Tony Morrison là một trong các nhà văn danh
tiếng, quan trọng nhất hiện nay tại Châu Mỹ. Vào năm 1970 khi
tác phẩm “Mắt Xanh Nhất” (The Bluest Eye) xuất hiện, Toni
Morrison chỉ được công nhận là một nữ tiểu thuyết gia “da đen”,
nhưng sau các cuốn truyện “Sula” (1973), “Bài Ca của Solomon”
(Song of Solomon, 1977) và “Tar Baby” (1981), Tony Morrison đã
nhận thêm những lời khen ngợi của giới văn học.
1/ Thiếu thời của Toni Morrison.
Toni Morrison có tên thật là Chloe Anthony Wofford, chào đời vào
ngày 18 tháng 2 năm 1931, là người con thứ hai trong gia đình
bốn người, đã trưởng thành tại thị trấn Lorain gần thành phố
Cleveland, thuộc tiểu bang Ohio. Đây là một thị trấn chuyên về
ngành thép với dân số vào khoảng 75,000 người gồm các sắc tộc Ái
Nhĩ Lan, Tiệp Khắc, Đức, Hy Lạp, Ý, Serbia, Mễ Tây Cơ và người
da đen. Tại môi trường đa văn hóa này, Toni Morrison đã sống
biệt lập và không gặp nghịch cảnh kỳ thị màu da như các nhà văn
da đen khác, chẳng hạn như Maya Angelou, Dick Gregory và Richard
Wright. Ông ngoại của Toni Morrison là John Solomon và bà ngoại
là Ardelia Willis, họ là những người da đen di cư từ Alabama vào
năm 1912. Ông Solomon là một người thợ mộc, một nông dân gốc
Kentucky nhưng vì nhận thấy không có cơ hội thăng tiến vì cảnh
nghèo đói và kỳ thị, nên đã di chuyển lên tiểu bang Ohio. Từ ông
ngoại, Toni Morrison được nghe kể lại những câu chuyện kinh hãi
của đời sống da đen trong thời kỳ tái xây dựng, vào khoảng 12
năm sau Cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ. Cha của Toni Morrison là
George Wofford, một người da đen trồng hoa màu ăn chia nhưng vì
các áp chế chủng tộc tại tiểu bang Georgia, nên phải chạy lên
mạn Bắc, vì thế ông ta “không tin mọi lời nói, mọi cử chỉ của
người da trắng trên trái đất”. Trái lại, mẹ của Toni là bà Ramah
Willis Wofford lại là một người có giáo dục cao hơn, không có
thành kiến chua cay về các liên hệ chủng tộc, đã tín nhiệm các
người khác hơn ông chồng.
Toni Morrison được nuôi dưỡng trong một môi trường đầy đủ giáo
huấn và tôn giáo, bà đã viết rằng “chúng tôi được dạy dỗ rằng là
các cá nhân, chúng tôi có giá trị”. Toni Morrison được nghe kể
về những hoàn cảnh nguy hiểm và vinh quang trong lịch sử của
người da đen nhờ ông bà ngoại. Tại bậc tiểu học, Toni Morrison
đã mong muốn vượt lên bằng cách chăm học, chăm đọc sách, đọc say
mê các tác phẩm của Gustave Flaubert và Jane Austen cũng như của
các tiểu thuyết gia người Nga thuộc thế kỷ 19.
Sau bốn năm trường tại thị trấn Lorain, chuyên học tiếng La Tinh
và các tác phẩm danh tiếng của các tiểu thuyết gia người Pháp,
Anh và Nga, Toni Morrison tốt nghiệp Trung Học vào năm 1949 với
hạng cao, rồi yêu cầu gia đình cho theo bậc đại học, đây là một
điều khác thường bởi vì người phụ nữ da đen vào thời kỳ đó chỉ
nghĩ tới bổn phận nội trợ trong gia đình.Toni Morrison ghi danh
theo Đại Học Howard nằm trong Thủ Đô D.C., và công trình học vấn
này đã khiến cho người cha phải lãnh thêm công việc để kiếm đủ
số tiền cần thiết cho gia đình, như thợ hàn, người rửa xe hơi. .
