Những bài cùng tác giả
Thế nào là một công trình khoa học? Yêu cầu đầu tiên
khi xây dựng khoa học là cần hiểu cho đúng thế nào
là một công trình khoa học. Trong hoạt động thực tế
có nhiều việc muốn làm tốt cần phải nghiên cứu,
nhưng không phải bất cứ việc nghiên cứu nào cũng gọi
được là công trình khoa học.
Có những việc bình thường mà trong tình hình nào đó
cần xem trọng và cấp kinh phí đáng kể để nghiên cứu
thực hiện thì cũng không sao (như đánh số nhà trong
thành phố, ghi lại lịch sử chính phủ bằng hình ảnh,
v.v.), nhưng nếu vì thế mà nâng lên thành đề tài
khoa học, thậm chí cấp nhà nước, thì không những
không thuyết phục được ai mà còn hạ thấp giá trị
khoa học của ta trong con mắt quốc tế.
Lại có những việc tuy đòi hỏi hiểu biết khoa học,
công nghệ khá phức tạp nhưng trên thế giới đã có sẵn
lý thuyết và công nghệ chế taọ rồi (như máy bay nhỏ,
tamiflu, hay chiếc vi tính VT1 trước đây, v.v.), nếu
ta phải tự làm và làm được thì rất đáng mừng vì nó
chứng minh khả năng của ta (tuy về những mặt khác có
thể còn vấn đề phải bàn), nhưng muốn kể là thành tựu
khoa học thì cần làm rõ trong đó ta đã phát triển
thêm được điều gì mới về lý thuyết hay công nghệ có
thể công bố hoặc đăng ký bản quyền trên quốc tế để
được thừa nhận.
Cam gọi là cam, quýt gọi là quýt
Thật là nhầm nếu nghĩ rằng cái nhãn “nghiên cứu khoa
học” có thể làm tôn thêm giá trị, ý nghĩa của một
công trình. Có những nghiên cứu khoa học hoàn toàn
vô giá trị, trái lại có những ứng dụng thuần túy
nhưng hết sức đáng quý vì có lợi ích to lớn. Vấn đề
là cái gì ra cái ấy, cam thì gọi là cam, quýt thì
gọi là quýt. Nếu cứ lẫn lộn cái nọ với cái kia thì
sẽ gặp khó khăn trong đánh giá, so sánh, và do đó
cạnh tranh, hợp tác, hội nhập.
Chính sự nhập nhằng ấy ảnh hưởng nghiêm trọng đến
chất lượng đào tạo và trình độ, năng lực đội ngũ
những người làm khoa học (số khá lớn tiến sĩ đã đào
tạo trong nước và GS, PGS được công nhận thời gian
qua đều cách xa trình độ quốc tế). Đồng thời đó cũng
là một nguyên nhân gây lộn xộn trong phân phối đầu
tư cho khoa học, khiến 5 năm vừa qua tuy ngân sách
khoa học tăng liên tục mà khoa học không có được
bước tiến tương xứng, vì phần kinh phí thực tế dành
cho khoa học theo đúng nghĩa quá ít.
Với cách xây dựng khoa học xô bồ này, ai cũng có thể
tự phong là nhà khoa học, dễ hiểu là số nhà khoa học
của ta đông gấp 3 Thái lan mà đóng góp khoa học của
ta lại quá kém so với họ.
Ai thẩm định? Thế nào là mới?
Chuẩn mực quốc tế thông thường của một công trình
khoa học. Gần đây trên báo chí trong nước đã có một
số nhà khoa học đề cập vấn đề này một cách nghiêm
túc ([1], [2].[3].[4]). Chắc chắn các bài ấy cung
cấp nhiều thông tin bổ ích cho phần đông các nhà
quản lý khoa học và giáo dục của chúng ta, kể cả ở
cấp cao. Tôi rất tán thành quan điểm và nhiều nhận
định cơ bản trong các bài báo ấy, tuy nhiên cũng xin
góp thêm một số ý kiến, chủ yếu để làm rõ và để
tránh hiểu lầm, có thể dẫn đến nhận định thiếu thỏa
đáng, một số vấn đề về tình hình khoa học trong
nước.
