Chương sáu
[chương cuối]
Loạn lạc tại miền
tây nam và tây bắc Trung Quốc
Tại Quý Châu người
Hán và Mèo sống lẫn
lộn, đất xấu dân
nghèo ; thuế thu
được chỉ bằng một
huyện lớn của tỉnh
Chiết Giang. Người
Mèo cường ngạnh,
được coi là khó trị.
Từ khi chính sách
“ Cải thổ quy lưu ”
ban hành
1,
quan lại tham bạo
bắt người Mèo cung
ứng phục dịch, người
Hán xâm phạm đất
đai, ham lợi bóc
lột, sinh kế người
Mèo trở nên khốn
cùng, bèn vác giáo
vào rừng, cậy hiểm
chống cự. Người Mèo
thường nói rằng “
Bọn ta không biết
như thế nào gọi là
phản, cứ mang binh
đến thì đánh, cư xử
tốt thì theo, đói
thì cướp, giận thì
giết. Ta không quấy
nhiễu quan, thì quan
cũng quấy nhiễu ta,
chỉ có ai mạnh thì
thắng mà thôi ” ; đó
là nguyên nhân gây
sự của dân Mèo.
Trước kia quan quân
thường dùng vũ lực
để áp bức, kể từ khi
Thái Bình Thiên Quốc
nổi lên, quân binh
phải điều đi nơi
khác, lương hướng
tiếp tế không đến,
trị an không giữ
được. Do đó các cuộc
nhiễu loạn dấy lên,
thường gọi là “ Miêu
loạn ” nhưng thực sự
còn có cả người Hồi,
và Hán ; duy người
Miêu hay Mèo là chủ
yếu.
Năm 1855, người Mèo
nổi loạn tại phía
đông tỉnh Quý Châu,
thủ lãnh là Trương
Tú Mi ; Bạch Liên
Giáo do người Hán
lãnh đạo rầm rộ
hưởng ứng. Bạch Liên
Giáo có nhiều loại,
phân biệt bởi màu
sắc khăn đội đầu, y
phục, hoặc cờ ; có
Hồng hiệu, Hoàng
hiệu, Thanh hiệu,
Bạch hiệu, nên các
quan lại quen gọi là
“ Hiệu phỉ ” ; ngoài
ra còn có Ðăng Hoa
Giáo, Thái Bình
Giáo. Trong số đó
Hồng hiệu, Hoàng
hiệu, Bạch hiệu
tương đối lớn, phân
bố tại hàng chục
huyện thuộc miền
đông và đông bắc Quý
Châu ; sau khi liên
kết với giặc Mèo,
thì man diên khắp
tỉnh, số lượng đến
mấy chục vạn người.
Năm 1860, một bộ
phận của Thạch Ðạt
Khai đến phía nam
Quý Châu, phối hợp
với quân Mèo đánh
Quý Dương [Guiyang,
Quý Châu]. Triều
Thanh sai Tương quân
đến cứu viện, quân
Mèo và các Giáo phái
nghe quan quân đến
thì lẩn trốn, lúc đi
qua rồi thì tụ tập
lại. Sau khi bình
định xong Thái Bình
Thiên Quốc ; theo
lời bàn của Tăng
Quốc Phiên, triều
đình mệnh Tuần phủ
Hồ Nam [Hunan] thống
lãnh việc đánh dẹp,
có Tương quân tại Tứ
Xuyên [Sichuan] tiếp
ứng. Năm 1867 Tương
quân tây lộ bình
định miền tây bắc
Quý Châu, năm 1868
Tương quân đông lộ
công phá căn cứ địa
Bạch Liên Giáo tại
Thạch Thiên
[Shiquian, Quý
Châu]. Năm 1869 quân
Mèo đại bại Tương
quân đông lộ, nhưng
vì đánh nhau lâu
không có lương nên
thế lực suy sụp. Năm
1871, 1872, Tương
quân mấy lần thắng.
Tháng 5/1872, Tương
quân chiếm cứ các
căn cứ địa của quân
Mèo và Giáo phái tại
Thai Củng [Taigong,
Quý Châu] và Khải Lý
[Kaili, Quý Châu],
Trương Tú Mi bị bắt,
số hàng hơn 10 vạn,
bị giết khoảng hơn 2
vạn ; toàn bộ Quý
Châu được bình định.