.
Chính tại Đại Học Howard, Toni Morrison đã đổi tên từ Chloe
Anthony thành Toni và theo học những bậc thầy của phong trào bảo
vệ người da màu như nhà thơ Sterling Brown, nhà triết học Alain
Locke kiêm “phê bình gia và học giả Rhodes” và đây cũng là nhà
biên tập của tờ báo “Người Da Đen Mới” (the New Negro). Tại Đại
Học Howard chuyên giáo dục sinh viên da đen, Toni Morrison tìm
hiểu văn chương của các văn hào danh tiếng như Shakespeare,
Hawthorne, Melville và Wordsworth và cũng tham gia vào ban kịch
Howard Unity Players, đi trình diễn tại các tiểu bang Miền Nam
vào thời kỳ trước khi có phong trào tranh đấu cho Dân Quyền của
người da đen. Toni Morrison tốt nghiệp đại học với văn bằng Cử
Nhân (B.A.) vào năm 1953 rồi hai năm sau, 1955, hoàn thành
chương trình Cao Học (Master's) Ngôn Ngữ Anh tại Đại Học
Cornell, tập trung nghiên cứu các tác phẩm của Virginia Woolf và
William Faulkner.
2/ Thời kỳ giảng dạy và sáng tác.
|
Từ năm 1955, Toni Morrison bắt đầu giảng dạy môn Anh Ngữ và Khoa
Học Xã Hội tại Đại Học Texas Southern University trong thành phố
Houston, rồi làm giảng viên môn tiếng Anh tại Đại Học Howard
trong tám năm, 1957-64. Trong số các sinh viên của bà, có hai
người nổi danh là những nhà hoạt động cho phong trào Dân Quyền,
đó là Stokely Carmichael và Claude Brown, tác
giả của cuốn truyện “Đứa con trai trên Miền Đất Hứa” (Manchild
in the Promised Land). Năm 1957, Toni lập gia đình với kiến trúc
sư gốc người Jamaica tên là Harold Morrison và họ có một con
trai tên là Harold Ford sinh năm 1962. Cuộc hôn nhân này bị chấm
dứt vào năm 1965 và bà Toni trở về thị trấn Lorrain sống trong
một năm rưỡi.
Chính trong thời gian chào đời người con thứ hai tên là Slade
Kevin và cũng trong hoàn cảnh cô đơn này, Toni Morrison trở lại
với văn chương, tìm cách viết ra một loại truyện mà chính mình
cần tìm đọc trước kia. Năm 1966, bà Morrison tham gia một nhóm
chủ trương văn học bằng các truyện ngắn, một việc làm quen thuộc
từ thời trung học của bà. Từ năm 1967 tới năm 1983, Toni
Morrison làm biên tập viên các sách giáo khoa (textbook editor)
cho nhà xuất bản Random House tại thành phố Syracuse, tiểu bang
New York, rồi sau đó trở thành nhà biên tập thâm niên (senior
editor), làm việc cho cơ sở xuất bản gốc đặt tại thành phố New
York.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, tại Hoa Kỳ đã có một số người da
đen danh tiếng như Angela Davis, Toni Cade Bambara, Wesley
Brown, Gayle Jones và Muhammad Ali, và thị trường các sách
truyện viết về người da đen cũng bắt đầu phát triển. Nhà xuất
bản Random House muốn có các truyện kể về người da đen do các
nhà văn da đen sáng tác. Năm 1968, Toni Morrison hoàn thành cuốn
truyện “Mắt Xanh Nhất” (the Bluest Eye), mô tả một nạn nhân bị
mang thai, một đứa trẻ không được yêu thương, một thiếu nữ sống
bên lề gia đình và xã hội. Đây là cuốn truyện kể về một cô gái
nhỏ da đen, muốn sửa chữa các khuyết điểm của mình bằng cách cầu
xin Thượng Đế cho mình một đôi mắt xanh. Sau vài lần bị từ chối,
cuốn truyện “Mắt Xanh Nhất” được nhà xuất bản Holt, Rinehart &
Winston phổ biến. Bốn năm sau, Toni Morrison viết xong cuốn
truyện thứ hai tên là “Sula” qua đó tác giả mô tả các giới hạn
của người phụ nữ da đen. Tác phẩm “Sula” được xuất bản vào năm
1973 đã khiến cho tác giả lãnh Giải Thưởng Sách Quốc Gia (a
National Book Award) và được công nhận là một tài năng trên bình
diện quốc gia.
