1/
Alphabet do người
Phénicie đặt ra đầu tiên
Dân
tộc Phénicie sáng chế mẫu tự đầu tiên:
mẫu tự cổ Pline,
khi đến Hy Lạp, họ cùng với Cadmos thành lập
mẫu tự Hérodote.
Người Phénicie đã
dùng chữ viết để diễn tả lời nói:
Chữ
Lucain
Người Phenicie
đã sáng chế ra mẫu tự của họ từ trên 3000 năm nay,
là ông tổ của tất cả những alphabet của thế giới
hiện nay. Ngay chữ alphabet cũng từ chữ Phénicie
"Aleph" và "Beth", là hai mẫu tự đầu tiên sẽ trở
thành Alpha và Beta của Hy Lạp.
Vùng cận Ðông theo ta
biết, là cái nôi của chữ viết. Người Phénicie nghĩ
ra alphabet phénicien rồi trao cho
người Hy Lạp. Sau đó alphabet dần dần tiến hóa biến
thành mẫu tự Hy Lạp rồi sau đó trở thành
Etrusque và trở thành Latin. Hệ thống alphabet
Runique dùng trong những nước thuộc miền Bắc rồi
làm gốc cho chữ Cyrillique và cũng là nguồn gốc cho
chữ Araméen, sau đó trở thành chữ Hébreu,
chữ Arabe và chữ Ấn độ.
Nguồn gốc alphabet Ai Cập,
có 25 dấu nguyên âm nhưng họ không
dùng để làm mẫu tự.
Chữ viết
cunéiforme
được dùng ở Mésopotamie.
Chữ viết do người Sumérie chế ra, được in
trên đất sét và có hình dạng những chiếc
đinh hay dạng hình góc (cunéus).
Chữ viết này được người akkadien dùng. Người
Hittite cũng dùng lối chữ viết hình góc này
cho chữ viết của họ
Cho dù chữ "alphabet" của người
Hy Lạp (alpha và bêta là hai mẫu tự đầu tiên của alphabet) nhưng
chính người Phenicie truyền cho người Hy Lạp sự hiểu biết này để họ
truyền tiếng nói của họ cho người Hy Lạp. Truyện kể rằng xưa kia
Cadmos đến Hy Lạp và tặng sự hiểu biết này làm quà văn hóa của ông
cho họ để họ cho ông biết tin tức về em gái ông bị bắt cóc. Truyện
này cũng tương ứng với nhà sử học Hérodote đã viết: "Những
người phénicien cùng với Cadmos tới (Hy Lạp) và truyền mẫu tự mà theo
tôi nghĩ là từ trước giờ chưa có". Vài thế kỷ sau Hérodote đến phiên
nhà bác học La Mã Pline viết: "Dân tộc phénicien đã đặc biệt sáng chế
ra các mẫu tự"
Hệ thống mẫu tự được người
phénicien sáng chế đầu tiên vào thế kỷ thứ 12 trước Công
Nguyên.
Alphabet phénicien gồm
22 mẫu tự (các phụ âm). Viết từ trái sang phải như chữ A rập
và hébreu.
Chỉ có những phụ âm bởi vì
tiếng nói của họ có rất ít nguyên âm và
mỗi chữ cho ra một âm
** Cách đọc chữ phénicien:
Năm 1758
bí mật của nguồn gốc alphabet được ông cố đạo Barthélémy khám
phá ra, nhờ ông đọc và khảo cứu các bài văn song ngữ (bản viết Hy
Lạp-Phénicie của Malte) cùng với các huyền thoại khắc trên đồng
tiền. Trước tiên ông thử tìm đọc các tên họ để xác định vị trí
các chữ số đầu tiên. Ông đoán rằng tiếng phénicien giống tiếng
hébreux, rồi đi từ nguyên tắc alphabet này có 22 chữ cái, ông
chỉ ghi nhận những phụ âm và nhận dạng lnhững phụ âm để viết tên họ
(Tyr, Melqart...). Ông nhận dạng vài chữ đơn giản và so sánh với văn
bản Hy Lạp để cuối cùng giúp cho ông đọc được nguyên bài văn và phân
biệt được tất cả các mẫu tự Phénicie.
