Giải Nobel Vật lý 2003 được chia đều cho ba khoa
học gia đã có những đóng góp có tính cách cơ bản vào
việc khảo cứu hiện tượng Siêu dẫn (Superconductivity)
và Siêu lỏng (Superfluidity)
Đó là:
 |
 |
 |
Alexei A. Abrikosov (sinh năm 1928, quốc tịch Mỹ và
Nga) làm việc tại Argonne National Laboratory,
Argonne, Illinois, Hoa Kỳ. |
Vitaly L. Ginzburg (sinh năm 1916, quốc
tịch Nga) làm việc tại P.N. Lebedev Physical
Institute, Moscow, Nga |
Anthony J. Leggett (sinh năm 1938, quốc
tịch Anh và Mỹ) làm việc tại University of
Illinois, Urbana, Illinois, Hoa kỳ. |
Giải thích hiện tượng Siêu dẫn
Một cách đại cương, Siêu dẫn là tình trạng mất tính
cản điện (điện trở) của vật chất khi được mang đến
gần không độ Kelvin (Tuyệt đối). Còn tình trạng Siêu
lỏng xẩy ra lúc chất lỏng (như
Helium), khi được mang xuống thật lạnh, đến gần không
độ Kelvin, có thể di chuyển tự
do, hầu như không ma sát.
Các vật lý gia coi Siêu dẫn và Siêu lỏng là một vì
chúng đều là là tính chất của các hạt tử khi được
mang xuống một nhiệt độ thật thấp. Tuy nhiên người ta
thích dùng từ Siêu dẫn để chỉ những luồng hạt tử mang
điện như electron.
Các khoa học gia đã khám phá ra hiện tượng siêu dẫn
từ gần một thế kỷ trước đây. Ta hãy
theo dõi những công trình nghiên cứu của họ từ
ngày đó đến nay.
Năm 1911 khi vật lý gia Hòa Lan H. K. Onnes
dùng Helium lỏng để hạ nhiệt độ của Thủy ngân
(Mercury) đến gần không độ Kelvin thì chất này hoàn
toàn mất tính cản điện, và ông là người đầu tiên dùng
từ “Siêu dẫn” để gọi hiện tượng này. Do công trình
khảo cứu trên ông đoạt giải Nobel Vật lý năm
1913 mặc dù chưa thể đưa ra một lý thuyết để giải
thích rõ ràng hiện tượng.
Như ta đã biết, dòng điện sinh ra do sự chuyển động
của các electron trong dây kim
loại. Khi chuyển động vô trật tự các electron
này làm các nguyên tử kim loại dao động và
sinh nhiệt. Ngoài ra sự chuyển động của các electron
còn tạo ra Từ trường (Magnetic field) và từ đó một
dòng điện ngược chiều được sinh
ra. Tương tác giữa Điện và Từ giữ vai trò quan
trọng trong quá trình tìm hiểu và cải tiến chất siêu
dẫn.
Năm 1933 hai khoa học gia W. Meissner và
R. Ochsenfeld đã khảo sát tính siêu dẫn của
Chì (Lead) khi chất này được đặt trong một
từ trường yếu và được làm lạnh từ từ. Khi được
hạ xuống dưới một nhiệt độ khá thấp, thường được gọi
là nhiệt độ Tới hạn (Critical Temperature) T, Chì trở
thành siêu dẫn và đồng thời có một tính chất đặc biệt
khác: Từ thông (Flux) bị đẩy hoàn toàn ra khỏi Chì.
Hiệu ứng này mang tên hiệu ứng Meissner-Ochsenfeld và từ đó người ta xác định được các
chất Siêu dẫn loại I (1).
Đến năm 1962, người ta tìm ra các
chất Siêu dẫn loại II (2).