Dân Mèo còn lại
khoảng 2/10, các
thành quách ruộng
rẫy biến thành đất
hoang, trai tráng
Mèo chết gần hết ;
người Hán cũng lưu
ly không có chỗ ở,
số chết gần một nửa.
2. Quân Hồi, Hán
tại Vân Nam chống
Mãn Thanh
Sự biến loạn tại Vân
Nam tương tự như Quý
Châu ; khởi đầu tại
Quý Châu dân Mèo và
Hán xung khắc, tại
Vân Nam, Hán, Hồi
cừu hận. Dân Hồi có
trình độ tổ chức tín
ngưỡng, ý thức dân
tộc mạnh, sống lẫn
lộn với người Hán ;
phong tục khác nhau,
quyền lợi xung khắc,
dễ đâm ra thù hận,
rồi lập đảng tranh
giành. Người Hồi dựa
vào số đông đồng
lòng, thường đóng
tiền bảo trợ, gặp
việc bất thường giúp
đỡ nhau ; người Hán
cũng có tổ chức đoàn
luyện tự vệ, mỗi
người đóng “ bảo gia
tiền ”
2.
Pháp lệnh quy định
trị tội nặng người
Hồi phạm pháp, mỗi
khi có tranh chấp
thì quan lại thường
bênh vực người Hán ;
người Hồi bất bình,
tìm cách báo phục.
Vào năm 1845, tại
Bảo Sơn [Baoshan]
phía tây Vân Nam,
Hồi và Hán tranh
đấu, quan quân giúp
người Hán đánh Hồi,
khiến dân Hồi chết
hơn 4 000 người. Các
xứ Hồi khác kế tiếp
nổi lên, giết người
đốt nhà, kéo dài
không bình định
được. Năm 1847 Lâm
Tắc Từ giữ chức Tổng
đốc Vân Quý, tiễu
trừ loạn Hồi, cũng
trừng trị những
người Hán gây sự ;
trong vòng 7 năm
được yên ổn.
Người có uy tín với
dân tộc Hồi tại Vân
Nam, là chưởng giáo
Mã Ðức Tân tại Ðại
Lý [Dali, Vân Nam],
Mã đã từng viếng
thánh địa Hồi giáo ;
Ðỗ Văn Tú, Mã Như
Long đều là môn đồ.
Ðỗ Văn Tú vốn là Tú
tài người đất Bảo
Sơn, có tài lược ;
trong vụ biến loạn
tại Bảo Sơn đã đích
thân đến Bắc Kinh
khống tố, nghe biết
nhiều, nên xem
thường triều đình
nhà Thanh. Mã Như
Long là Vũ sinh tại
Lâm An [Linan, Vân
Nam], dõng cảm ưa
chiến đấu.
Năm 1854 mối loạn
khuyếch trương,
người Hồi giết quan
binh, người Hán giết
người Hồi ; Mã Ðức
Tân hô hào dân Hồi
bao vây Côn Minh
[Kunming, Vân Nam],
hàng ngàn dân Hồi
trong thành bị giết.
Phía tây Vân Nam,
loạn kế tục nổi
lên ; một nhánh do
Lý Văn Học lãnh đạo
người Hán, người Di
3
chiếm cứ huyện Nhĩ
Ðộ [Midu, Vân Nam],
hô hào “ diệt quan
lại Mãn Thanh tham
ô, tiêu trừ chủ
trang trại người
Hán ” ruộng đất trả
lại cho dân nghèo,
không phân biệt Di,
Hán.
Cũng vào tháng
9/1854, Ðỗ Văn Tú
lãnh đạo dân Hồi
chiếm đoạt Ðại Lý
[Dali, Vân Nam], để
tóc dài, thay y
phục, tự xưng tổng
thống binh mã đại
Nguyên soái. Ðỗ biết
rằng người Hán đông,
Hồi ít ; muốn thành
đại sự nghiệp phải
liên kết với Hán và
Di, thừa nhận “ Ba
giáo (Hồi, Hán, Di)
đều là căn bản và có
chỗ đúng cùng đồng
kinh doanh chung sự
nghiệp, phải cư xử
cùng một lòng nhân”,
“Xuân thu tế tự
Khổng Tử, dùng tiền
vải cấp cho dân
nghèo ; các chức
trấn địa phương Hồi,
Hán cùng nhiệm vụ ;
tiếp đãi tân khách,
Hồi, Hán cùng ngồi
chung chiếu.” Về
quan chức thuộc cấp,
người Hán chiếm hơn
một nửa ; quân lính
Hán binh chiếm 7, 8
phần ; Hồi binh
chiếm 2, 3 phần. Ðỗ
bảo rằng việc cử
binh “ Do Mãn Thanh
chiếm cứ đất Trung
Hạ của chúng ta, tổn
thương đồng bào,
diệt dân Hồi ” mong
muốn Hồi, Hán đồng
tâm, diệt trừ mối
quốc nhục. Như vậy
ngoại trừ tôn giáo
không giống nhau,
lập trường chống Mãn
Thanh cũng tương tự
với Thái Bình Thiên
Quốc.