Để dễ bàn, sau đây xin giới hạn trong các lĩnh vực
khoa học có tính quốc tế như khoa học tự nhiên, kinh
tế, y, dược, v.v. Dựa theo hiểu biết và kinh nghiệm
qua mấy thập kỷ làm việc trong ban biên tập của một
số tạp chi quốc tế, tham gia các hoạt động quốc tế
về chuyên ngành của mình và trao đổi, hợp tác nghiên
cứu, giảng dạy ở một số đại học lớn ở Phương Tây,
tôi xin giới thiệu một cuốn sách đã bàn kỹ về các
vân đề này, và tuy ra đời gần 20 năm nay nhưng vẫn
còn rất thời sự, đó là cuốn “Où va l’université ?”
(Đại học đang đi về đâu ?) , Báo cáo của Ủy ban quốc
gia Pháp về việc đánh giá các đại học, 1987, do L.
Schwartz, một trong những nhà toán học lỗi lạc của
thế kỷ XX, làm chủ tịch. Trong cuốn này có hẳn một
mục (trang 167-152) về “Đánh giá các nghiên cứu khoa
học”.
Thông thường ở các nước tiên tiến, người ta xem là
công trình khoa học những kết quả nghiên cứu đã được
công bố dười dạng bài báo (article) trên các tạp chí
khoa học quốc tế. Ở đây tạp chí khoa học quốc tế
được hiểu là những tạp chí có cơ chế thẩm định
nghiêm túc và được điểm duyệt (review) thường xuyên
trên các tạp chí điểm duyệt quốc tế đã được thừa
nhận rộng rãi (như Mathematical Review đối với
toán).
Cơ chế thẩm định đòi hỏi mỗi bài gửi đăng trên tạp
chí, bất kể của ai, kể cả của Tổng biên tập, đều
phải được giao cho it nhất hai thẩm định viên
(referee), tức là chuyên gia am hiểu cùng lĩnh vực
(mà tòa soạn phải giữ kín tính danh để bảo đảm khách
quan) xem xét kỹ, về cả nội dung chi tiết, cách
trình bày và ngôn ngữ (thường là tiếng Anh) và có
nhận xét bằng văn bản, đánh giá bài báo có giá trị
đáng đăng hay không, có cần sửa chữa, bổ sung gì
trươc khi đăng, hay không đủ giá trị để có thể đăng
được.
Chỉ cần một referee không chấp thuận cho đăng thì
thường bài báo bị từ chối. Không phải chỉ cần bài
báo không sai và đưa ra được một kết quả mới là có
thể đăng được, mà cái mới ấy còn phải là một đóng
góp thật sự ý nghĩa (significant) thì mới đáng đăng.
“Mới” ở đây là mới so với thế giới, và giá trị của
nó phải đạt mức tối thiểu đòi hỏi đối với một công
trình khoa học về lĩnh vực đó
Bên cạnh các bài báo đăng trên tạp chí, còn có các
công trình khoa học dưới dạng sách chuyên khảo, tổng
kết nhiều nghiên cứu rời rạc trong một lĩnh vực
thành lý thuyết, hoặc tập hợp các nghiên cứu của một
hoặc nhiều tác giả xung quanh một số chủ đề quan
trọng.
Mấy thập niên gần đây, do quy mô nghiên cứu trên
toàn cầu tăng lên quá nhanh, số tạp chí quốc tế dù
ngày càng nhiều vẫn không đáp ứng yêu cầu đăng kịp
thời các kết quả nghiên cứu có giá trị, cho nên hình
thức tuyển tập chuyên khảo ngày càng phổ biến.
Việc xuất bản các tuyển tập chuyên khảo này cũng
phải tuân thủ các nguyên tắc làm việc như các tạp
chí quốc tế, nghĩa là cũng có ban biên tập và cơ chế
thẩm định nghiêm túc, chỉ khác là không ra đều kỳ.
