hán cung
giai lệ tam
thiên nhân,
三 千 寵 愛 在 一
身
20. Tam
thiên sủng
ái tại nhất
thân.
金 屋 妝 成 嬌 侍
夜
Kim ốc trang
thành kiều
thị dạ.
玉 樓 宴 罷 醉 和
春
Ngọc lâu yến
bãi túy hòa
xuân.
姊 妹 弟 兄 皆 列
士
Tỷ muội đệ
huynh giai
liệt thổ,
可 憐 光 彩 生 門
戶
Khả liên
quang thái
sinh môn hộ.
遂 令 天 下 父 母
心
25. Toại
linh thiên
hạ phụ mẫu
tâm,
不 重 生 男 重 生
女
Bất trọng
sinh nam
trọng sinh
nữ.
驪 宮 高 處 入 青
雲
Ly cung cao
xứ nhập
thanh vân,
仙 樂 風 飄 處 處
聞
Tiên nhạc
phong phiêu
xứ xứ văn.
緩 歌 慢 舞 凝 絲
竹
Hoãn ca mạn
vũ ngưng ty
trúc.
盡 日 君 王 看 不
足
30. Tận nhật
quân vương
khan bất
túc.
漁 陽 鼙 鼓 動 地
來
Ngư Dương bề
cổ động địa
lai.
驚 破 霓 裳 羽 衣
曲
Kinh phá
Nghê thường
vũ y khúc.
九 重 城 闕 煙 塵
生
Cửu trùng
thành khuyết
yên trần
sinh,
千 乘 萬 騎 西 南
行
Thiên thặng
vạn kỵ tây
nam hành,
翠 華 搖 搖 行 復
止
35. Thúy hoa
dao dao hành
phục chỉ,
西 出 都 門 百 餘
里
Tây xuất đô
môn bách dư
lý.
六 軍 不 發 無 奈
何
Lục quân bất
phát vô nại
hà,
宛 轉 蛾 眉 馬 前
死
Uyển chuyển
nga mi mã
tiền tử.
花 鈿 委 地 無 人
收
Hoa điền ủy
địa vô nhân
thu.
翠 翹 金 雀 玉 搔
頭
40. Thúy
kiều, kim
tước ngọc
tao đầu.
君 王 掩 面 救 不
得
Quân vương
yểm diện cứu
bất đắc,
回 看 血 淚 相 和
流
Hồi khan
huyết lệ
tương hòa
lưu.
黃 埃 散 漫 風 蕭
索
Hoàng ai tản
mạn phong
tiêu tác,
雲 棧 縈 紆 登 劍
閣
Vân sạn oanh
vu đăng Kiếm
Các.
峨 嵋 山 下 少 人
行
45. Nga My
sơn hạ thiểu
nhân hành.
旌 旗 無 光 日 色
薄
Tinh kỳ vô
quang nhật
sắc bạc.
蜀 江 水 碧 蜀 山
青
Thục giang
thủy bích
Thục Sơn
thanh.
聖 主 朝 朝 暮 暮
情
Thánh chủ
triêu triêu
mộ mộ tình,
行 宮 見 月 傷 心
色
Hành cung
kiến nguyệt
thương tâm
sắc.
夜 雨 聞 鈴 腸 斷
聲
50. Dạ vũ
văn linh
trường đoạn
thanh,
天 旋 地 轉 迴 龍
馭
Thiên tuyền
địa chuyển
hồi long
ngự.
到 此 躊 躇 不 能
去
Đáo thử trù
trừ bất năng
khứ.
馬 嵬 坡 下 泥 土
中
Mã Ngôi pha
hạ nê thổ
trung.
不 見 玉 顏 空 死
處
Bất kiến
ngọc nhan
không tử xứ
君 臣 相 顧 盡 霑
衣
55. Quân
thần tương
cố tận triêm
y,
東 望 都 門 信 馬
歸
Đông vọng đô
môn tín mã
quy.
歸 來 池 苑 皆 依
舊
Quy lai trì
uyển giai y
cựu,
太 液 芙 蓉 未 央
柳
Thái Dịch
phù dung Vị
Ương liễu.
芙 蓉 如 面 柳 如
眉
Phù dung như
diện liễu
như mi
對 此 如 何 不 淚
垂
60. Đối thử
như hà bất
lệ thùy!
春 風 桃 李 花 開
日
Xuân phong
đào lý hoa
khai nhật,
秋 雨 梧 桐 葉 落
時
Thu vũ ngô
đồng diệp
lạc thì.