Do sự quan trọng về
địa lý, thời kỳ mở
đầu địa vị của Ðỗ
Văn Tú không bằng Mã
Như Long. Lực Lượng
của Mã Như Long cách
Côn Minh không xa,
có thể trực tiếp uy
hiếp tỉnh thành. Năm
1857, Côn Minh hai
lần bị vây, Tổng đốc
Hằng Xuân tự tử, dân
chết đói đến hàng
vạn. Triều đình nhà
Thanh bèn đổi sang
chính sách chiêu
phủ, cho Mã Ðức Tân
được quản lý các nơi
thờ phượng đạo Hồi,
gọi là Thanh Chân
Tự ; nên lực lượng
tấn công của người
Hồi tự rút lui. Năm
1859 quan quân hai
lần tây chính, Ðỗ
Văn Tú không chống
nổi. Năm sau Mã Như
Long đánh Côn Minh,
quân tây chinh trước
sau đều thụ địch. Mã
Như Long và Ðỗ văn
Tú họp bàn, đồng ý
ai chiếm được Côn
Minh người đó được
tôn lên cầm đầu,
riêng thuế khóa thì
chia hai. Mã mấy lần
đánh thành, nhưng Ðỗ
không tương trợ, lại
còn chiếm tiền thuế
muối, nên Mã tỏ ra
bất bình. Lương thực
quân Mã không đủ,
lại bị đoàn luyện
phối hợp với quan
quân chống cự, không
lấy được Côn Minh,
nên rất khó mà thành
công. Năm 1862, qua
sự vận động của Sầm
Dục Anh, Tuần phủ
Vân Nam chiêu phủ
được Mã Như Long,
đây là bước chuyển
biến lớn trong việc
dẹp loạn tại nơi
này.
Sầm Dục Anh nguyên
là Thổ ty đất Tây
Lâm [Xilin, Quảng
Tây], năm 1856 mộ
quân đến tỉnh Vân
Nam, từng giữ chức
Tri huyện, rồi Tri
phủ ; sau khi Mã Như
Long đầu hàng, được
phong quyền Bố chánh
tỉnh Vân Nam. Mã Ðức
Tân muốn giữ chức
Bình nam vương,
nhưng không toại
nguyện ; năm 1863
sai Mã Vinh, lãnh tụ
quân Hồi lộ phía
đông, tập kích Côn
Minh, giết Tổng đốc
Phan Phong. Sầm Dục
Anh liên kết với Mã
Như Long đánh đuổi
Mã Vinh, từ đó Mã
Ðức Tân không còn
thực lực. Mã Như
Long mấy lần khuyên
Ðỗ Văn Tú quy thuận,
nhưng Ðỗ ở thế cưỡi
cọp, cho rằng nếu
không thành được
việc lớn thì cũng
tìm yên trong phạm
vi nhỏ. Năm 1857, Ðỗ
thừa lúc Sầm Dục Anh
tại viễn đông, bèn
mang quân đông tiến,
chiếm cứ các thành
trì xung quanh Côn
Minh. Nếu chỉ riêng
tình hình Vân Nam mà
bàn thì rất nguy
ngập, nhưng nhìn
chung toàn cuộc thì
quan quân đã bước
vào hoàn cảnh tốt.