Các tóm tắt báo cáo trong các hội thảo quốc tế, đăng
trên các tập kỷ yếu hội nghị, thường không được coi
là công trình khoa học nghiêm túc. Tuy nhiên, nếu
sau hội thảo một số báo cáo có chất lượng được chọn
lọc qua một quy trình thẩm định nghiêm túc để in
thành tuyển tập chuyên khảo, thì các báo cáo ấy cũng
được kể như các bài báo đăng trên các tạp chí quốc
tế.
Đừng sáng tạo cách thẩm định không giống ai!
Trên nguyên tắc thì chặt chẽ như vậy, và phần lớn
các tạp chí đều làm việc theo cách đó, nhưng trong
thực tế cũng không tránh khỏi nhiều trường hợp thiếu
nghiêm túc và thiếu khách quan. Chẳng hạn, lẽ ra chỉ
các chuyên gia thật giỏi trong từng lĩnh vực mới
được mời thẩm định, song vì các chuyên gia này
thường quá bận, nên có nhiều bài, nhất là bài của
các tác giả còn vô danh, phải nhờ cả những chuyên
gia hạng thường tham gia thẩm định.
Những khó khăn thực tế đó dẫn đến một số trường hợp
thẩm định sai, tác giả khiếu nại, tòa soạn phải thẩm
định lại. Nhiều trường hợp khác, do những quan hệ
quen thân cá nhân nào đó có những bài chất lượng
kém, thậm chí sai căn bản, mà vẫn được đăng. Dù sao
những trường hợp như thế cũng không nhiều.
Tình trạng phổ biến hơn là bài của các tác giả ở các
trung tâm nổi tiếng hay các nước phát triển thường
được xử lý nhanh và dễ dàng hơn nhiều so với bài của
các tác giả ở các nơi ít nổi tiếng, hoặc thuộc các
nước chậm phát triển. Sự bất bình đẳng này, với
nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có phần định
kiến sai lệch, đã được một số nhà khoa học quốc tế
chỉ trích, bản thân tôi cũng đã có lần đề cập trong
một bài phỏng vấn đăng trên tạp chi The Mathematical
Intelligencer số 3 năm 1990, song cho đến nay tình
hình vẫn chưa được cải thiện gì.
Mặc dù còn có những hạn chế và khiếm khuyết như vậy,
song cho đến nay chưa có cách nào tốt hơn để đánh
giá các công trình khoa học trên thế giới.
Các hội đồng của ta đang “định lượng” công trình một
cách thô thiển
Các tiêu chuẩn đánh giá một nhà khoa học. Đương
nhiên cơ sở chủ yếu để đánh giá trình độ, đóng góp
khoa học của một cá nhân hay tập thể là các công
trình khoa học.
Khoảng ba bốn chục năm nay, cùng với sự tiến bộ của
công nghệ thông tin, đã xuất hiện và ngày càng được
phổ biến một loạt tiêu chuẩn định lượng để đánh giá
trình độ và mức độ hoạt động của một nhà khoa học.
Thứ nhất, là số lượng bài đã công bố trên quốc tế kể
từ khi nhà khoa học bước vào nghề và số lượng bài
công bố mấy năm gần đây nhất (thông tin này có trên
mạng và được cập nhật thường xuyên).
Chẳng hạn trong ngành toán, một PGS ở một đại học
trung bình ở các nước tiên tiến thường phải có it
nhất 10-15 công trình khoa học, một GS thường phải
có 25-30 công trình (đó là ngành toán, hiện nay, còn
các ngành khác thì tôi không có thông tin; theo ông
Nguyễn Văn Tuấn [1] hiện nay một GS ngành y ở các
nước tiên tiến phải có khoảng 50 công trình trở lên
?) . Tuy nhiên, các con số đó chỉ có ý nghĩa định
mức xấp xỉ để tham khảo và hơn nữa thường khác nhau
tùy nơi, tùy ngành và tùy thời gian.
Trước đây nửa thế kỷ một nhà toán học sau 30 năm làm
việc mà có 50-60 công trình đã thuộc đẳng cấp cao,
còn bây giờ, chắc phải đến 70-80 công trình. Hơn nữa
đó chỉ là về mặt số lượng mà ai cũng biết mười bài
báo xoàng không bằng một bài báo xuất sắc.