西 宮 南 內 多 秋
草
Tây cung nam
nội đa thu
thảo,
落 葉 滿 階 紅 不
掃
Lạc diệp mãn
giai hồng
bất tảo.
梨 園 子 弟 白 髮
新
65. Lê viên
đệ tử bạch
phát tân,
椒 房 阿 監 青 娥
老
Tiêu phòng a
giám thanh
nga lão.
夕 殿 螢 飛 思 悄
然
Tịch điện
huỳnh phi tứ
tiễu nhiên,
孤 燈 挑 盡 未 成
眠
Cô đăng
khiêu tận vị
thành miên.
遲 遲 鐘 鼓 初 長
夜
Trì trì
chung cổ sơ
trường dạ,
耿 耿 星 河 欲 曙
天
70. Cảnh
cảnh tinh hà
dục thự
thiên.
鴛 鴦 瓦 冷 霜 華
重
Uyên ương
ngõa lãnh
sương hoa
trọng
翡 翠 衾 寒 誰 與
共
Phỉ thúy
khâm hàn
thùy dữ
cộng?
悠 悠 生 死 別 經
年
Du du sinh
tử biệt kinh
niên,
魂 魄 不 曾 來 入
夢
Hồn phách
bất tằng lai
nhập mộng.
臨 邛 道 士 鴻 都
客
75. Lâm Cùng
đạo sĩ Hồng
Đô khách,
能 以 精 誠 致 魂
魄
Năng dĩ tinh
thành trí
hồn phách.
為 感 君 王 展 轉
思
Vị cảm quân
vương triển
chuyển tư,
遂 教 方 士 殷 勤
覓
Toại giao
phương sĩ ân
cần mịch.
排 空 馭 氣 奔 如
電
Bài không
ngự khí bôn
như điện.
升 天 入 地 求 之
遍
80. Thăng
thiên nhập
địa cầu chi
biến.
上 窮 碧 落 下 黃
泉
Thượng cùng
bích lạc hạ
hoàng tuyền,
兩 處 茫 茫 皆 不
見
Lưỡng xứ
mang mang
giai bất
kiến.
忽 聞 海 上 有 仙
山
Hốt văn hải
thượng hữu
tiên sơn.
山 在 虛 無 縹 緲
間
Sơn tại hư
vô phiêu
diểu gian.
樓 閣 玲 瓏 五 雲
起
85. Lâu các
linh lung
ngũ vân
khởi.
其 中 綽 約 多 仙
子
Kỳ trung
xước ước đa
tiên tử
中 有 一 人 字 太
真
Trung hữu
nhất nhân tự
Thái Chân.
雪 膚 花 貌 參 差
是
Tuyết phu
hoa mạo sâm
si thị
金 闕 西 廂 叩 玉
扃
Kim khuyết
tây sương
khấu ngọc
quynh.
轉 教 小 玉 報 雙
成
90. Chuyển
giao Tiểu
Ngọc báo
Song Thành.
聞 道 漢 家 天 子
使
Văn đạo Hán
gia thiên tử
sứ
九 華 帳 裏 夢 魂
驚
Cửu hoa
trướng lý
mộng hồn
kinh
攬 衣 推 枕 起 徘
徊
Lãm y thôi
chẩm khởi
bồi hồi
珠 箔 銀 屏 迤 邐
開
Châu bạc
ngân bình dĩ
lị khai
雲 髻 半 偏 新 睡
覺
95. Vân kết
bán thiên
tân thụy
giác.
花 冠 不 整 下 堂
來
Hoa quan bất
chinh há
đường lai
風 吹 仙 袂 飄 飄
舉
Phong xuy
tiên duệ
phiêu phiêu
cử
猶 似 霓 裳 羽 衣
舞
Do tự nghê
thường vũ y
vũ
玉 容 寂 寞 淚 攔
干
Ngọc dung
tịch mịch lệ
lan can
梨 花 一 枝 春 帶
雨
100. Lê hoa
nhất chi
xuân đới vũ
含 情 凝 睇 謝 君
王
Hàm tình
ngưng thế tạ
quân vương,
一 別 音 容 兩 緲
茫
«Nhất biệt
âm dung
lưỡng diểu
mang
昭 陽 殿 裏 恩 愛
絕
Chiêu Dương
điện lý ân
ái tuyệt,
蓬 萊 宮 中 日 月
長
Bồng Lai
cung trung
nhật nguyệt
trường.