Việc dẹp quân Niệm
tại phía bắc sông
Trường Giang đã đi
vào hồi cuối, triều
đình Bắc Kinh dùng
Tương quân đánh Quý
Châu, quân từ Tứ
Xuyên đánh dẹp tại
Vân Nam. Năm 1868
giao cho viên cầm
quân Tương quân phụ
trách bình định phía
tây Quý Châu là Lưu
Nhạc Chiêu làm Tổng
đốc Vân Quý, Sầm Dục
Anh làm Tuần phủ Vân
Nam. Sầm trở về cứu
viện tỉnh thành, Lưu
củng cố hậu phương,
các tỉnh hiệp lực
chuyển lương thực
đến. Sầm lại thi
hành chính sách phân
hóa, thuyết phục
viên đại tướng người
Hán của phe Ðỗ là Lý
Phương Viên quy
hàng ; quân Ðỗ Văn
Tú đại bại, vùng
xung quanh tỉnh
thành được tảo
thanh.
Vân Nam giáp giới
Việt Nam và Miến
Ðiện, thế lực Pháp,
Anh hiện diện tại
các nước này tìm
cách gây ảnh hưởng.
Nhà truyền giáo nước
Pháp, P. Fenouil
[Cao Ty Phong] giúp
Sầm Dục Anh, Mã Như
Long chế đạn dược ;
tên buôn súng người
Pháp, Jean Dupuis
[Ðồ Phổ Nghĩa], giúp
họ mua và chuyển vận
vũ khí cùng lập
xưởng chế tại pháo,
lại có võ quan Pháp
giúp huấn luyện.
Người Anh, tên
Edward B. Sladen [Tư
Lai Ðăng] từ Miến
Ðiện đến vùng biên
giới tại Ðằng Việt
[Tengchong, Vân Nam]
buôn bán. Ðỗ Văn Tú
cũng mở cửa hàng tại
Miến Ðiện, nên quân
Ðỗ cũng có súng Tây
phương, nhưng không
bằng Sầm và Mã. Sau
khi thu phục xong
miền phụ cận tỉnh
thành Côn Minh, bèn
viễn chinh sang phía
tây, vùng Ðại Lý do
Ðỗ kiểm soát lâm vào
thế nguy. Năm 1871,
Ðỗ sai sứ đến Luân
Ðôn, xin viện trợ
nạp cống xưng thần,
nhưng vô hiệu quả.
Tháng 12/1872 Sầm
Dục Anh đánh chiếm
Ðại Lý, Ðỗ Văn Tú tự
tử, quân Hồi đầu
hàng, hơn 3 vạn
người bị giết, Lý
Văn Học binh bại
cũng bị bắt, bộ phận
của Sầm khắc phục
Ðằng Việt, loạn Vân
Nam trong vòng 18
năm được bình định.
3. Hồi giáo tại
Thiểm Tây, Cam Túc
Thiểm Tây, Cam Túc
có những khu vực
Hán, Hồi sống lẫn
lộn với nhau. Năm
1862, Thái Bình
Thiên Quốc vào tỉnh
Thiểm Tây, các nhóm
người Hồi tại Quan
Trung [Guanzong,
Thiểm Tây] cùng nổi
lên quấy nhiễu. Dọc
theo sông Vị Hà mấy
trăm dặm chiến tranh
tiêu thổ, dân Hồi
tại phía tây cùng
tỉnh Cam Túc rầm rộ
hưởng ứng. Triều
Thanh ra lệnh Ða
Long A cùng Bảo
Thắng mang quân từ
các tỉnh Hà Nam, An
Huy đến tăng viện.
Bảo Thắng hành quân
thất lợi, bị cách
chức trị tội. Năm
sau [1863] Ða Long A
tảo thanh đông lộ,
giải vây Tây An
[Xian, Thiểm Tây],
rồi tiếp tục đánh
dẹp miền tây, chém
giết nhiều, người
Hồi rút lui về tỉnh
Cam Tủc.
Tại Cam Túc có hai
phái Hồi, tân giáo
và cựu giáo ; triều
đình bảo trợ cựu
giáo ; riêng Mã Hóa
Long là thủ lãnh tân
giáo, từng liên lạc
với Hồi tại Vân Nam.