Vì vậy khi đánh giá trình độ khoa học, không chỉ số
lượng mà chất lượng các công trình mới thật sự quan
trọng, mà điều này thì chỉ có các chuyên gia am hiểu
mới xác định được, cho nên cuối cùng sự đánh giá
định tính của các chuyên gia am hiểu bao giờ cũng là
yếu tố quan trọng hàng đầu để cân nhắc. Ý kiến chung
của giới khoa học quốc tế là các tiêu chuẩn định
lượng cũng giống như, đối với thầy thuốc, nhiệt độ,
kết quả xét nghiệm máu của bệnh nhân, đương nhiên
cần phải tham khảo nhưng đó không phải mà có khi còn
xa mới là tất cả thông tin cần biết. Công trình khoa
học không thể cân, đo, đếm máy móc, theo kiểu làm
của chúng ta lâu nay trong các hội đồng như Hội đồng
chức danh GS, hoặc hội đồng chấm thầu đề tài khoa
học. Với cách đánh giá thô thiển đó sẽ không có gì
lạ nếu khoa học khó phát triển mạnh, lành mạnh.
Một tiêu chuẩn định lượng thứ hai là chỉ số trích
dẫn CI (citations index), tức số lần các công trình,
hay tên của nhà khoa học, được trích dẫn bởi các
đồng nghiệp. Gần đây chỉ số CI được quảng cáo nhiều,
nhưng chưa có ích lợi rõ khi xét các hồ sơ khoa học
cá nhân. Vì nhiều lý do. Chẳng hạn, có những tác giả
trình độ kém, nhưng đăng lọt được nhiều kết quả sai
lầm trên một số tạp chí quản lý lỏng lẻo thì rất có
thể chỉ số CI của họ cao hơn nhiều người khác chỉ vì
các sai lầm của họ được nhiều người nhắc đến để phê
phán hoặc tránh.
Tự trích dẫn tràn lan
Một hiện tượng khác làm sai lệch ý nghĩa CI là nhiều
tác giả có xu hướng trích dẫn vô tội vạ các công
trình của chính mình và của các tác giả nổi tiếng,
dù không liên quan gì đến nội dung nghiên cứu trong
bài. Bản thân tôi đã từng gặp hai trường hợp tiêu
cực như sau.
Năm 1964 trong một bài báo trên Doklady của Liên Xô
đã được dịch đăng lại ở Mỹ, tôi có đưa ra một lát
cắt để giải quy hoạch lõm, sau đó hai năm một tác
giả ở Mỹ dùng lát cắt ấy nhưng thay đổi đôi chút
cách trình bày rồi gọi nó là lát cắt lồi (convexity
cut). Thế là cái tên này và tác giả của nó cứ được
trích dẫn thoải mái, và phải đợi đến hơn mười năm
sau những tác giả có uy tín lấy tên tôi đặt tên cho
lát cắt ấy, thì từ đó mới có sự trích dẫn đúng đắn,
tuy sự trích dẫn sai vẫn còn tiếp tục một thời gian
do quán tính.
Lại nữa, năm 1974, cũng trong tạp chí Doklady tôi có
công bố một định lý minimax tôpô, kết quả này liền
sau đó cũng đã được dịch đăng lại ở Mỹ, và được một
số tác giả sử dụng. Nhưng năm 1986 tôi tình cờ phát
hiện kết quả ấy được “phát minh” lại nguyên xi, chỉ
thay đổi toàn bộ ký hiệu, bởi hai tác giả Mỹ trong
một bài đăng trên tạp chí khá nổi tiếng Proc. Amer.
Math. Soc. số 94 (1984), 337-380. Khi tôi viêt thư
báo cho tòa soạn tạp chí này biết chuyện, thì thật
ngạc nhiên họ chỉ trả lời là đã thông báo sự việc
cho hai tác giả kia. Rồi mọi chuyện dừng ở đấy,
khiến nhiều năm sau vẫn có người tiếp tục trích dẫn
kết quả theo bài trên Proc. Amer. Math. Soc. Không
còn cách nào khác, cuối cùng tôi đã phải nói rõ việc
này trong mấy bài nghiên cứu về minimax. Như vậy chỉ
số CI không phải bao giờ cũng đáng tin cậy. Hơn nữa
thông tin của hai tổ chức chuyên cung cấp các chỉ số
CI là ISI (Inst. of Scientific Ìnformation) và CHI
(Computer Horizon Incorporation) ít khớp nhau do sử
dụng các phương pháp tính khác nhau.