回 頭 下 望 塵 寰
處
105. Hồi đầu
hạ vọng nhân
hoàn xứ
不 見 長 安 見 塵
霧
Bất kiến
Trường An
kiến trần vụ
唯 將 舊 物 表 深
情
Duy tương
cựu vật biểu
thâm tình
鈿 合 金 釵 寄 將
去
Điến hap kim
thoa ký
tương khứ.
釵 留 一 股 合 一
扇
Thoa lưu
nhất cổ, hạp
nhất phiến
釵 擘 黃 金 合 分
鈿
110.Thoa
phách hoàng
kim hạp phân
điến
但 教 心 似 金 鈿
堅
Đãn giao tâm
tự kim điến
kiên
天 上 人 間 會 相
見
Thiên thượng
nhân gian
hội tương
kiến»
臨 別 殷 勤 重 寄
詞
Lâm biệt ân
cần trung ký
từ
詞 中 有 誓 兩 心
知
Từ trung hữu
thệ lưỡng
tâm tri:
七 月 七 日 長 生
殿
115. Thất
nguyệt thất
nhật Trường
Sinh điện
夜 半 無 人 私 語
時
Dạ bán vô
nhân tư ngữ
thì
在 天 願 作 比 翼
鳥
«Tại thiên
nguyện tác
tị dực điểu,
在 地 願 為 連 理
枝
Tại địa
nguyện vi
liên lý chi»
天 長 地 久 有 時
盡
Thiên trường
địa cửu hữu
thì tận
此 恨 綿 綿 無 絕
期
120. Thử hận
miên miên vô
tận kỳ.
Trường
hận ca
Đức vua Hán
mến người
khuynh quốc,
Trải bao năm
tìm chuốc
công tai.
Nhà Dương có
gái mới
choai,
Buồng xuân
khóa kín
chưa ai bạn
cùng.
5. Lạ gì của
tuyết đông
ngọc đúc,
Chốn ngai
vàng phút
chốc ngồi
bên.
Một cười
trăm vẻ
thiên nhiên,
Sáu cung
nhan sắc
thua hờn
phấn son.
Trời xuân
lạnh suối
tuôn mạch
ấm,
10. Da mỡ
đông kỳ tắm
ao Hoa.
Vua yêu bận
ấy mới là,
Con hầu nâng
dậy coi đà
mệt thay!
Vàng nhẹ
bước lung
lay tóc mái,
Màn phù dung
ân ái đêm
xuân.
15. Đêm xuân
vắn vủn có
ngần,
Ngai rồng từ
đấy chậm
phần vua ra.
Suốt ngày
tháng tiệc
hoa vui mãi,
Đêm xuân
tàn, xuân
lại còn đêm.
Ba nghìn
xinh đẹp chị
em,
20. Ba nghìn
yêu quý chất
nêm một
mình.
Nhà vàng đúc
đêm thanh ôm
ấp,
Lầu ngọc
cao, say ắp
bầu xuân
Anh em sướng
đủ mọi phần,
Mà cho thiên
hạ có lần rẻ
trai.
25. Vẳng
tiên nhạc
khắp nơi
nghe biết,
Làn gió đưa
cao tít Ly
cung.
Suốt ngày
múa hát
thung dung,
Tiếng tơ,
tiếng trúc
say lòng
quân vương.
Ầm tiếng
trống Ngư
Dương kéo
đến,
30. Khúc
Nghê thường
tan biến như
không.
Chín lần
thành khuyết
bụi tung,
Nghìn xe
muôn ngựa
qua vùng tây
nam.
Đi lại đứng
hơn trăm dặm
đất,
Cờ thúy hoa
bóng phất
lung lay.
35. Sáu quân
dùng dắng
làm rầy,
Mày ngài
trước ngựa
lúc này
thương ôi!
Ai người
nhặt thoa
rơi bỏ đất,
Ôi! Thúy
kiều ngọc
nát vàng
phai.
Quân vương
bưng mặt cho
rồi,
40. Quay đầu
trông lại,
máu trôi lệ
giàn.
Gió tung bụi
mê man tản
mác,
Đường thang
mây Kiếm Các
lần đi,
Vắng tanh
dưới núi Nga
My,
Mặt trời
nhạt thếch,
tinh kỳ buồn
tênh.
45. Đất Ba
Thục non
xanh nước
biếc,
Lòng vua cha
thương tiếc
hôm mai.