Năm 1957 ba khoa học gia J. Bardeen, L. Cooper, và
J. Schrieffer đưa ý niệm có tính cách vi mô
(microscopic) đầu tiên để giải thích hiện tượng siêu
dẫn. Theo đó, ở 0 độ Kelvin, nếu không chịu ảnh hưởng
của từ trường và không có dòng điện, các electron
kết hợp thành từng cặp, gọi là Cặp Cooper
(Cooper pairs), và có thể di chuyển không va chạm
trong vật chất để tạo ra dòng điện. Mặc dù chỉ giải
thích được sự hoạt động của những chất siêu dẫn loại
I, nhờ công trình khảo cứu này họ đã thắng giải Nobel
Vật lý năm 1972.
Trong lúc đó, A. Abrikosov, từ những năm của
thập niên 1950s, dựa vào những khảo cứu trước đó của
V. Ginzburg, đã đưa ra những kết quả toán học khi khảo sát sự tương tác giữa
từ trường và chất siêu dẫn. Từ đó,
ông có thể giải thích trạng thái Hỗn tạp
(Mixed state) của chất siêu dẫn loại II (2). Đó là lý
do hai ông thắng giải Nobel năm nay.
Chất siêu dẫn loại II, thường là những hợp
kim, được đặc biệt chú ý vì chúng có thể trở thành siêu dẫn ở nhiệt độ tương
đối cao.
Ngày nay người ta đã tìm ra nhiều chất loại này có
thể trở thành siêu dẫn ở gần nhiệt độ Nitrogen lỏng
(khoảng 77 độ Kelvin) trong khi đó những chất siêu
dẫn loại I thường phải được duy trì ở nhiệt độ Helium
lỏng [khoảng 4.2 độ Kelvin,
(4.2K)]. Điều này rất quan trọng
trong kỹ nghệ vì Helium lỏng rất đắt tiền so với
Nitrogen lỏng.
Một trong những ứng dụng quan trọng của chất siêu dẫn
là việc chế tạo Nam châm Siêu dẫn (Superconducting
Magnet). Loại nam châm này có thể tạo một từ trường
rất mạnh, đồng nhất, ổn định, và ít tốn kém nên được
dùng nhiều trong các phòng thí nghiệm và các
máy MRI (Magnetic Resonance Imaging; Tạo ảnh do Cộng
hưởng Từ).
Bây giờ ta hãy bàn về chất Siêu lỏng.
Nếu Helium lỏng thường được dùng để làm lạnh những
chất khác như trên đã nói, thì chính chất này, ở
nhiệt độ thấp có tính chất đặc biệt: Siêu lỏng. Như
ta đã biết ở nhiệt độ thường
Helium là một khí rất nhẹ, hay ở dạng
4He (nhân gồm
hai proton và hai neutron).
Một dạng khác, dạng 3He (chất đồng vị của 4He ;
nhân có hai proton và một neutron), rất hiếm, có
chừng một phần 10 triệu so với 4He
.
Tính siêu lỏng của 4He được khoa học gia Pyotr Kapitsa và một số người khác khám
phá ra từ cuối thập niên 1930s và vật lý gia
Lev Landau, vì có công khi đưa ra giải thích lý thuyết, đã đoạt giải Nobel Vật lý năm
1962. 4He trở thành siêu lỏng ở chừng 2 độ
Kelvin và ở tình trạng Cô đọng Bose-Einstein (3). Khi đó,
4He có tính Đẳng
hướng
(Isotropy) (4) giống như cặp Cooper của electron trong chất siêu dẫn.
Tuy cùng là Helium, 3He khi ở tình trạng siêu lỏng có tính chất phức tạp hơn nhiều. Lý
do chính là vì trong nhân có ba hạt tử chứ không phải bốn như
4He. Do đó 3He tuân theo luật thống kê
Fermi-Dirac (3) và ở nhiệt độ thật thấp các nguyên tử
3He có thể kết đôi
(pair up) giống như đôi Cooper của electron nhưng có cơ cấu rắc rối hơn.
Tính siêu lỏng của 3He được các khoa học gia D.