Vì những lẽ tương tự, chỉ số ảnh hưởng IF (impact
factor), phản ảnh tổng số lần các bài báo đăng ở một
tạp chí nào đó được trích dẫn, so với tổng số bài
đăng trên tạp chí ấy, dù cũng đáng tham khảo vẫn còn
nhiều chỗ chưa ổn, nhất là đối với những công trình
đòi hỏi phải có thời gian mới thấy hết tầm quan
trọng. Cần nói thêm rằng những bảng xếp hạng các tạp
chí cũng vậy; chỉ có ý nghĩa tương đối trong từng
chuyên ngành hẹp, mà việc phân định rạch ròi các
ngành khoa học hiện nay rất khó khăn, do các nghiên
cứu liên ngành ngày càng tăng và ngày càng quan
trọng. Chẳng hạn, rất nhiều công trình toán đăng ở
các tạp chí cơ, vật lý lý thuyết, công nghệ thông
tin, toán kinh tế, khoa học quản lý, tối ưu, ..., có
thể ít hay không được trích dẫn trong các tạp chí
toán nhưng lại có thể được trích dẫn nhiều trong các
tạp chí về những ngành có khi rất xa toán. Một
trường hợp đáng chú ý là nhà toán học Nash, giải
thưởng Nobel về kinh tế năm 1994, được xem là một
tài năng toán học lỗi lạc tuy không có nhiều công
trình đã đăng hay được trích dẫn nhiều trong các tạp
chí toán hàng đầu.
Tóm lại, các chỉ số định lượng còn những mặt hạn chế
nên cần được sử dụng thận trọng, tuy đó vẫn là những
thông tin tham khảo rất bổ ích.
“Danh nhân”, “nhân vật trong năm”… đâu mà nhiều thế
?
Khoa học VN đang ở đâu trên quốc tế ? Trong xã hội
ta gần đây đã xuất hiện ngày càng nhiều “danh nhân
thế giới”, “nhân vật trong năm của thế giới”, “bộ óc
vĩ đại của thế kỷ”, “viện sĩ”, v.v. nên nhiều người
cứ tưởng Việt Nam chắc phải có nhiều nhà khoa học
tầm cỡ thế giới lắm.
Song thật buồn và đáng lo, cái danh với cái thực
trong khoa học ở VN khác nhau quá xa (xem chẳng hạn
[3]). Nhiều người đã bị sốc thật sự khi nghe nói
nhiều ngôi sao sáng trong làng khoa học VN lâu nay
cứ tưởng là bác học lớn, hóa ra trên thế giới chẳng
được mấy ai cùng chuyên môn biết đến hoặc đánh giá
cao như vậy.
Thời Pháp mới chiếm nước ta vài ba thập kỷ, ở nhiều
nơi đỗ bằng tiểu học cũng đã được rước về làng theo
kiểu “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”, rồi
đến giai đoạn các ông tú, ông cử tân học được xem
như bậc đại tri thức; kỹ sư, tiến sĩ là bác học. Sau
này, có lúc tiến sĩ khoa học ở Liên Xô về đều được
xem như tài năng xuất chúng, thậm chí có người còn
tự phong “thiên tài”. Dễ hiểu rằng khi nhận thức về
tài năng kiểu như vậy đã cắm rễ quá sâu thì không
thể một sớm một chiều mà thay đổi được, nhất là khi
một bộ phận không nhỏ những trí thức ấy đã trở thành
quan chức có nhiều ảnh hưởng trong xã hội.
Đố ai biết ta có bao nhiêu khoa học gia tầm cỡ quốc
tế
Khi đánh giá trình độ khoa học của một cộng đồng
trong khung cảnh toàn cầu hóa, người ta thường để ý
xem trong đó có bao nhiêu nhà khoa học tầm cỡ quốc
tế (tcqt). Với các tiêu chí định lượng ngày càng
được dùng phổ biến, nhiều người cho rằng một nhà
khoa học như thế phải có nhiều (chính xác bao nhiêu
?) công trình đăng trên các tạp chí quốc tế hạng
cao.