Thấy trăng
luống những
đau người.
Đêm mưa đứt
ruột, canh
dài tiếng
chuông.
Phút trời
đất quay
cuồng vận
số,
50. Bánh xe
rồng đến chỗ
ngày xưa.
Đất bùn chỗ
chết còn
trơ,
Thấy đâu mặt
ngọc? bây
giờ Mã Ngôi!
Đầm vạt áo,
vua tôi giọt
lệ,
Gióng dây
cương ngựa
tế về đông.
55. Cảnh xưa
dương liễu,
phù dung,
Vị Ương,
Thái Dịch hồ
cung vẹn
mười.
Phù dung đó!
Mặt ai đâu
tá?
Mày liễu
đâu? Cho lá
còn như!
Càng trông
hoa liễu năm
xưa,
60. Càng xui
nước mắt như
mưa ướt đầm.
Xuân đòa lý
gió êm hoa
nở,
Thu khi mưa
rụng lá ngô
đồng.
Kìa Nam
uyển, nọ Tây
cung.
Đầy thềm ai
quét lá hồng
sương rơi?
65.Vườn lê
cũ những ai
con hát,
Mái tóc coi
trắng phớt
lạ lùng.
Những ai coi
giữ tiêu
phòng?
Mày xanh
thuở ấy nay
cùng già
nhăn.
Trước cung
điện nhìn
sân đêm tối,
70. Đom đóm
bay gợi mối
u sầu.
Ngọn đèn
khêu đã cạn
dầu.
Khó thay,
giấc ngủ dễ
hầu ngủ
xong!
Tiếng canh
tối tùng
tùng điểm
trống,
Năm canh dài
chẳng giống
đêm xưa.
75. Sông
Ngân lấp
lánh sao
thưa.
Trời như
muốn sáng,
sao chưa
sáng trời?
Trên mái
ngói, sương
rơi ướt
lạnh,
Trong chăn
nằm, bên
cạnh nào ai?
Cách năm
sống thác
đôi nơi,
80. Thấy đâu
hồn phách
vãng lai
giấc nồng?
Khách đạo sĩ
Lâm Cùng có
gã,
Chơi Hồng Đô
phép lạ thần
thông.
Xót vì vua
chúa nhớ
nhung,
Mới sai
phương sĩ
hết lòng ra
tay.
85. Cưỡi
luồng gió
như bay như
biến,
Trên trời
xanh dưới
đến đất đen.
Hai nơi bích
lạc, hoàng
tuyền,
Dưới trên
tìm khắp, mơ
huyền thấy
chi!
Sực nghe
nói, tìm đi
mé bể,
90. Có non
tiên ngoài
phía hư
không.
Rỡ ràng cung
điện linh
lung,
Xa trông năm
sắc mây lồng
đẹp sao!
Trong tha
thướt biết
bao tiên tử,
Một nàng
tiên tên chữ
Thái Chân.
95. Mặt hoa
da tuyết
trắng ngần,
Dáng như
người ấy có
phần phải
chăng?
Mái tây gõ
cửa vàng
then ngọc,
Cậy đưa tin
Tiểu Ngọc,
Song Thành.
Nghe tin sứ
giả Hán
đình,
100. Cửu hoa
trong trướng
giật mình
giấc mơ.
Cầm áo dậy,
thẩn thơ
buồn bực.
Mở rèm châu
bình bạc lần
ra.
Bâng khuâng
nửa mái mây
tà,
Thềm cao
xuống chiếc
mũ hoa lệch
đầu.
105. Phới
tay áo bay
màu trước
gió,
Giống Nghê
thường khúc
múa năm xưa.
Lệ giàn mặt
ngọc lưa
thưa,
Cành lê hoa
chíu hạt mưa
xuân đầm.
Ngừng nước
mắt âm thầm
buồn bã.
110. Đội ơn
lòng, xin tạ
quân vương.
Từ ngày cách
trở đôi
phương,
Vắng tanh
tăm tiếng,
mơ màng hình
dong.
Nơi đế điện
dứt vòng ân
ái,
Chốn tiên
cung thư
thái tháng
ngày.
115. Cõi
trần ngoảnh
lại mà hay,
Tràng An
chẳng thấy,
thấy đầy bụi
nhơ!
Lấy chi tỏ
tình xưa
thâm thú?
Gửi cành
thoa vật cũ
cầm xuôi.