Năm 1861, loạn bắt
đầu xẩy ra tại Tây
Ninh [Xining, Thanh
Hải]
4,
đứng đầu là Mã Quế
Nguyên. Năm sau loạn
tại Thiểm Tây bùng
nổ lớn, Mã Hóa Long
nổi dậy tại Ninh Hạ
[Ningxia]
5,
khống chế cả miền
Lũng bắc
6,
Lũng đông. Tiếp
theo, Mã Chiêm Vụ
chiếm cứ vùng Hà
Châu [Hezhou, Cam
Túc], Mã Văn Lộc
chiếm vùng Túc Châu
[Suzhou] ; toàn tỉnh
Cam Túc chỉ còn lại
vài châu. Loạn tại
Vân Nam do Hồi, Hán
liên hợp ; ngược lại
tại Cam Túc do bởi
Hồi, Hán tương
tranh. Cam Túc vốn
thiếu lương, lại
thêm loạn lạc nên
canh nông bị phế
bỏ ; kỵ binh Hồi ra
vào vùng Lũng tây,
Lũng đông chặn cướp
lương thực tiếp tế,
quan binh mấy lần bị
đánh bại. Triều
Thanh bất đắc dĩ
phải giao cho Dương
Nhạc Bân, thuộc
Tương quân, làm Tổng
đốc. Dương vốn chỉ
huy thủy sư, dùng
sai sở trường, nên
không thi thố được
gì. Từ năm 1866-1867
quân Niệm từ phía
tây đến, Hồi tại
Thiểm Tây lại dấy
lên, nổi danh có Mã
Nhan Hổ cấu kết với
Mã Hóa Long, Ðổng
Phúc Tường tại Cam
Túc ; nên Tả Tông
Ðường được cử đến để
thay thế Dương Nhạc
Bân.
Chiến lược của Tả
Tông Ðường “Cần đánh
Niệm gấp, đánh Hồi
có thể hoãn ; nhắm
tảo thanh vùng đất
gan ruột, khiến quan
binh không có mối lo
bị đánh phía sau, và
tiếp tế không bị
ngăn trở ”. Năm
1868, Tả từ Thiểm
Tây, mang quân trở
về đông, đánh dẹp
tây Niệm ; sau khi
tây Niệm đãng bình,
lại quay trở về Tây
An. Việc dụng binh
tại vùng tây bắc,
gặp khó khăn vì
không thể tự cung
cấp ; tuy rằng Tả có
đề ra sách lược
“ Vừa phòng, vừa
tiễu, vừa đánh, vừa
canh tác ”, nhưng
đem thực hành thì
không dễ. Bởi vậy Tả
phải nhờ các tỉnh
phía đông tiếp tế,
cùng vay nhà buôn
ngoại quốc 340 vạn
lượng do hải quan
đảm bảo trả, để mua
súng. Trước tiên Tả
bình định giặc tại
phía bắc Thiểm Tây,
hàng Ðổng Phúc
Tường, rồi đánh phá
Hồi tại phía đông
Cam Túc.
Năm 1869, quân Tả
Tông Ðường tiến đánh
đồn Kim Tích tại
Ninh Hạ. Ðồn Kim
Tích gồm 400 tòa
nhà, phía bắc đến
Mông Cổ, thông
thương với nước Nga,
là nơi thâu nhập
hàng hóa Tây phương
cùng pháo súng. Lực
lượng Hồi liều mình
ra sức đánh, quân Tả
Tông Ðường không hạ
được, Ðại tướng Lưu
Tùng Sơn trận vong.
Tháng 1/1871 Mã Hóa
Long lương hết, xin
hàng, bị xử lăng
trì ; Hồi tại Cam
Túc tan rã. Năm
1872-1873, Hồi tại
Hà Châu và Tây Ninh
hàng, năm 1873, Tả
Tông Ðường thu phục
Túc Châu, giết hơn
7000 người Hồi. Ðây
là giai đoạn một
cuộc tây chính của
Tả Tông Ðường, giai
đoạn thứ hai sẽ tiến
quân đến Tân cương.
4. Cuộc viễn
chinh của Tả Tông
Ðường
Trước khi các tỉnh
Thiểm Tây, Cam Túc
được bình định,
triều đình không đủ
sức lo đến tỉnh Tân
Cương [Xinjiang],
sau khi khắc phục
được Túc Châu
[Suzhou, Cam Túc],
Tả Tông Ðường xin
xuất quân ; chiếu
chỉ chấp nhận tây
tiến. Vào thời gian
này Nhật Bản xâm
phạm Ðài Loan ; Lý
Hồng Chương lúc bấy
giờ giữ chức Tổng
đốc Trực Lệ kiêm
nhiệm việc ngoại
giao, nhận định rằng
Nhật Bản là mối lo
lớn của Trung Quốc,
chủ trương tạm đình
tây chinh, chuẩn bị
cho việc phòng biển.