Đương nhiên khi nói tạp chí hạng cao là đã hàm ý
chất lượng, song việc xếp hạng các tạp chí để suy ra
chất lượng vẫn chưa được mọi người nhất trí, mà
trường hợp Nash là một ví dụ như trên đã thấy.
Vì vậy, muốn chính xác hơn thì ngoài tiêu chí định
lượng như trên, còn phải xét sự đánh giá định tính
của các chuyên gia cùng ngành. Sự đánh giá định tính
này được thể hiện nhiều cách như: những nhận xét
khách quan kèm theo sự trich dẫn trang trọng trong
các chuyên khảo của những tác giả có uy tín, việc
được mời tham gia ban biên tập của các tạp chí quốc
tế quan trọng, được mời tham gia các ban chương
trình quốc tế, hoặc làm các báo cáo chính hay toàn
thể (plenary hay key lecture), báo cáo mời (invited
lecture) ở các tiểu ban trong các hội nghị khoa học
quốc tế lớn (nhưng việc được mời thẩm định một bài
báo gửi đăng ở một tạp chí quốc tế thì không thể kể
là bằng chứng về uy tín quốc tế, như tôi đã từng
nghe báo cáo thành tích của vài nhà khoa học trong
nước), được tặng những giải thưởng quốc tế có giá
trị, là tác giả những chuyên khảo nổi tiếng trong
ngành, được bầu là thành viên của những viện hàn lâm
khoa học được đánh giá cao trên quốc tế (viện hàn
lâm đích thực, chứ không phải những hiệp hội khoa
học hay hiệp hội lăng nhăng gì đó mà ở nhiều nước
cũng gọi là academy – và thành viên được bầu trên cơ
sở thành tựu khoa học chứ không phải danh hiệu được
tặng vì các quan hệ ngoại giao hữu nghị).
Với tiêu chí đó, theo tôi ngành toán trong nước có
thể có khoảng 7-8 người tcqt, tập trung phần lớn ở
Viện Toán (đã được Viện Hàn Lâm Thế Giới Thứ Ba công
nhận là một viện xuất sắc – institute of excellence
– trong Thế giới thứ ba từ hơn mười năm nay). Dù sao
đó cũng là con số đáng nể trong khu vực Đông Nam Á,
cho nên, hơi khác với tác giả Nguyễn Tiến Dũng [3],
tôi đánh giá hiện tại toán học VN vẫn còn vị trí cao
ở Đông Nam Á và trong thế giới thứ ba nói chung.
Điều đáng lo nhất là tuổi trung bình quá cao của
những người giỏi trong nước, và không có gì quá đáng
nếu nói rằng ngành toán VN đang có nguy cơ tắt lịm
dần, rồi sẽ đến ngày bị xóa sổ nếu không được hồi
sức kịp thời . Tình hình ngành vật lý có lẽ cũng
tương tự, cho nên khi nhắc đến khoa học VN, các nhà
khoa học quốc tế thường hay nêu đích danh toán và
vật lý. Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là đầu tư
cho khoa học đã tập trung vào hai ngành này, để từ
đó nói rằng đầu tư kém hiệu quả vì hai ngành này
chưa có tác dụng trực tiếp đến kinh tế.
Đề nghị lập viện hàn lâm: các quan chức quá lạc
quan!!!
Những chỉ số định lượng được dẫn ra và phân tích
trong các bài [2,3,4] đã cho thấy rõ mức yếu kém và
lạc hậu đáng lo của khoa học VN so với thế giới và
khu vực, trái với nhận định chủ quan của nhiều quan
chức trong tờ trình đề nghị thành lập viện hàn lâm
cách đây mấy năm. Điều bổ ích nhất, theo tôi, là các
bài ấy đã giúp cho ta thấy cái nhìn khách quan của
thế giới đối với nền khoa học của nước nhà, nhờ đó
có thể thấy rõ hơn ta phải hội nhập, cạnh tranh, hợp
tác trong những điều kiện nào.