Thoa vàng
hộp khảm
phân đôi.
120. Nửa xin
để lại, nửa
thời đem đi.
Chỉ xin
nguyện lòng
ghi dạ tạc.
Tựa thoa
vàng bền
chặt không
phai.
Thời cho
cách trở đôi
nơi,
Nhân gian
rồi với trên
trời gặp
nhau.
125. Ân cần
dặn mấy câu
lâm biệt.
Lời thề xưa
lòng biết
với lòng.
Nửa đêm
Trùng thất
trăng trong
Trường Sinh
sân điện
vắng không
bóng người.
Xin kết
nguyện chim
trời liền
cánh,
130. Xin làm
cây cành
nhánh liền
nhau.
Thấm chi
trời đất dài
lâu.
Giận này
dằng dặc dễ
hầu có
nguôi...
*
Tiểu thuyết
thứ bảy, số
31
(29.12.1934)
& số 33
(12.1.1935)
LÔ ĐỒNG 盧仝
(790-835)
85. Hữu sở
tư
有 所 思
當 時 我 醉 美 人
家
Đương thì
ngã túy mỹ
nhân gia,
美 人 顏 色 嬌 如
花
Mỹ nhân nhan
sắc kiều như
hoa.
今 日 美 人 棄 我
去
Kim nhật mỹ
nhân khí ngã
khứ
青 樓 珠 箔 天 之
涯
Thanh lâu
châu bạc
thiên chi
nha.
娟 娟 姮 蛾 月
Quyên quyên
Hằng Nga
nguyệt,
三 五 二 八 盈 又
缺
Tam ngũ nhị
bát doanh
hựu khuyết.
翠 眉 蟬 髮 生 別
離
Thúy mi
thiền phát
sinh biệt
ly,
一 望 不 見 心 斷
絕
Nhất vọng
bất kiến tâm
đoạn tuyệt.
心 斷 絕 幾 千 里
Tâm đoạn
tuyệt kỷ
thiên lý,
夢 中 醉 臥 巫 山
雲
Mộng trung
túy ngọa Vu
sơn vân.
覺 來 淚 滴 湘 江
水
Giác lai lệ
trích Tương
giang thủy.
湘 江 兩 岸 花 木
深
Tương giang
lưỡng ngạn
hoa mộc
thâm.
美 人 不 見 愁 人
心
Mỹ nhân bất
kiến sầu
nhân tâm.
含 愁 更 奏 綠 綺
琴
Hàm sầu cánh
tấu lục ỷ
cầm
調 高 絃 絕 無 知
音
Điệu cao
huyền tuyệt
vô tri âm.
美 人 兮 美 人
Mỹ nhân hề!
mỹ nhân!
不 知 為 暮 雨 兮
為 朝 雲
Bất tri vi
mộ vũ hề, vi
triêu vân?
相 思 一 夜 梅 花
發
Tương tư
nhất dạ mai
hoa phát,
忽 到 窗 前 疑 是
君
Hốt đáo song
tiền, nghi
thị quân?
Có nhớ ai ?
Hôm ta say ở
nhà ai,
Mặt ai xinh
đẹp, vẻ
người như
hoa.
Bây giờ
người đẹp bỏ
ta,
Lầu son rèm
ngọc cách xa
chân trời.
Trăng Hằng
trong trẻo
gương soi,
Ba năm, hai
tám đầy vơi
lạ gì.
Tóc vo, mày
thúy chia
lìa,
Đứt tươm
khúc ruột
chẳng vì
khuất nhau.
Khuất nhau
cách mấy
ngàn dâu,
Để ai ruột
đứt lòng đau
lúc này.
Non Vu say
giấc nằm
mây,
Tính ra nước
mắt tuôn đầy
mạch Tương.
Sông Tương
cây cối chen
hàng,
Ngóng ai
chẳng thấy,
sầu thương
dạ người.
Ngậm sầu gảy
khúc đàn
chơi,
Đàn hay dây
đứt không
người biết
nhau.
Hỡi ơi!
Người đẹp ta
đâu?
Mưa chiều
mây sớm, ai
hầu biết ai?
Nhớ nhau
suốt một đêm
dài,
Trước song
trắng toát
hoa mai lúc
nào!
Ngỡ mình
chẳng phải
mình sao?
Ngày Nay, số
149 (1939)
GIẢ ĐẢO 賈島
(779-843)
86. Tầm ẩn
giả bất ngộ
尋隱者不遇
松 下 問 童 子
Tùng hạ vấn
đồng tử
言 師 採 藥 去
Ngôn sư thái
dược khứ.