Lý Hồng Chương lập
luận căn cứ theo
thời thế, cùng kinh
tế. Cho rằng bình
định Tân Cương phí
tổn trên 300 vạn
lượng, nếu lấy được
cũng không đáng
gíá ; huống Tân
Cương nằm trong vùng
ảnh hưởng của Anh,
Nga, và các nước Hồi
khác nên rất khó
giữ ; Ðầu mục Hồi, A
Cổ Bách, sẽ liên lạc
với Anh, Nga, không
để cho Trung Quốc
đắc chí. Trước mắt
binh lực, tài lực
không đủ ; nếu dính
dấp vào sợ sinh ra
biến cố khác ; chỉ
nên nghiêm phòng
biên giới hiện hữu,
tìm cách chiêu phủ
Ðầu mục Hồi, công
nhận cho tự trị. Lý
nhấn mạnh “ Tân
Cương không phục
tùng, nguyên khí
Trung Quốc không tổn
thương ; nếu biên
giới tại biển không
phòng, thì mối lo
sâu đến gan ruột.”
Riêng Tả Tông Ðường
có ý kiến rằng trước
mắt việc phòng biển
chưa đến nỗi khẩn
cấp, nếu dừng binh
cố thủ vẫn không bớt
tiêu phí, mà cũng
chẳng có ích cho
việc phòng biển ;
nhưng ngược lại phá
vỡ rào dậu biên
cương tại phía tây.
Trung khu Ðại thần
Văn Tường rất tán
thành lời bàn này,
nên vào tháng 5/1875
triều đình mệnh Tả
Tông Ðường lo liệu
việc quân tại Tân
Cương. Tả Tông Ðường
tâm sự rằng ở tuổi
65 vẫn cương quyết
đảm nhiệm chức vụ
gian nan này, vì ông
nhận thức rằng đây
là tiền đồ của việc
quốc phòng “ Thời
thịnh của Trung Quốc
đều vững tại miền
tây bắc, đến lúc suy
thường mất miền tây
bắc trước ; chỉ lo
giữ đông nam là lúc
thế nước yếu, đợi
đến ngày suy
vong ” ; lại nói
“ Vững Tân Cương để
giữ Mông Cổ, giữ
Mông Cổ để bảo vệ
kinh sư.”
Tả Tông Ðường kinh
doanh miền tây bắc,
toàn nhờ các tỉnh
đông nam tiếp tế,
quan trọng là Thượng
Hải, Quảng Châu.
Lệnh vua mỗi năm
phối hợp điều 500
vạn lượng, nhưng
thực tế đưa đến
khoảng dưới 300 vạn
lượng. Nhân vì đường
xa, vận tải khó khăn
nên không muốn dùng
quá nhiều quân, bèn
cho thải người yếu,
giữ người khỏe, tổng
cộng khoảng 7 vạn
quân, một bộ phận
dùng súng Tây dương,
mua từ Thượng Hải.
Vào tháng 4/1876
quân Tả Tông Ðường
từ Lan Châu
[Lanzhou, Cam Túc]
tiến tới Túc Châu,
với chiến lược hoạch
định sẵn “ Chuẩn bị
chậm, nhưng đánh
nhanh ”. Riêng A Cổ
Bách lợi dụng quân
Hồi Thiểm Tây giữ
miền bắc lộ, còn
quân chủ lực thì giữ
nam lộ. Vào tháng 8
quân của Tả đại phá
Bạch Nhan Hổ rồi
thừa thắng thu phục
Ô Lỗ Mộc Tề [Urumqi,
Tân Cương]. A Cổ
Bách bèn tập trung
quân tại A Lỗ Phiên
[Turpan, Tân Cương],
năm sau lại thất
bại. Vào tháng
5/1877, A Cổ Bách
chết, quân Hồi xẩy
ra nội loạn rồi đi
đến sụp đổ. Tháng
12, con của A Cổ
Bách trốn vào nước
Nga ; tỉnh Tân Cương
bị mất trong vòng 13
năm, được Tả Tông
Ðường thu phục.
Tả Tông Ðường thành
công do bởi các yếu
tố sau đây : Thứ
nhất, A Cổ Bách tuy
thiện chiến nhưng
binh lực tài lực
không đủ, dân Hồi bị
vơ vét nhiều nên
trong lòng ly tán.