Tuy nhiên có một điểm tôi xin nhấn mạnh một lần nữa
là, mặc dù các tiêu chuẩn định lượng rất cần được sử
dụng trong việc xác định trình độ, đóng góp khoa
học, nhưng phải thận trọng để không coi nhẹ mặt định
tính khi đánh giá một nhà khoa học cụ thể. Sở dĩ như
vậy là vi các chí số định lượng dù hoàn hảo đến đâu
cũng không thể chú ý được hết các dị biệt của từng
hoàn cảnh cụ thể và do đó, không bao giờ có thể thay
thế hoàn toàn sự đánh giá định tính của các chuyên
gia am hiểu. Còn khi xem xét một cộng đồng như nền
khoa học của một nước thì khác, vì khi ấy, do tác
dụng của luật số lớn, các dị biệt cá nhân có xu
hướng trung hòa nhau, cho nên các chỉ số định lượng
có nhiều ý nghĩa hơn và cho phép rút ra những kết
luận phù hợp thực tế hơn.
Thế nào là “thuần Việt”
Một điểm nữa là, khi phân tích chỉ số năng lực sáng
tạo (innovation index) mà chỉ xét các bài báo đăng
trên tạp chí quốc tế và các công trình “thuần Việt”
thì có lẽ chưa xác đáng. Như trên đã nói, ngày nay
các tuyển tập chuyên khảo cũng đóng vai trò như các
tạp chí, và với xu thế toàn cầu hóa, sự hợp tác giữa
các nước trở thành bình thường, và cần được khuyến
khích. Nếu một công trình khoa học đứng tên tác giả
nhiều nước, trong đó tác giả người Việt làm việc và
thường trú ở VN chứ không phải ở nước ngoài thì phải
kể như các công trình “thuần việt” khác.
Đương nhiên phần đóng góp của tác giả Việt trong
những công trình đó nhiều hay ít còn tùy trường hợp,
và theo tôi biết, cũng có rất nhiều trường hợp là
phần quyết định. Như ở Viện Toán, một số khá lớn
công trình là như vậy, và đó chính là một điểm mạnh,
chứ không phải điểm yếu, của viện, vì nó thể hiện
mức độ hợp tác cao với bên ngoài (hợp tác bình đẳng
chứ không phải giúp đỡ một chiều). Còn những công
trình chỉ một tác giả người Việt nhưng thường trú và
làm việc ở nước ngoài thì dĩ nhiên hiện nay không
nên kể là “thuần Việt”. Với quan niệm như vậy, bức
tranh về thực trạng khoa học của chúng ta có thể
phần nào chăng sáng sủa hơn so với những gì đã được
biết qua các bài đã dẫn.
Còn điểm đáng mừng: Môi trường không thuận mà chỉ
kém có thế!
Cuối cùng cũng xin nói đôi lời về các điều kiện và
môi trường làm việc hiện nay của các nhà khoa học
Việt Nam so với các bạn đồng nghiệp quốc tế, tạo ra
cho họ một thế bất lợi lớn khi hội nhập và cạnh
tranh. Hiển nhiên trong hoàn cảnh nước nhà hiện tại
các nhà khoa học VN phải chấp nhận làm việc trong
những điều kiện vật chất nghèo nàn và môi trường
khoa học chưa thật sự thông thoáng. Nhưng làm sao
không suy nghĩ khi nghe một nhà khoa học nước ngoài
nhận xét: với đồng lương, điều kiện và môi trường
làm việc như thế mà khoa học của các bạn cũng chỉ
kém đến mức này thôi, thậm chí có đôi chỗ còn vượt
lên trên, thì tôi hiểu tiềm năng của VN còn nhiều
lắm, nếu khai thác tốt VN chắc chắn sẽ thành công
khi bước lên kinh tế tri thức.
