Theo dòng lịch sử, nước
Việt Nam đã mang nhiều Quốc hiệu :
Vào niên đại vua Kinh Dương, năm
2879 TCN., với quốc hiệu Xích Quỷ,
địa bàn quốc gia rộng lớn, phía
bắc tới sông Dương tử (cả vùng
hồ Động Đình), phía nam tới nước
Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông
Hải (một phần của Thái Bình Dương),
phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, thuộc nước
Tàu ngày nay). Về sau do sự lấn áp võ dõng
của du mục Hoa tộc, Việt tộc lui
dần về địa bàn gốc. Đánh
dấu bằng các niên đại vua Hùng với tên
nước là Văn Lang. Năm chót của niên
đại này là năm 257 tr.D.L.
Văn Lang (2879 - 258 TCN) : Thuộc về đời
Hồng Bàng
Ðầu thời kỳ đồ đồng,
những bô lạc người Việt sống
ở miền Bắc và phía Bắc trung tâm
Việt Nam. Tính ra có khoảng 15 nhóm Lạc
Việt khác nhau sống trên vùng cao nguyên mièn
Bắc và miền châu thổ sông Hồng Hà, hơn
12 nhóm Âu Việt sống nơi miền Ðông
Bắc. Ðể tiện việc trao đổi buôn
bán, phòng chống lụt lội, chống lại
kẻ thù... Họ có khuynh hướng gom tụ
lại thành một nhóm to lớn hơn. Trong
số những bộ lạc Lạc Việt, Văn
Lang là mạnh nhất.
Những bộ lạc Lạc Việt được
gom lại thành một nước lấy tên Văn
Lang và người cầm đầu tự xưng
là Hùng Vương.
Trong thời kỳ đô hộ bởi
Chế độ phong kiến phương Bắc,
nước Việt Nam bị chia cắt nhiều và
mang tên như là những quận huyện của
nhà nước cai trị đương thời :
Năm 221 trước CN, Tần
Thủy Hoàng, vua Trung Hoa, xâm chiếm lãnh thổ
Việt. Nhà Tần lược định
phía Nam và gọi là Tượng quận (246
-206 TCN).
Âu Lạc (257 - 207 TCN) :
Ðời nhà Thục An Dương Vương Âu
Việt đã đuổi được Trung
hoa và lấy tên Âu Lạc (năm 208 trước
CN).
- Nhà Hán lật đổ nhà Triệu và chia
Tượng quận ra thành 3 quận nhỏ :
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (202 TCN -
220).
- Cuối nhà Đông Hán trị vì ở Trung
Quốc, vua Hiến Đế đổi
quận Giao Chỉ thành Giao Châu.
Nhưng sau đó bị Trung Hoa xâm
lấn trong suốt 700 năm.
Mùa Xuân 542, Lý Bi xua đuổi được
quân Tàu và tự xưng vua nước Vạn
Xuân nhưng không bao lâu lại bị quân Tàu
chiếm trở lại từ năm 602 cho đến
khi Ngô Quyền chiến thắng trận Bạch
Ðằng năm 938 và chấm dứt sự đô
hộ của người Tàu.
- Sau đến nhà Đường:
Nước Việt Nam lại mang tên mới là An
Nam đô hộ phủ (618 - 907)
Đại Cồ Việt :
Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh đánh
thắng Thập nhị Tướng Quân và
thống nhất lãnh thổ, ông xưng Vương
và đặt tên nước là Ðại Cồ
Việt. Tên này giữ nguyên dưới
triều đại nhà Ðinh (869-979), Lê (980-1009) và
cho đến đầu triều đại nhà Lý
(1010-1053).
Đại Việt :
Năm 1054, vua Lý Thánh Tông đổi
tên nước là Ðại Việt. Tên này
được giữ cho đến đời nhà
Trần.
Ðại Ngu
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp
ngôi vua Trần và đổi quốc hiệu là Ðại
Ngu (nghĩa là hòa bình). Tên này
được dùng cho đến khi quân Minh xâm
chiếm nước Ðại Ngu và thắng họ
Hồ năm 1407.
Sau 10 năm kháng cự với quân Minh
đang xâm chiếm nước ta (1418-1427), Lê
Lợi đại thắng quân Minh. Năm 1428
ông lên ngôi và lấy trở lại tên cũ là Ðại
Việt. Tên này tồn tại trong suốt
triều đại nhà Lê (1428-1787) và nhà Tây Sơn
(1788-1810).
An Nam quốc :
Nhà Tống công nhận một quốc gia độc
lập, dưới triều vua Lý Anh Tông
Việt Nam (1802) :
Thời vua Gia Long thống nhất cả hai
miền Nam Bắc, lấy quốc hiệu là Việt
Nam từ chữ An Nam và Việt Thường
Đại Nam :
Trong triều đại Minh Mạng
(1820-1840) tên nước lại được
đổi là Ðại Nam nhưng cái tên Việt
Nam vẫn tồn tại rộng rãi khắp nơi
trong văn chương, kinh tế và xã hội.
|