Thứ hai, cuộc nổi
dậy không được cấp
ngoại viện một cách
thiết thực ; nước
Anh lo rằng nước Nga
sẽ can thiệp, nên
chỉ giao thiệp ngoại
giao cùng cung cấp
vật tư tượng trưng.
Nước Nga từng giúp
cho vũ khí, nhưng
sau thấy thế thua
của Hồi đã rõ, lại
bận việc binh tại
Thổ Nhĩ Kỳ, nên
không muốn sa vào
cuộc tranh chấp tại
Tân Cương. Thứ ba,
Tả Tông Ðường ý chí
quả quyết, kế hoạch
chu mật, được Thanh
triều cực lực chi
trì. Tương quân chủ
tướng Lưu Cẩm Ðường
giỏi dụng binh, cuối
cùng thì đạo quân
Tương Ðàm sinh
trưởng từ vùng lúa,
cá Hồ Bắc, Hồ Nam,
dương oai diễu võ
thành công tại vùng
gió cát, ruộng đá
nơi tây bắc
Tổng quan về binh
họa và sự thay đổi
cơ cấu
quân sự trong 28 năm
chiến tranh
Từ năm 1850 đến
1878, Trung Quốc
trải qua cơn biến
loạn hoặc toàn bộ,
hoặc cục bộ; nhân
dân phải gánh chịu
sự tổn thất to lớn
về sinh mệnh tài
sản. Vùng đất trù
mật thuộc lưu vực
sông Trường Giang là
nơi quân Thái Bình
Thiên Quốc và quân
Thanh qua lại tranh
đoạt nhiều lần; nếu
tính thời gian tỉnh
Hồ Nam phải chịu
đựng chiến tranh 4
năm, Hồ Bắc khoảng 5
năm, Giang Tây 8
năm, An Huy, Giang
Nam 12 năm, Chiết
Giang khoảng 5 năm.
Ngoài ra các tỉnh
khác thì Quảng Ðông,
Quảng Tây chịu binh
hỏa lâu nhất ; thứ
đến Tứ Xuyên, Quý
Châu, Vân Nam, Tân
Cương, Cam Túc, Hà
Nam, Thiểm Tây, Sơn
Tây, Trực Lệ ; tỉnh
chịu đựng nhiều
khoảng 7,8 năm ; ít
thì 2,3 năm.
Tiêu biểu, Chiết
Giang trước kia là
tỉnh no ấm, bị chết
đói và binh đao quá
nửa. Hàng Châu vốn
được gọi là thiên
đường, cư dân trên
80 vạn giảm xuống
còn vài vạn. Vùng
Giang Tây mấy trăm
dặm “ không nghe
tiếng chó kêu, gà
gáy ; chỉ thấy dân
chết đói bên
đường ”. Tăng Quốc
Phiên nói “ Bị hại
bởi giặc khoảng bảy
tám phần, bị hại bởi
binh khoảng hai, ba
phần ” ; với cái
nhìn công bằng có
thể nói mỗi bên gây
hại một nửa. Cứ theo
thống kê của quan,
dân số tỉnh Giang Tô
năm 1851 ước 44
triệu 30 vạn, tỉnh
Chiết Giang 30
triệu ; sau loạn vào
năm 1874 dân tỉnh
Giang Tô dưới 20
triệu, Chiết Giang
còn chưa đến 11
triệu ; nếu thống kê
này có thể tin được
thì dân số hai tỉnh
đã giảm xuống khoảng
hơn 40 triệu, từ đó
có thể suy ra toàn
quốc, số lượng chết
về binh hỏa, chết
đói, thật khủng
khiếp !
Ðại loạn ảnh hưởng
rất lớn đến chính
trị, quân sự. Ðiều
hiển nhiên dễ thấy
là quân chính quy
nhà Thanh bị suy
sụp, thay vào đó là
luyện dõng địa
phương như Tương
quân, Hoài quân ;
hoặc lực lượng vũ
trang của tư nhân
như quân của Sầm Dục
Anh tại Vân Nam. Bát
kỳ của Mãn Thanh chỉ
còn tên gọi, Lục kỳ
quân Hán cũng hủ
hóa ; sau hai lần
thất bại lớn tại
Giang Nam, quân
chính quy hầu như
suy sụp đến toàn bộ.