Tony Morrison nhận chức Giáo Sư Thỉnh Giảng tại Đại Học Yale từ
năm 1975 tới năm 1977 và tại Đại Học Bard (Bard College) trong
hai năm 1979 - 80. Bà Morrison giảng dạy môn học viết văn sáng
tạo (creative writing) và nền Văn Chương Mỹ Da Đen
(African-American literature). Do nhu cầu muốn diễn tả cách nhận
định và hiện thực, do chịu ảnh hưởng từ sự qua đời của người
cha, nhà văn nữ này thuật lại một nhân vật tên là Milkman Dead,
khi đi tìm tài sản bị mất của gia đình, đã khám phá ra lịch sử
của dòng họ. Đây là tác phẩm “Bài Ca của Solomon” (Song of
Solomon, 1977), một cuốn truyện tập trung vào các người nô lệ da
đen. Cuốn này trở thành tiểu thuyết bán chạy nhất (a
best-seller), đã mang về cho Toni Morrison Giải Thưởng Quốc Gia
Phê Bình Sách (the National Book Critics Circle Award) cũng như
Giải Thưởng của Hàn Lâm Viện và Viện Nghệ Thuật và Mỹ Tự Hoa Kỳ
(the American Academy and Institute of Arts and Letters Award).
Sự thành công của cuốn truyện này cùng với loạt bài phỏng vấn
tác giả của Dick Cavett và loạt chương trình truyền hình PBS về
“Các Nhà Văn của Hoa Kỳ” (Writers in America) đã đưa Toni
Morrison lên hàng đầu. “Bài Ca của Solomon” cũng là cuốn tiểu
thuyết đầu tiên viết về người da đen được Hội Sách Trong Tháng
(Book-of-the-Month-Club) chọn lựa, sau tác phẩm “Đứa con trai
quê hương” (Native Son, 1940) của Richard Wright . Nữ văn sĩ
Toni Morrison còn được Tổng Thống Jimmy Carter mời vào Hội Đồng
Nghệ Thuật Quốc Gia (the National Council on the Arts).
Tác phẩm thứ tư của Toni Morrison có tên là “Tar Baby” (1981) mô
tả một người đàn ông da đen và một người đàn bà đã gặp thất bại
trong việc duy trì mối liên hệ tình cảm bởi vì sự khác biệt giữa
các giai cấp. Cuốn tiểu thuyết này cũng trở nên thứ bán chạy
nhất (a best-seller) khiến cho tờ Tuần Báo Newsweek phải đưa
hình tác giả lên bìa báo và Toni Morrison được ca ngợi là “nhà
văn da đen hàng đầu” của Hoa Kỳ.
Sau khi được trường Đại Học Tiểu Bang New York tại thành phố
Albany mời giữ chức vụ “Giáo Sư Albert Schweitzer về Khoa Xã Hội
Học” (Humanities), Toni Morrison từ chức khỏi nhà xuất bản
Random House vào năm 1984.
Vào tháng 1 năm 1986, Viện Nhà Văn Tiểu Bang New York (the New
York State Writers Institute) đặt nữ văn sĩ Toni Morrison viết
vở kịch “Emmett Mơ Mộng” (Deaming Emmett) để diễn tả cái chết bi
thảm của em bé Emmett Till gây ra do các người kỳ thị màu da vào
thập niên 1950. Tới năm 1987, cuốn tiểu thuyết “Người Thương”
(Beloved) được nhiều người coi là tác phẩm thành công nhất của
Toni Morrison. Đây là câu chuyện kể về cô Sethe, một người mẹ
giết chết đứa con gái của mình hơn là để nó lớn lên thành một
người nô lệ. Tác phẩm khai thác nhiều chủ đề phức tạp, kể cả sự
liên hệ của người da đen vào chế độ nô lệ và tác giả đã dùng tới
nhiều khung thời gian (timeframes) và các đột biến, chứng tỏ tài
năng kể chuyện độc đáo của tác giả, khiến cho độc giả phải chấp
nhận các bất thường là hiện thực.