Nhớ khó khăn xưa… bao chuyện đau lòng
Thế mà điều kiện và môi trường làm việc của các nhà
khoa học VN bây giờ so với 25 năm trước đây đã khác
xa rồi đấy. Hồi đó, làm được một kết quả gì đã khó,
muốn gửi bài để đăng trên các tạp chí quốc tế còn
khó hơn: tiếng Anh kém, không quen với cách viêt bài
báo khoa học ở Phương Tây, không có giấy trắng chuẩn
cỡ A4, không có máy đánh chữ đánh được các công thức
toán học, không có máy sao chụp để sao thành 3 bản,
v.v..., rồi khi xong mọi việc đó lại vấp phải khó
khăn khi liên hệ thư từ với thế giới (môt bức thư
gửi máy bay ra nước ngoài mất hai tháng, ngược lại
mất 3-4 cho đến vô cực tháng !). Rồi đến cái nạn bài
gửi đăng ở các tạp chí quốc tế bị làm khó dễ đủ thứ,
khiến từ lúc có kết quả đến lúc bài gửi được đăng
thường phải mất 3-4 năm. Tôi còn nhớ lúc đó để khắc
phục một phần những khó khăn, mỗi khi đi công tác ở
Đông Âu thì viện trưởng phải tranh thủ chở về mấy kg
giấy trắng A4, mấy cuộn băng đánh máy chữ, hàng đống
tài liệu sao chụp từ các tạp chí mà trong nước không
thể tiếp cận được, đồng thời hễ có khách nước ngoài
đên viện thì khi họ ra về phải tranh thủ nhờ họ mang
theo hàng chục gói thư, bài, để ra nước ngoài dán
tem và gửi hộ. Đến nỗi có lần Cottle, Tổng biên tập
tạp chí Math. Programming mà khi ấy tôi là một thành
viên ban biên tập, gặp tôi hỏi: tại sao mọi thư từ
của anh gửi cho chúng tôi bao giờ cũng được gửi từ
một thành phố nào khác trên thế giới chứ không cái
nào được gửi từ VN !
Bây giờ thuận lợi hơn: Vẫn còn đau lòng!
Bây giờ không còn những khó khăn đó thì lại xuất
hiện những khó khăn mới: phần lớn các tạp chí quốc
tế dần dần chuyển sang chế độ trực tuyến cả, từ việc
gửi bài, theo dõi kết quả thẩm định, rồi sửa bài
theo góp ý của các thẩm định viên, gửi lại bài đã
sửa, cho đến việc sửa bản in thử, v.v. đều làm trên
mạng – một công việc không phải lúc nào cũng thông
suốt dễ dàng khi kết nối internet chậm chạp và dễ bị
tắc nửa chừng. Chỉ một việc nhỏ như soạn thảo công
trình trên máy vi tính, theo đúng quy cách đòi hỏi
của từng tạp chí, ở các nước thì quá đơn giản nhưng
ở ta vì thiếu phương tiện nên đối với nhiều người
cũng trở thành công việc khá phiền toái và mất thì
giờ.
Thế đấy, cho nên khi nhận định sự kém cỏi của khoa
học VN cũng cần nhìn thấy hết những khó khăn của
người làm khoa học ở nước ta để những gì có thể làm
giảm nhẹ được những khó khăn ấy, cả về vật chất và
tinh thần, mà thật sự không quá tốn kém, thì xin hãy
mở lòng giải quyết cho các anh em còn trẻ và còn sức
cống hiến.
Thật đau lòng nhìn thấy biết bao tài năng trẻ, biết
bao tâm huyết, biết bao khát vọng, mà trong bao năm
đành chịu cho khoa học của đất nước cứ ì ạch từng
bước trong khi thiên hạ đi hài bảy dặm.
Tài liệu dẫn
[1] Nguyễn Văn Tuấn: Thế nào là một bài báo khoa hoc
? Tia Sáng số 17.5.12.2005, 23-26.
[2] Phạm Duy Hiển: VN ít ấn phẩm trên các tạp chí
khoa học quốc tế. /khoahoc/vande/2006/01/532815/
[3] Nguyễn Tiến Dũng: Vài điều suy nghĩ về toán học
Việt Nam, http://zung.zetamu.com (?), Tết Bính Tuất
[4] Đào Tiến Khoa: Tri thức và khoa học Việt Nam
cùng với sự phồn vinh của đất nước, Tia Sáng, số
8.2004, 15-18.
http://www.vietnamnet.vn/giaoduc/2006/05/568167/
|