Thay vào đó Tương
quân bảo vệ Hồ Nam,
tảo thanh Hồ Bắc,
Giang Tây, An Huy,
Chiết Giang ; Hoài
quân cùng Tương quân
hợp tác bình định
Giang Nam, Phúc Kiến
và quân Niệm tại
phía bắc Trường
Giang. Còn như việc
bình định vùng tây
nam, tây bắc như
Quảng Tây, Vân Nam,
Quý Châu, Tứ Xuyên,
Thiểm Tây, Cam Túc,
Tân Cương đều do
Tương quân đảm
trách. Nói tóm lại
trong thời gian 20
năm dẹp loạn, không
chỗ nào mà không nhờ
đến quân Tương,
Hoài ; nhờ đó vận
mệnh triều Thanh kéo
dài được thêm 50 năm
nữa.
Triều Thanh đã dựa
vào quân Tương, Hoài
để tiễu bình nạn
lớn, Tương quân tham
chiến trong 18 tỉnh,
Hoài quân được điều
động tại hạ lưu sông
Trường Giang và
Hoàng Hà ; quân
Tương, Hoài được lưu
lại tại các tỉnh
quan trọng để phòng
giữ, trở thành những
đơn vị mạnh, được
gọi là “ dõng
doanh ”. Vì Lục
doanh chỉ đặt cho có
lệ mà không thu được
hiệu quả, nên các
tỉnh, bắt đầu từ
Trực Lệ, phỏng theo
quân Tương, Hoài để
cải cách quân binh
này về lãnh vực huấn
luyện và biên chế.
Thực ra thì Lục
doanh và Tương, Hoài
đều có những điều
hay dở. Lục doanh
thì quan được điều
bổ đến, lính người
địa phương, là quân
đội quốc gia, quân
không do tướng tuyển
dụng ; quan không
giữ chức lâu, lính
do cha truyền con
nối ; không được
huấn luyện, tâm chí
bất đồng. Khi gặp
việc thì chinh điều
tuyển mộ, lính với
lính không thân
quen, tướng với quân
không hiểu biết, nên
không đoàn kết, chỉ
huy không hiệu
nghiệm, thì khó có
thể nói chuyện chiến
đấu. Quân Tương,
Hoài trên dưới một
lòng, như cha anh và
con em “ Tướng
và lính thân mật,
mọi người nức lòng
bảo hộ kẻ đứng đầu ;
tướng còn thì quân
vững, tướng mất quân
tan” tạo
thành một tổ chức
lợi hại, người người
đều liều mình. Ðiều
tệ hại là vũ lực của
quốc gia biến thành
phương tiện của tư
nhân.
Từ năm 1860 trở về
trước, phần lớn Tổng
đốc, Tuần phủ xuất
thân từ Bát kỳ Mãn
Thanh, sau khi hai
doanh lớn tại Giang
Nam thất thủ, số
lượng giảm dần, cuối
cùng chỉ còn lại 1
hoặc 2 %. Thay vào
đó các nhân vật
thuộc hệ thống
Tương, Hoài được bổ
dụng tại phần lớn
các tỉnh. Lực lượng
này không chỉ lớn
mạnh tại địa phương
mà còn ảnh hưởng đến
trung ương ; tuy
rằng trên giấy tờ
triều đình có quyền
bổ nhiệm hoặc truất
phế các quan lại địa
phương, nhưng gặp
những việc lớn cũng
phải tham khảo, tôn
trọng ý kiến của họ.
Hồ Bạch Thảo
1 Cải thổ
quy lưu : ban
hành vào thời
Minh, tại vùng
dân tộc thiểu số
bỏ Thổ quan
người địa
phương, đưa lưu
quan đến cai
trị.
2 Bảo gia
tiền : tiền đóng
cho đoàn luyện,
để giúp bảo vệ
gia đình.
3 Di : chỉ
các dân tộc
thiểu số khác.
4 Thanh
Hải : tỉnh Thanh
Hải mới lập năm
1929, trước đó
thuộc tỉnh Cam
Túc.
5 Ninh Hạ :
hiện nay là Ninh
Hạ Hồi tộc tự
trị khu, nằm
giữa hai tỉnh
Thiểm Tây và Cam
Túc.
6 Lũng :
dùng nói tắt cho
tỉnh Cam Túc.
http://www.diendan.org/
| |