Cuốn tiểu thuyết “Người Thương” của Toni Morrison cũng trở nên tác
phẩm bán chạy nhất (a best-seller) giống như hai tiểu thuyết
trước kia, ngoài ra còn mang lại cho tác giả “Giải Thưởng
Pulitzer” về chuyện sáng tác (fiction). Giải Thưởng uy tín này
xác nhận Toni Morrison là nhà văn viết tiểu thuyết xuất sắc và
bà Morrison được mời giữ chức vụ “Giáo Sư Robert F. Goheen của
bộ môn Xã Hội Học” tại Đại Học Princeton.
Các sáng tác kế tiếp của Toni Morrison gồm hai cuốn tiểu thuyết
“Jazz” (1992) và “Thiên Đường” (Paradise, 1998). Đây là cuốn
truyện thứ bẩy trong đó tác giả mô tả thị xã Ruby da đen và cuộc
quấy phá của một nhóm người đàn ông tại một cộng đồng nhỏ gồm
toàn phụ nữ sống bên lề của thị xã. Năm 1992, Nữ Văn Hào Toni
Morrison cũng cho xuất bản cuốn sách không-hư-cấu (nonfiction)
gồm các bài luận văn, có tên là “Chơi trong bóng tối : bạch hóa
và trí tưởng tượng trong văn chương” (Playing in the Dark :
Whiteness and the Literary Imagination).
3/ Vài nhận xét về Toni Morrison.
|
Toni Morrison đã mô tả về chính mình, một nhà văn, như sau : “khi
bạn cầm bút viết, không phải vì bạn có các câu trả lời. . . mà
bởi vì bạn không có", và "câu trả lời duy nhất mà bạn thực sự
có, đó là công trình mà bạn đang làm". Tác phẩm của Toni
Morrison là một tiến trình, đầu tiên do cảm hứng rồi bị kiểm
soát do trí thức. Trước khi bắt đầu một cuốn tiểu thuyết, nhà
văn nữ này đã nghiền ngẫm đề tài và suy nghĩ về thể văn, viết
xuống các bình luận của mình về các diễn tiến của câu chuyện và
bà Morrison đã nói :”có thể tôi đã suy nghĩ hai năm trước khi
viết ra một câu văn trên mặt giấy”. Bà đã cứu xét các cảm xúc,
ngôn từ, phép ẩn ý (metaphor) khiến cho các đoạn văn ăn khớp vào
toàn thể câu chuyện và tác giả còn bỏ nhiều thời giờ để thử
nghiệm mọi cách tiếp cận, duyệt xét từng phần và làm cho các
đoạn văn thêm phần bóng bẩy. Vì thế kết quả là một thể văn đặc
biệt nhờ sự pha trộn khác thường của tầm xa tưởng tượng với cách
quyết định về cấu trúc cuốn truyện.
Toni Morrison muốn phục hồi thứ ngôn ngữ mà chủng tộc da đen đã
dùng theo năng lực sơ khởi, đó là thứ tiếng nói giống như của âm
nhạc, chứa đựng bên trong các truyền thống đặc thù. Nhà văn nữ
này viết ra các tiểu thuyết diễn tả các cảm xúc từ các người
không phải là các nhà văn, không do một tác giả kể lại câu
chuyện mà tới từ nhiều hướng khác nhau. Cách tiếp cận này có thể
là hỗn loạn nhưng không phải vậy, bởi vì bên trong tác phẩm vẫn
có một thứ tiếng nói hướng dẫn, mặc dù nghe được từ mọi hướng mà
không dễ gì nhận biết được, bởi vì tác giả đã tránh né cách dùng
quan điểm cá nhân, đơn giản. Tác giả cố gắng tạo ra các ảo tưởng
rằng quan điểm thuộc về nhiều nhân vật và câu chuyện vẫn tiếp
tục như được kể lại không phải do một nhân vật đặc biệt nào.