只 在 此 山 中
Chỉ tại thử
sơn trung,
雲 深 不 知 處
Vân thâm bất
tri xứ.
Tìm nhà ẩn
dật không
gặp
Gốc thông
hỏi chú học
trò,
Rằng: «Thầy
hái thuốc lò
mò đi xa.
Chỉ trong
dãy núi đây
mà,
Mây che mù
mịt biết là
nơi nao?»
Ngày Nay, số
84
(7-11-1937)
87. Độ Tang
Kiền
渡 桑 乾
客 舍 并 州 已 十
霜
Khách xá
Tinh Châu dĩ
thập sương,
歸 心 日 夜 憶 咸
陽
Quy tâm nhật
dạ ức Hàm
Dương.
無 端 更 渡 桑 乾
水
Vô đoan cánh
độ Tang Kiền
thủy,
卻 望 并 州 是 故
鄉
Khước vọng
Tinh Châu
thị cố hương.
Qua bến Tang
Kiền
Châu Tinh
đất khách
trải mười
hè,
Hôm sớm Hàm
Dương bụng
nhớ về.
Qua bến Tang
Kiền vô tích
nữa,
Tinh Châu
ngoảnh lại
đã thành
quê.
Ngày Nay, số
79
(3-10-1937)
TRIỆU HỖ 趙嘏
(810-856)
88. Giang
lâu thư hoài
江 樓 書 懷
獨 上 江 樓 思 悄
然
Độc thướng
giang lâu tứ
tiễu nhiên,
月 光 如 水 水 如
天
Nguyệt quang
như thủy,
thủy như
thiên.
同 來 玩 月 人 何
在
Đồng lai
ngoạn nguyệt
nhân hà tại,
風 景 依 稀 似 去
年
Phong cảnh y
hi tự khứ
niên.
Lầu bên sông
tả hoài
Lên gác bên
sông một
ngậm ngùi,
Sáng trăng
như nước,
nước như
trời.
Bạn chơi năm
ngoái nào
đâu tá?
Trăng nước
như xưa chín
với mười.
Ngày Nay, số
111
(22-5-1938)
TRỊNH CỐC 鄭
谷
89. Độc Lý
Bạch thi tập
讀李白詩集
何 事 文 星 與 酒
星
Hà sự Văn
tinh dữ Tửu
tinh,
一 時 鐘 在 李 先
生
Nhất thời
chung tại Lý
tiên sinh.
高 吟 大 醉 三 千
首
Cao ngâm đại
túy tam
thiên thủ,
留 著 人 間 伴 月
明
Lưu trước
nhân gian
bạn nguyệt
minh.
Đọc tập thơ
Lý Bạch
Cớ chi sao
Rượu sao
Văn,
Đúc nên một
Lý tiên sinh
ở đời?
Ba nghìn say
đọc nên bài,
Nghìn thu
bạn với
trăng trời
sáng soi.
TÀO ĐƯỜNG 曹
唐
90. Lưu
Nguyễn du
Thiên Thai
劉 阮 遊 天 台
樹 入 天 台 石 路
新
Thụ nhập
Thiên Thai
thạch lộ
tân,
雲 和 草 靜 迥 無
塵
Vân hòa thảo
tĩnh, quýnh
vô trần.
煙 霞 不 省 生 前
事
Yên hà bất
tỉnh sinh
tiền sự,
水 木 空 疑 夢 後
身
Thủy mộc
không nghi
mộng hậu
thân.
往 往 雞 鳴 岩 下
月
Vãng vãng kê
minh nham hạ
nguyệt,
時 時 犬 吠 洞 中
春
Thời thời
khuyển phệ
động trung
xuân.
不 知 此 地 歸 何
處
Bất tri thử
địa qui hà
xứ,
須 就 桃 源 問 主
人
Tu tựu Đào
nguyên vấn
chủ nhân.
Thiên Thai
Khe cây lối
đá nhận
đường vào,
Hoa cỏ không
vương mảy
bụi nào
Nhìn bóng
dáng mây
quên việc
trước,
Trông chiều
cây nước ngỡ
chiêm bao
Sườn non
trăng dãi gà
đua gáy,
Cửa động
xuân qua chó
đón chào.
Muốn biết về
đâu non nước
ấy,
Hỏi thăm nên
tới suối Hoa
đào.