Lee, D. Osheroff và R. Richardson tìm ra năm 1972, và đoạt giải Nobel Vật lý năm
1996. Không giống như 4He, 3He có tính Bất đẳng hướng
(Anisotropy) (4), một tính chất mà các vật lý gia đang cố gắng tìm hiểu.
Trong lúc đó, A. J. Leggett công bố một công trình có tính cách đột phá về phương diện lý
thuyết. Đó là hiện tượng Đồng thời Phá vỡ Đối xứng Nhiều lần (Multiple
Simultaneously Broken Symetries) (5) của các chất Siêu lỏng Bất đẳng hướng.
Leggett thắng giải Nobel năm nay vì kết quả khảo cứu của ông có nhiều ứng dụng trong
các ngành thiên văn và vật lý hạt nhân. Thí dụ như khi khảo sát tình trạng Hỗn loạn (Turbulence) của
3He ở trạng thái siêu lỏng,
các khoa học gia có thể biết thêm về sự chuyển biến từ tình trạng Trật tự sang Hỗn
độn của các hạt tử, một hiện tượng vật lý từ
lâu chưa được giải thích.
Chú thích:
(1) Ngoài ảnh hưởng của nhiệt độ, chất siêu dẫn loại
I còn chịu ảnh hưởng của từ trường bên ngoài: Khi từ
trường vượt quá trị số Tới hạn B, dù ở dưới nhiệt độ
Tới hạn T, chất này cũng mất tính siêu dẫn.
(2) Chất siêu dẫn loại II có hai từ trường tới hạn:
B1 và B2. Khi từ trường bên ngoài có cường độ ở giữa
trị số B1 và B2 (và nhiệt độ ở dưới nhiệt độ Tới hạn)
thì chất này ở một trạng thái đặc biệt gọi là trạng
thái Hỗn tạp (Mixed state). Lúc đó từ thông qua những
sợi nhỏ của chất này tạo thành những Từ xoáy
(Fluxoids hay Vortices). Mặc dù bên trong từng sợi
nhỏ không còn tính siêu dẫn nhưng toàn khối vẫn mất
tính cản điện.
(3) Những hạt tử ở tình trạng Cô đọng Bose-Einstein tuân theo luật Thống kê
Bose-Einstein, theo đó hai hạt tử (thí dụ như quang
tử) có thể hiện diện trên cùng một mức năng lượng
(thường được gọi là Bosons; chúng có số lượng tử spin
bằng 0 hoặc một số nguyên). Khi được làm lạnh đến
không độ Kelvin chúng mất tính cá biệt, tụ tập ở mức
năng lượng thấp nhất và có hoạt động đồng
phase. Fermions là những hạt tử (thí dụ như electron)
tuân theo luật thống kê Fermi- Dirac, theo đó hai hạt
tử không thể tồn tại trên cùng một mức năng lượng.
Chúng có số lượng tử spin bằng bội số lẻ của ½.
(4) Một cách đơn giản, tính Đẳng hướng là tính giống
nhau theo mọi hướng vì hạt tử hay cặp hạt tử không có
Từ tính. Cặp 3He có Từ tính nên làm môi
trường thành Bất đẳng huớng. Ngoài ra 3He
còn có thể tạo phản ứng Hợp hạt nhân (Fusion) để cho
4He, proton và sinh ra năng lượng. Đặc biệt, phản ứng
này không gây ô nhiễm và hầu như không tạo
chất phế thải phóng xạ. Do đó một số khoa học gia cho
3He là nguồn năng lượng của nhân loại
trong tương lai. Trái đất có rất ít 3He
nhưng trên mặt trăng có chừng một triệu tấn, đủ cho
con người dùng hằng ngàn năm!
(5) Một cách tổng quát, một hệ thống có tính Đối xứng
(Symmetry) nếu hệ đó không thay đổi dưới ảnh hưởng
của các Tác động (Operations).
(6) Nhân của những nguyên tử của mẫu vật phải có
Momen từ (Magnetic moment) khác không, thường có một
số lẻ proton hay neutron (thí dụ như 1H, 2H,
13C, 31P).
|