Các công trình văn học của Toni Morrison có thể so sánh với các
tác phẩm của Văn Hào William Faulkner bởi vì phẩm chất “lời nói”
(oral quality) của cả hai tác giả. Toni Morrison rất đặc biệt
trong khu vực “văn chương làng xã” (village literature) do trọng
tâm câu chuyện được tập trung vào một nhóm người đặc biệt, cư
ngụ tại một nơi hẻo lánh. Tác giả đề cập tới lớp người da đen,
sắc dân quen thuộc của nhà văn, nhưng tác phẩm của bà Morrison
lại không mang tính tự thuật. Tác giả mô tả các nhân vật trong
truyện do cách quan sát cẩn thận, do pha trộn bên trong các màu
sắc, các con số, các hình bóng của đời sống hàng ngày và độc giả
nhận ra thế giới bên ngoài đã nhìn các nhân vật đó ra sao đồng
thời các nhân vật đó, bằng con mắt của chính họ, quan niệm thế
giới bên ngoài như thế nào.
Khi viết truyện, Toni Morrison có một chủ đích rõ ràng. Qua các
tác phẩm, bà kể lại các cuộc đời và những mối bận tâm của cộng
đồng da đen miền Trung Tây Hoa Kỳ (Midwestern), mô tả các tranh
đấu, các niềm vui của họ trên con đường tự tìm hiểu, thực chất
của họ ra sao, nhận thức của họ thế nào và tác giả đã khéo léo
pha trộn hai loại hiện thực và siêu thực để khám phá ra những
yếu tố ma thuật (magical elements) của đời sống hàng ngày.
Các tác phẩm của Toni Morrison đã soi sáng một số kinh nghiệm
nhiều mặt, các loại tâm lý của cộng đồng da đen và chính các tác
phẩm này lại bị ảnh hưởng bởi lịch sử, bởi các ảnh hưởng hỗ
tương của chủng tộc, giai cấp và giới tính. Các tác phẩm của
Toni Morrison cũng tấn công một số giá trị được lưu giữ trong xã
hội Hoa Kỳ, đó là sự đề cao tính thuần phục (domesticity) và bản
tính thực (true womanhood) của phụ nữ, sự đề cao tình yêu lý
tưởng, các tiêu chuẩn mẫu mực về vẻ đẹp, về đạo đức làm việc
theo đạo Tin Lành, sự đề cao chế độ tư bản và tính ưu việt của
nền văn hóa tây phương, của nền kỹ thuật mới. Địa vị của Toni
Morrison được thiết lập một phần trên cơ sở văn học sẵn có, một
phần trên nền văn hóa của sắc dân thiểu số da màu. Toni Morrison
mô tả các kinh nghiệm của người da đen trong nền văn hóa da
trắng và tác giả ở vị thế “người đứng ngoài từ bên trong”
(outsider within status) để qua lại giữa các biên giới ngăn cách
các chủng tộc, giai cấp và văn hóa.
Toni Morrison dùng tới các cách đối xử gia đình, các biện chứng xã
hội (social dialectic) và sử dụng cả các yếu tố siêu nhiên
(supernatural elements) trong một số câu chuyện kể về nhiều gia
đình da đen và độc giả được chia xẻ với tác giả cách ý thức kép
(double-consciousness) trong cuộc hành trình đi tìm kiếm tầm
hiểu biết và sự thật.
Toni Morrison đã nhận Giải Thưởng Sách Quốc Gia (the National Book
Award), Giải Thưởng truyện tiểu thuyết của Hiệp Hội Quốc Gia Phê
Bình Sách (the Fiction Award of the National Book Critics
Circle), Giải Thưởng của Hàn Lâm Viện và Viện Nghệ Thuật và Mỹ
Tự Hoa Kỳ (the American Academy and Institute of Arts and
Letters Award) và gần đây nhất, tác phẩm “Người Thương”
(Beloved, 1987) của Bà đã đoạt “Giải Thưởng Pulitzer”. Vào năm
1993, Nữ Văn Hào Toni Morrison đoạt “Giải Thưởng Nobel về Văn
Chương”, trị giá $825,000 Mỹ kim do các tác phẩm đã sáng tạo.
|