** Giá trị của chữ phénicien:
Alphabet phénicien làm căn bản cho alphabet
Hy Lạp. Alphabet Hy Lạp thêm vô những nguyên âm và là căn bản cho
alphabet
Araméen, alphabet này lại sản sinh ra Hébreu và Arabe
Cái khó khăn
nhất khi đọc mẫu tự phénicien là thiếu các bài văn. Chỉ có những câu
khắc trên bia mộ vua chúa, những bài dâng lên thần thánh và những
bài viết cho đám tang tìm ra trên các công trình và khắc trên đá . Nhiều
bản khắc cũng được bắt gặp ở nhiều nơi trong vùng Địa Trung Hải. Cái
hay là đọc được thư từ hay giấy trao đổi buôn bán nên đó là lý do khiến
alphabet phát triển và quảng bá trong thế giới cổ.
** Những bản khắc chữ phénicien:
 |
Trên quách khắc để ghi nhớ vua Ahiram xứ
Byblos, do con ông khắc vào năm 1000, được
coi là bản khắc chính thức của người xứ Phénicie. |
Trong số các bản khắc nổi tiếng nhất, có
bản khắc ghi nhớ vua Ahiram xứ Byblos, do con ông
khắc trên quách vào năm
1000, được coi là bản khắc chính thức của người xứ Phénicie. Bản
khắc này dùng 19 mẫu tự (trên 22) và có những dấu gạch
ngang ngiữa những chữ. Có những bản khắc khác cũng
của vua Sidon, Echmounazor II, thế kỷ thứ 5 trước Công
nguyên, khắc những lời cảnh cáo cho những kẻ cướp mồ. Tuy viết trước
năm trăm năm nhưng chữ viết tiến bộ hơn.
Thời kỳ đó bắt đầu xuất hiện sự đúc tiền, cũng là một cớ để
họ ghi tên vua và tên các thị trấn. Từ khi
Alexandre Le Grand
tới xâm chiếm, năm 332
trước CN, tiếng Phénicie bị thay thế bằng tiếng Hy Lạp, nên chữ Phénicie ít
dùng dần tuy cũng cầm cự cho tới cuối thế kỷ 10 và tiếp tục đến thế kỷ 12,
13.
 |
Mộ vua Sidon,
Echmounazor II, thế kỷ thứ 5 trước Công
nguyên, khắc những lời cảnh cáo cho những kẻ cướp mồ |
2/ Sự truyền bá alphabet phénicien:
Từ thế kỷ X trước Công nguyên, các nước
láng giềng lấy alphabet phénicien để ghi những bia khắc của họ (Araméen,
Hébreu, dân Transjordanien). Alphabet càng ngày càng phát triển và
có hình dạng rõ ràng. Chữ viết được những người Assyrie dùng rồi tới
người Phổ (Perse) trong nguyên cả phía đông của đế quốc của họ, từ
Ai Cập cho tới Babylone, trong nhiều thế kỷ trước khi bị chữ Arabe
thay thế với sự chinh phục của đạo Hồi giáo.
Cái thuận lợi cho sự
phát triển và truyền bá chữ phénicien là những người dân buôn
phénicien đi khắp vùng biển và eo biển đi tìm khách mới cho hàng hóa
của họ sản xuất. Có các bảng khắc chữ Phénicie hầu hết
miền Địa Trung Hải, từ thế kỷ thứ 9 trước CN trên những công trình
tại Chypre và Alep, thế kỷ thứ 8 tại Anatolie và Sardaigne,
rồi tới Mésopotamie, Hy Lạp, Ý, Tây Ban Nha, Ai Cập.
Sự chuyển alphabet của
người phénicien cho người Hy Lạp xảy ra vì người Hy Lạp đã quên cách
dùng chữ của họ vì thành phố Mycènes bị xâm chiếm và bị phá tan tành
bởi người Doriens khoảng đầu thế kỷ 12 trước CN. Vì vậy họ nhận
alphabet phénicien, nhưng phải thêm vô các nguyên âm để có thể
viết được tiếng nói của họ. Sau đó, những người Ètrusques truyền
cho người La Mã và những người này đã sửa đổi để thích hợp hơn để
thành alphabet latin mà các dân tộc Âu châu đã truyền bá cách dùng
khắp nơi trên thế giới

3/ Các loại alphabet:
 |